TRệễỉNG ẹAẽI HOẽC KINH TE TP.HO CH MINH
KHOA O TO SAU I HC
TIU LUN TRIT HC
ti: T TNG TRIT HC CA ARIXTT
GI TR V HN CH
SVTH : DNG BCH HU
STT : 63
LP : UEH_K21_QTKDD5
NHểM : 07
GVHD : T.s Bựi Vn Ma
Tp HCM, Thỏng 02 nm 2012
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
1) Họp nhóm lần 1:
- Ngày: 16/1/2012
- Địa điểm: Cổng Trường ĐH Kinh tế - Cơ sở A Nguyễn Đình Chiểu
- Nội dung họp: Thống nhất dàn bài tiểu luận, các tư tưởng triết học, nội
dung chính về giá trị và hạn chế của tư tưởng triết học Arixtốt sau khi đã
tham khảo tài liệu ở nhà. Đưa ra phạm vi nghiên cứu và sườn bài cụ thể,
bước đầu hoàn thành sườn bài chương 1. Sau đó, nhóm trưởng tổng hợp
lại và mail cho mọi người để chỉnh sửa và hoàn thiện. Trong thời gian
nghỉ Tết, mọi người tìm kiếm, chia sẻ tài liệu.
2) Họp nhóm lần 2:
- Ngày: 1/2/2012
- Địa điểm: Phòng A303 - Trường ĐH Kinh tế - Cơ sở A Nguyễn Đình
Chiểu
- Nội dung: Mỗi thành viên trong nhóm đưa ra quan điểm của mình
nhằm hoàn thiện cho chương 2: Giá trị và hạn chế tư tưởng Arixtốt. Đây
là phần khó, các thành viên trong nhóm đưa ra ý kiến xây dựng giá trị và
hạn chế cho đến khi đạt được thống nhất chung nhất.
3) Ngoài ra:
Nhóm thường xuyên liên lạc, trao đổi thông tin với nhau, chia sẻ tài liệu
thông qua email.
Danh sách triết học nhóm 07:
STT HỌ VÀ TÊN
HỌP NHÓM
LẦN 1
HỌP NHÓM
LẦN 2
GHI CHÚ
61 Phan Thị Hồng
X X
62 Nguyễn Lý Huân
X X
63 Dương Bích Huệ
X X
Nhóm trưởng
64 Nguyễn Phi Hùng
X X
65 Trần Quốc Hùng
X X
66 Bùi Thái Hùng
X X
67 Phạm Xuân Hùng
X X
68 Đinh Thế Hưng
X X
69 Nguyễn Thị Thu Hương
X X
70 Tăng Thu Hương Không tham gia
Người lập biên bản: Nhóm trưởng Dương Bích Huệ – STT: 63
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT
2
1. 1. Thuyết nguyên nhân - Cơ sở của siêu hình học
2
1.2. Vật lý học
3
1.3. Nhận thức luận
3
1.4. Logic học
4
1.5. Nhân bản học
5
1.6. Học thuyết chính trị- xã hội
6
1.7. Đạo đức học
6
1.8 Thẩm mỹ học và những tư tưởng về kinh tế học
7
Chương 2 : GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG ARIXTỐT
8
2.1. Giá trị của tư tưởng triết học Arixtốt
8
2.2. Hạn chế trong tư tưởng triết học Arixtốt:
10
KẾT LUẬN
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
13
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học đã ra đời theo đơn đặt hàng của lịch sử nhằm giải thích cho mọi hiện
tượng, sự vật trong thế giới, đem lại cho con người những tư duy lý luận có ích
cho sự phát triển nhằm giúp con người hiểu sâu hơn về thế giới. Nổi bật trong
các nhà triết học thời trung cổ với các nghiên cứu khoa học sáng tạo và thực tiễn,
Arixtốt đã trở thành một trong những Triết gia tầm cỡ của thế giới, có ảnh hưởng
sâu rộng đến nền học thuật của nhân loại.
Aristotle còn là cha đẻ của nhiều học thuyết và nhiều ngành học có ảnh hưởng
lớn cả đến nền triết học suốt nhiều thế kỷ sau ông. Đó là lý do tôi chọn đề
tài: “Tư tưởng triết học của Arixtốt, những giá trị và hạn chế”.
Dựa trên những hiểu biết đã học trên lớp cộng với việc tham khảo những cuốn
sách như: 1) Giáo trình: Triết học-Phần I Đại cương về lịch sử triết học, Khoa lý
luận chính trị tiểu ban triết học Trường ĐHKT TpHCM, 2011 và các tác phẩm:
2) C.Marx – Engel, Tác phẩm, t.20 (tiếng Nga), C.Marx- Engel, Tuyển tập (gồm
6 tập), t.V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học
Phương Tây, Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, 2006, Ted Honderich (chủ biên), Hành
trình cùng Triết Học, Nxb Văn Hoá Thông Tin - Hà Nội, 2006, V.I. Lênin, Toàn
tập, t.29, Nxb Tiến bộ: Moscow, 1981… và qua việc khái quát những tư tưởng
triết học của Arixtốt, tôi mong muốn tìm hiểu, học hỏi và thể hiện lòng yêu mến
của người viết đối với các triết gia và sự minh triết của nhân loại đồng thời phân
tích những sai lầm mắc phải trong tư duy của triết gia.
Nội dung cơ bản gồm 2 chương:
Chương 1: Tư tưởng triết học của Arixtốt
Chương 2: Giá trị và hạn chế trong tư tưởng của Arixtốt
Bằng phương pháp khảo cứu và trích dẫn tôi đã cố gắng trình bày những sự
hiểu biết nhỏ nhoi của mình về Triết gia Aristotle và nền học thuật của ông. Tuy
nhiên với kiến thức ít ỏi về một môn học vô cùng mới mẽ và rộng lớn, bài viết
khó tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Tôi mong muốn nhận được sự đóng góp
để bài viết được hoàn thiện hơn.
1
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT
1.1. Thuyết nguyên nhân – Cơ sở siêu hình học
Theo Arixtốt tồn tại nói chung xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản: hình dạng,
vật chất, vận động và mục đích [1,111]. Bất kỳ sự vật nào cũng đều phát triển dựa
trên 4 nguyên nhân đó. Tương tự như vậy, bất kỳ sự vật nào cũng có 4 nguyên
nhân trên thì mới có thể tồn tại được.
Trong số các nguyên nhân trên của tồn tại thì nguyên nhân hình dạng là cơ bản
nhất. Nó là thực chất của tồn tại, là bản chất của sự vật. Bản thân nó đã bao hàm
cả nguyên nhân vận động và mục đích. Với việc thừa nhận nguyên nhân mục
đích trong sự phát triển của mọi vật, Arixtốt đã làm cho quan niệm của ông về
tồn tại trở nên thần bí. Như vậy, coi vận động và mục đích chỉ là những khía
cạnh khác nhau của của nguyên nhân hình dạng, Arixtốt đã thừa nhận học thuyết
bốn nguyên nhân chỉ là sự phát triển, cụ thể hóa quan niệm của ông về hình dạng
và vật chất cũng như mối quan hệ giữa chúng.
Trong hai nguyên nhân cơ bản của tồn tại – vật chất và hình dạng, thì Arixtốt
coi hình dạng là nguyên nhân quan trọng hơn, có vai trò quyết định, bởi nó là bản
chất của sự vật. Xác định bản chất của sự vật ông đưa ra hai tiêu chuẩn:
Thứ nhất, bản chất phải là cái được nhận thức trong khái niệm, tức là cái
chung. Góc độ này ông hiểu bản chất của sự vật thuộc về lĩnh vực tinh thần.
Thứ hai, mỗi sự vật đều có đặc tính riêng của mình, do vậy bản chất phải là cái
riêng. Mà theo Arixtốt cái riêng không thể biểu hiện được bằng khái niệm, không
đem lại cho chúng ta một tri thức đích thực nào.
Như vậy, hai tiêu chuẩn trên mâu thuẫn với nhau. Điều này dẫn đến mâu thuẫn
trong quan niệm về mối quan hệ giữa vật chất và hình dạng. Một mặt, ông khẳng
định mọi sự vật trong thế giới đều là sự thống nhất giữa vật chất và hình dạng.
Mặt khác, ông thừa nhận tồn tại “ hình dạng thuần túy” phi vật chất hoàn toàn
thuộc về lĩnh vực tư tưởng, khẳng định có “vật chất đầu tiên” – vật chất phi hình
dạng. Hơn nữa ông còn coi “ hình dạng thuần túy” là động cơ đầu tiên của thế
giới làm cho mọi vật đều có thể vận động được. Đó chính là thượng đế, hay trí
tuệ thuần túy. Đây là điểm triết học của Arixtốt hòa nhập với thần học của ông,
2
làm cho mặc dù ban đầu ông phê phán triết học của Platon là sai lầm nhưng
chính ông lại hòa nhập làm một với triết học đó.
1.2. Vật lý học
Vật lý học được coi là “triết học thứ hai” (hay khoa học về giới tự nhiên) được
xây dựng trên nền tảng của “ triết học thứ nhất” (siêu hình học). Arixtốt cho rằng
giới tự nhiên là toàn bộ các sự vật, quá trình luôn vận động có liên hệ với nhau
và được cấu thành từ một bản thể vật chất. Các sự vật luôn vận động không
ngừng bên trong chúng và thống nhất chặt chẽ về hình dạng và vật chất với sáu
hình thức vận động là phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di
chuyển vị trí.
Arixtốt nhấn mạng rằng “ không thể có vận động bên ngoài sự vật”. Coi giới
tự nhiên là sự thống nhất giữa hình dạng và vật chất. Ông khẳng định không thể
hiểu thế giới tự nhiên nếu không bắt đầu từ sự vận động, và mọi sự vận động đều
mang tính mục đích, đều được sắp xếp ngay từ ban đầu. Những sự bàn luận về
thế giới tự nhiên có vận động hay không vận động chỉ là những ý tưởng thiếu
nghiêm túc. Aristotle cho rằng nguyên nhân của sự vận động nằm ở bên ngoài sự
vật, ban bố cho sự vật những sinh lực khởi động ban đầu. Ông nói:“Hằng ngày
nhìn thấy mặt trời đi qua bầu trời, còn buổi tối là sự chuyển động hài hoà của
các thiên thể khác, không thể không cho rằng có một Thượng đế tạo ra sự
chuyển động và hài hoà ấy”[2,138].
Từ những quan niệm vật lý trên, Arixtốt xây dựng vũ trụ luận của mình. Ông
là người khởi xướng ra thuyết địa tâm coi trái đất là hình cầu, là trung tâm của
vũ trụ.
1.3. Nhận thức luận
Học thuyết của Arixtốt về tri thức được xây dựng trên nền tảng quan niệm về
thế giới của ông. Tác phẩm “siêu hình học” của ông được mở đầu bằng luận
điểm “tất cả mọi người, về bản tính đều khát vọng tới trí thức”, ông cho rằng kẻ
nào không nhận thức được kể đó không phải là người.
Lý luận nhận thức của Arixtốt là đỉnh cao của sự phát triển các tư tưởng nhận
thức luận thời cổ đại. Khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người,
3
ông coi quá trình nhận thức là quá trình khám phá ra chân lí đích thực về bản
chất sự vật. Ông phê phán mọi quan niệm hoài nghi luận trong nhận thức, ông coi
“ ngụy biện chỉ là một sự thông thái giả hiệu”.
Arixtốt đề cao vai trò của nhận thức lý tính (khái quát hóa, trừu tượng hóa)
hơn cảm tính. Nó đem lại cho ta những hiểu biết xác thực và sinh động về sự vật
đơn nhất. Ông là người khởi xướng nguyên lý tabula rasa (nguyên lý tấm bảng
sạch) – coi linh hồn con người khi mới sinh ra hoàn toàn không có tri thức – đối
lập với tư tưởng của Platon coi nhận thức là quá trình hồi tưởng lại. Theo Arixtốt
nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, là điểm xuất phát của mọi quá trình
nhận thức.
Tiếp sau là nhận thức kinh nghiệm, theo Arixtốt đó là hàng chuỗi những liên
tưởng về cùng một sự vật hay nhóm các sự vật nhất định. Và cao hơn kinh
nghiệm là nhận thức nghệ thuật mà nền tảng của nó là thực tiễn của con người.
Nó đem lại nhưng tri thức mang tính khái quát hơn so với các dạng nhận thức
trên.
Dạng nhận thức cao nhất đó là nhận thức khoa học, trong đó triết học là tối
cao. Nó là hoạt động trí tuệ đem lại cho chúng ta những tri thức lý luận có tính
khái quát cao. Dưới con mắt của Arixtốt, khoa học là một hệ thống tri thức phức
tạp. Ông là người đầu tiên tìm cách phân loại các khoa học.
1.4. Logic học
Arixtốt được xem là ông tổ của lôgic học – khoa học về tư duy và các quy luật
của nó. Ông là người đầu tiên đã trình bày hoàn chỉnh và có hệ thống những quy
luật cơ bản của tư duy đúng đắn.
Những quy luật cơ bản của tuy duy lôgic bao gồm: quy luật đồng nhất ( A =
A), quy luật cấm mâu thuẫn (A # > A) và quy luật loại trừ cái thứ ba ( hoặc A,
hoặc > A). Từ đây, Arixtốt đã xây dựng nên tam đoạn luận nổi tiếng của mình
( nếu A thuộc B, B thuộc C, thì A thuộc C).
Ví dụ: Con người đều thật thà
Lan là con người
Lan cũng thật thà.
4
Ngoài ra, Arixtốt còn xây dựng lý thuyết chứng minh, đồng thời phân tích các
lỗi lôgic mà mọi người hay mắc phải. Và khẳng định rằng mọi lỗi lôgic là do mọi
người vạn dụng sai tam đoạn luận và các quy luật lôgic.
Lôgic học của Arixtốt không chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp như vậy mà còn
bao hàm cả học thuyết của ông về các phạm trù, thể hiện như là phương pháp
luận xuyên suốt mọi lĩnh vực thế giới quan của ông. Bản thân thượng đế, dưới
con mắt của Arixtốt là một nhà lôgic lý tưởng. Arixtốt đã xây dựng nên hệ thống
các phạm trù như những hình thức của tư tưởng: 1) bản chất; 2) số lượng; 3) chất
lượng; 4) quan hệ; 5) vị trí; 6) thời gian; 7) tình trạng; 8) chiếm hữu; 9) hành
động; 10) chịu đựng.
1.5. Nhân bản học
Nhân bản học là lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong thế giới quan của Arixtốt.
Ông thấy rằng: “nhận thức linh hồn con người thúc đẩy mạnh mẽ nhận thức mọi
chân lý, nhất là nhận thức giới tự nhiên”.
Khi nhìn thấy một sự vật đang tồn tại, ta liên tưởng ngay rằng đó chính là sự kết
hợp của vật chất và ý thức. Trong khi đo, khi nhắc đến con người thì Aristotle lại
cho rằng đó là sự gắn kết của linh hồn và thể xác, trong sự kết hợp này thì linh
hồn giữ vai trò chủ đạo “linh hồn là công thức quyết định bản chất của sự vật”.
Theo Aristotle cả hai linh hồn và thể xác không thể tồn tại thiếu nhau, nhưng
chúng không phải đồng nhất là một. Ông nói: “Chúng ta có thể hoàn toàn bác bỏ
câu hỏi linh hồn và thể xác có phải là một hay không: câu hỏi này cũng vô nghĩa
như câu hỏi sáp và hình thù trao cho sáp có phải là một hay không.”[3,83]
Arixtốt cho rằng con người được cấu thành từ hình dạng và vật chất. Linh hồn
chính là căn nguyên của sự sống. Arixtốt cho rằng tồn tại ba dạng linh hồn: 1)
linh hồn thực vật với khả năng tự nuôi dưỡng và sinh sản; 2) linh hồn động vật có
khả năng cảm ứng với môi trường xung quanh. Cả hai linh hồn này đều xếp là: “
linh hồn vật lý”, chúng gắn bó hữu cơ và bị hủy cùng thể xác; 3) linh hồn lý tính
là dạng cao nhất của linh hồn và chỉ tồn tại ở người, đó là khả năng tư duy, trí tuệ
của con người.
5
Ở đây, Arixtốt hiểu linh hồn theo nghĩa khá rộng. Nó không chỉ dừng lại ở các
khả năng suy nghĩ hay cảm nhận của con người.
1.6. Học thuyết chính trị - xã hội
Theo Arixtốt, con người là một sinh vật xã hội. Bản tính của nó là sống cộng
đồng. Hình thức tổ chức cuộc sống cộng đồng đó trong một thể chế nhất định
được gọi là nhà nước. Nhà nước đem lại sinh khí cho mỗi gia đình, mỗi quần cư
và từng con người trong xã hội. Arixtốt coi hình thức tổ chức gia đình kiểu chiếm
hữu nô lệ là hình thức sống cộng đồng tự nhiên và vĩnh viễn. Nhà nước ra đời
trên cơ sở gia đình. Thể chế chính trị là trật tự làm cơ sở để phân bố chính quyền
nhà nước. Thể chế chính trị điều hành và quản lý xã hội về ba phương diện: lập
pháp, hành chính và phân xử.
Arixtốt ủng hộ nhà nước quân chủ, coi đó như là hình thức tổ chức nhà nước
thần thánh và ưu việt nhất. Ông phê phán mạnh mẽ chế độ bạo chúa, cho rằng nó
không phù hợp với bản chất của con người. Theo ông nghĩ thì mục đích của nhà
nước là cuộc sống phúc lợi bản thân nhà nước là sự giao thiệp của các gia tộc và
dân cư nhằm đạt được sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập.
1.7. Đạo đức học
Arixtốt xây dựng học thuyết về đạo đức của mình dựa vào tâm lý học. Theo
ông thì linh hồn con người được chia làm ba phần: lý tính thuần túy, lý tính thực
tiễn, phần khoái lạc ham muốn. Đức hạnh theo Arixtốt là đức hạnh của hành vi
đạo đức. Nó không phải được tự nhiên ban cho con người một cách tự động, tự
nhiên chỉ cho con người khả năng có đức hạnh. Sự thông thái và trí tuệ của con
người có thể có được là do học tập, còn đạo đức có được là do giáo dục. Như vậy
khác với Xôcrát quan niệm đạo đức là do bẩm sinh mà có, Arixtốt cho rằng đức
hạnh của con người là kết quả của sự giáo dục. Ngoài ra Arixtốt còn xem xét đạo
đức không chỉ ở hành vi con người mà căn cứ cả vào quyền của nó nữa. Con
người chỉ có thể được coi là có đầy đủ đức hạnh nếu anh ta cố gắng vươn tới sự
thông thái – có nghĩa là trở thành nhà triết học. Và theo Arix tốt thì đức hạnh là
khoảng giữa thông thái của hai thái cực. Ví dụ: hào phóng là trạng thái giữa của
hai thái cực: keo kiệt và hào phóng.
6
1.8. Thẩm mỹ học và những tư tưởng kinh tế học của Arixtốt
Thẩm mỹ học
Nghệ thuật được coi là toàn bộ hoạt động vật chất của con người và sản phẩm
của nó. “nghệ thuật nói, Arixtốt nhấn mạnh – trong một số trường hợp hoàn
thành những cái mà giới tự nhiên không thể làm được, trong một số trường hợp
khác, mô phỏng”. Ông đặc biệt nhấn mạnh chức năng mô phỏng theo giới tự
nhiên của nghệ thuật.
Trong số các dạng nghệ thuật Arixtốt đặc biệt đề cao thơ ca, coi đó là ngôn
ngữ nói chung. Nó bao hàm cả sử thi hài kịch, bi kịch mỗi dạng nghệ thuật có
một dạng và tính chất mô phỏng khác nhau.
Kinh tế học
Arixtốt có những quan điểm kinh tế học rất sâu sắc. C.Mác dã gọi ông là nhà
nghiên cứu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử đã hiểu được hình thức giá trị của
trao đổi. Arixtốt cũng đã nghiên cứu những hiện tượng của đời sống xã hội như:
phân công lao động, hàng hóa, trao đổi, phân phối ông cũng đã tìm ra mối liên
hệ giữa trao đổi với phân công lao động, sự phân ra gia đình nguyên thủy thành
những gia đình nhỏ. Khi nghiên cứu trao đổi, Arixtốt đã tiếp cận đến hai hình
thức sở hữu: tự nhiên và không tự nhiên; đồng thời cũng đoàn ra một cách tài
tình tính hai mặt của giá trị tư tưởng độc quyền và giá cả độc quyền cũng đã
xuất hiện trong học thuyết về kinh tế của ông.
7
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG ARIXTỐT
2.1 Giá trị tư tưởng của Arixtốt
Những tư tưởng triết học của Arixtốt có vai trò to lớn đối với gaii cấp thống trị
và nhà thờ. Giai cấp chủ nô đã sử dụng những tư tưởng về nô lệ để củng cố
quyền lực của mình. Nhà thờ (thánh Thoomaraty) dùng triết học của ông loại bỏ
những mặt tích cực, giữ lại những cái tiêu cực làm thành triết lý nhà thờ trong
kinh thánh đẻ củng cố địa vị, bảo vệ nhà thờ.
Arixtốt là người đầu tiên tổng kết và hệ thống hóa tư tưởng triết học trong lịch
sử triết học Hy Lạp cổ đại. Cho đến nay sự tìm kiếm điểm khởi đầu của quá trình
phát sinh lịch sử triết học vẫn còn tiếp tục. Nhiều nhà triết học macxít đã coi
Arixtốt là người mở đầu lịch sử tư duy triết học, là người đã giải phóng triệt để tư
duy tiền khoa học, là người đầu tiên đã tổng kết, khái quát lịch sử tri thức nhân
loại và đưa triết học phát triền lên tầm cao mới nhờ việc phê phán học thuyết về
“con số" của Pitago, học thuyết về “ý niệm" của Platôn. Có lẽ là như vậy, và lịch
sử triết học đã ra đời từ đó. Nét đặc biệt của thời đại Arixtốt chính là giai đoạn
tổng kết và tích luỹ tri thức mà người cổ đại đã đạt được là giai đoạn mà sự vận
động và tiến bộ xã hội diễn ra rất nhanh, trên nền tảng ấy triết học phát triển và
đã đem lại một cách nhìn mới về thế giới trong một chỉnh thể thống nhất. Những
hệ thống triết học như thế có thể tìm thấy ở triết học tự nhiên của Êmpêđốccđơ
và hệ thống triết học của Pácmênít. Hơn thế nữa, chúng ta có thể tìm thấy sự
sống động và tính đa dạng trong di sản triết học của Platôn, nơi mà mỗi sự kiện
được ông miêu tả, nhận xét, đánh giá
đều toát lên những khía cạnh của lịch sử triết học.
Ông là người đầu tiên đã xây dựng một hệ thống các phạm trù. Đây là điểm
khởi đầu cho tất cả cá học thuyết tiếp theo về phạm trù. Hệ thống phạm trù của
Arixtốt là sự khái quát và kế tục những thành quả của toàn bộ nền triết học Hy
lạp cổ đạigiai đoạn trước ông. Nó chiệm một vị trí quan trọng trong lich sử triết
học và ngày ny nhiều phạm trù của nó vẫn còn giữ nguyên giá trị bởi vì đó là
những phạm trù cơ bản nhất trong tư duy nhân loại. Khi nghiên cứu các phạm trù
của Arixtốt ta thấy chúng đều gắn với nhau bởi những mối liên hệ có tính chất
8
biện chứng và qua đó tạo nên một hệ thống, tuy chưa thật hoàn chỉnh nhưng là hệ
thống phạm trù đầu tiên trong lịch sử triết học, mở đầu cho sự phát triển của các
phạm trù triết học trong các giai đoạn lịch sử tiếp theo. Những phạm trù cơ bản
trong hệ thống Aristotle là: vật chất, bản chất, số lượng, quan hệ, thời gian,
không gian, vận động, tất nhiên, ngẫu nhiên, hình thức, nội dung, khả năng, hiện
thực, cái chung, cái riêng, mục đích… Về vấn đề này Enghen đã viết: "Việc
nghiên cứu các hình thức tư duy, các phạm trù lôgic là một nhiệm vụ rất cần thiết
và cao cả. Sau Aristotle chỉ có Hegel là người đã giải quyết nhiệm vụ này một
cách có hệ thống" [4,555].
Arixtốt tìm ra phương pháp thống nhất lôgíc lịch sử trong nghiên cứu lịch sử
triết học. Arixtốt không chỉ nghiên cứu những quy luật lôgíc của tư duy con
người, mà còn xác lập phong cách khoa học để xem xét các vấn đề triết học. Từ
những quan điểm duy lý, ông đã đưa triết học duy lý đến một tầm cao hơn của sự
phát triển.
Nhận thức luận của Arixtốt chứa đựng các yếu tố cảm giác luận và kinh
nghiệm luận có khuynh hướng duy vật. Điều này thể hiện rõ tư tưởng nhị nguyên
của ông. Trong lý luận nhận thức của mình, Arixtốt thừa nhận thế giới khách
quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc, kinh nghiệm và cảm giác. Tự
nhiên là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai. Cảm giác có vai trò quan trọng
trong nhận thức, nhờ cảm giác về đối tượng mà có tri thức đúng, có kinh nghiệm
và lý trí hiểu biết được về đối tượng. ở đây, Arixtốt đã thừa nhận tính khách quan
của thế giới.
Ông còn phê phán những quan những sai lầm trong học thuyết “con số”
của pitago, chống lại sự đồng nhất giữa cái tồn tại và cái không tồn tại của
pắcmênít, học thuyết “ý niệm” của Platon. Ông nhận thấy con số không phải là
căn nguyên hình thành ban đầu của vật chất như Pitago. Đối với thuyết ý niệm
của Platon, Arixtốt nhận thấy học thuyết của Platon có nhiều mâu thuẫn về mặt
logic. Một mặt, Platon phân biệt giữa các ý niệm, cho rằng các ý niệm chung
nhất là thực thể, bản chất của các ý niệm mang tính dặc thù hơn. Như vậy, sẽ dẫn
đến nghịch lí là: các ý niệm vừa là thực thể vừa không là thực thể. Điều này,
9
Arixtốt không thể chấp nhận. Mặt khác, Platon vừa khẳng định các ý niệm hoàn
toàn tách biệt với các sự vật cảm tính, đồng thời lại cho rằng các sự vật đó là cái
bóng của ý niệm là bản sao của chúng. Như vây là thừa nhận sự vật và khái niệm
dù sao cũng có điểm tương đồng nhất định. Từ mâu thuẫn logic trên đây, Platon
buộc phải thừa nhận sự tồn tại của một “thế giới thứ ba”giống với hai thế giới kia
và đứng lên trên chúng. Như vậy, mỗi người cụ thể chẳng hạn, để có thể biểu
hiện đúng bản chất với khái niệm con người của mình lại cần đến “con người
thứ ba” làm môi giới. Điều đó theo Arixtốt là không thể chấp nhận được.
Bộ óc bách khoa toàn thư. Arixtốt là người am hiểu các sự vật, sự việc thời
trung cổ, các tác phẩm của ông thể hiện sự uyên bác trong các lĩnh vực. Anghen
viết: "Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát,
bẩm sinh và Aristotle, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã
nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng".[5,34]
2.2 Hạn chế trong tư tưởng Arixtốt
Triết học Arixtốt thể hiện thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống
trị. Đứng trên lập trường giai cấp chủ nô ông cho rằng nô lệ là động vật thấp hèn,
nếu không có sự đẫn dắt của chủ nô sẽ trở nên vô dụng. Ông còn sử dụng triết
học của mình để đề cao vai trò của nhà thờ khi cho rằng con người ta không đến
nhà thờ sẽ bị sa tăng đưa đường dẫn lối. Chính những quan điểm này của ông đã
được giai cấp chủ nô và nhà thờ quán triệt chặt chẽ để khẳng định địa vị của
mình.
Các quan niệm của ông không nhất quán, dao động giữa lập trường duy vật và
duy tâm thể hiện rõ trong quan niệm về vật chất và hình dạng. Một mặt ông cho
rằng vật chất và hình dạng là một thể thống nhất không thể tách rời, mặt khác lại
cho rằng có hình thái phi vật chất tồn tại và giải thích sự tồn tại là do sự kiểm
soát của thượng đế. Mặc dù, Arixtốt đã nhận thấy sự mâu thuẫn trong tư duy của
mình, nhưng do đứng trên lập trường giai cấp thống trị, ông đã dùng Thượng Đế
để giải thích cho những sai lầm, thiếu sót của mình đưa quan điểm rơi vào duy
tâm.
10
Arixtốt thần thánh hóa nhận thức lý tính, coi nó như là chức năng của linh
hồn, của thượng đế.
Việc phân loại các khoa học ở Arixtốt mang nặng tính thơ ngây và cảm tính.
Ông vẫn chưa vượt được xa hơn những dự đoán thiên tài của ông về tính hiện
thực của các phạm trù và về mối quan hệ biện chứng giữa các phạm trù đó. Theo
Lênin, học thuyết triết học Aristotle nói chung và hệ thống phạm trù của ông nói
riêng là nét đặc trưng cho tư duy của người Hy Lạp cổ đại và phép biện chứng
chất phác của họ. "Những người Hy Lạp chính đã có một cách đặt vấn đề, tựa hồ
như những hệ thống đưa ra thí nghiệm, một sự phân kỳ ý kiến chất phác, được
phản ánh rất hay ở Arixtốt". [5,391]
Vật lý học và vũ trụ học của Aritốt có nhiều tư tưởng duy tâm.Theo Aristotle
vận động chỉ đơn giản là “sự di chuyển vị trí của các vật thể”. Aristotle đã đúng
khi khẳng định vận động là sự biến đổi nói chung nhưng sự biến đổi đó không
thể chỉ dừng lại ở biến đổi về mặt vị trí trong không gian. Hơn thế nữa, ông lại
cho rằng mọi sự vật đều vận động có mục đích theo ý của thượng đế. Ngoài ra,
còn có các quan điểm sai lầm khác như vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ, thuyết
địa tâm coi trái đất là trung tâm của vũ trụ gây khó khăn cho các nhà khoa học
sau khi tìm cách chứng minh sự sai lầm trong triết học của ông.
Tam đoạn luận của ông chứa nhiều mâu thuẫn.
Ví dụ: Trong xã hội không có cái gì đáng tin
Con người là một hình thái trong xã hội
Vậy, con người không đáng tin.
Điều này sai bởi vì khi ta tin rằng con người không đáng tin tức là ta phản
lại nguyên tắc ban đầu đề ra là trong xã hội không có cái gì đáng tin.
Chưa coi trọng giá trị của con người. Ông không xem nô lệ là con người, chỉ
xem họ là động vật và cần được đãn dắt bởi giai cấp chủ nô. Bên cạnh đó mặc dù
ông coi trọng giáo dục nhưng chỉ xem xét giáo dục chỉ để cho các thầy tu trường
dòng được đi học.
11
KẾT LUẬN
Arixtốt là nhà bách khoa toàn thư, nhà triết học vĩ đại nhất thời Hy Lạp – La Mã.
Hêghen đã nhận xét về những tác phẩm của ông: “ bao chứa toàn bộ các quan
niệm của con người, trí tuệ của Arixtốt đề cập đến mọi mặt và mọi lĩnh vực của
thế giới hiện thực”[6,554]. Mặc dù các quan niệm của ông không nhất quán, dao
động giữa lập trường duy vật và duy tâm, nhưng ông đã là người đặt nền móng
cho triết học châu Âu và thế giới, đồng thời còn là người mở ra hướng nghiên
cứu cho một loạt các khoa học xã hội và nhân văn chuyên ngành như: chính trị
học, kinh tế học, đạo đức học, thẩm mỹ học, tâm lý học và đặc biệt là khoa lôgic
học hình thức cho đến ngày nay và sau này vẫn còn nguyên giá trị.
Arixtốt được C.Mác đánh giá là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại”.
Còn theo Engel là “khối óc toàn diện nhất” trong số triết gia cổ đại Hy Lạp. Điều
nổi bật của ông là dám mạnh dạng biểu thị sự bất đồng của mình đối với những
tư tưởng của người thầy, ông đứng trên lập trường của tri thức có luận cứ khoa
học và hoàn toàn dựa vào lôgic học để giải thích. Với sự yêu mến sự minh triết
và tôn trọng chân lý Arixtốt đã nói: “Thầy và chân lý đều quý, nhưng chân lý còn
quý hơn”. Với phong cách làm việc như vậy, Arixtốt đã cho ra đời một hệ thống
triết học của riêng mình vô cùng phong phú, với tính quảng bác và đa dạng về đề
tài, đã gây không ít khó khăn cho các nhà nghiên cứu sau này khi muốn xác định
điểm khởi nguyên và hệ thống chúng. Bên cạnh đó, sự miệt mài nghiên cứu và là
việc nghiêm túc của ông chính là điều mà thế hệ sau cần học hỏi, noi theo.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ định rằng với sự hạn chế về lịch
sử và thời đại, triết học của ông mắc phải nhiều sai lầm, tư tưởng còn đậm tính
chủ quan. Bên cạnh đó, do đứng trên lập trường của giai cấp thống trị nên triết
học của ông có sự mâu thuẫn do bảo vệ quyền lực của giai cấp này nên từ chủ
nghĩa nhị nguyên ông lún sâu vào chủ nghĩa duy tâm, hòa nhập với thần học. Cái
bóng quá lớn trong triết học Arixtốt gây khó khăn không nhỏ cho thế hệ đi sau
bác bỏ quan điểm sai lầm của ông tiêu biểu như: Bêcơn dùng thuyết quy nạp
chống lại tam đoạn luận, Galilê chống lại thuyết địa tâm.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần I Đại cương về lịch sử triết học,
Khoa lý luận chính trị tiểu ban triết học Trường ĐHKT TpHCM, 2011
(2) C.Marx – Engel, Tác phẩm, t.20 (tiếng Nga).
(3) C.Marx- Engel, Tuyển tập (gồm 6 tập), t.V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983
(4) Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, Nxb Tổng Hợp
Tp.HCM, 2006
(5) Ted Honderich (chủ biên), Hành trình cùng Triết Học, Nxb Văn Hoá Thông
Tin - Hà Nội, 2006
(6) V.I. Lênin, Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ: Moscow, 1981
[1,111] . Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần I Đại cương về lịch sử triết học, Khoa lý
luận chính trị tiểu ban triết học Trường ĐHKT TpHCM, 2011
[2,138] Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, 2006
[3,83]TED HONDERICH (chủ biên), Hành trình cùng Triết Học, Nxb Văn Hoá Thông Tin -
Hà Nội, 2006
[4,555] C.Marx – Engel, Tác phẩm, t.20 (tiếng Nga).
[5,34] C.Marx- Engel, Tuyển tập (gồm 6 tập), t.V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, t.34.
[5,391] V.I. Lênin, Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ: Moscow, 1981
[6,554] C.Marx – Engel, sđd
13