Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.93 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT -NHỮNG
GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ.
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
NGƯỜI THỰC HIỆN : TRẦN QUỐC HÙNG
LỚP : CHKT K21- ĐÊM 5
SỐ THỨ TỰ: 65
TP.HCM 02/2012
LỜI CẢM ƠN
Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy TS Bùi Văn Mưa,
người Thầy đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt khóa học,
hướng dẫn, giúp đỡ, động viên em trong suốt thời gian thực hiện tiểu luận vừa qua.
Mặc dù đã rất cố gắng, song chắc chắn bài tiểu luận này sẽ không tránh thiếu sót và
hạn chế, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy để sửa chữa bổ
sung cho bài tiểu luận được tốt hơn.
Tác giả
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Mở đầu 1
Chương 1 :NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT 2
1. 1. Thuyết nguyên nhân- Cơ sở của siêu hình học 2
1.2. Vật lý học 4
1.3. Nhận thức luận 5
1.4. Logic học 7
1.5. Nhân bản học 7


1.6. Đạo đức học 8
1.7. Học thuyết chính trị- xã hội 9
1.8 Thẫm mỹ học và những tư tưởng về kinh tế học 9
Chương 2 : NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT
11
2.1. Những giá trị tư tưởng triết học Arixtốt 11
2.2. Những hạn chế của tư tưởng triết học Arixtốt: 13
Chương 3: Kết luận 15
Danh mục tài liệu tham khảo
Bài tiểu luận môn Triết Học
PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc
đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình .
Arixtốt (384 – 322 TCN) là một nhà tư tưởng vĩ đại nhất của triết học Hy
Lạp cổ đại. Ph.Ăngghen đã gọi Arixtốt là “ cái đầu hoàn chỉnh nhất” trong số các
nhà triết học cổ đại Hy lạp, là nhà tư tưởng đã nghiên cứu “ những hình thức cơ bản
nhất của tư duy biện chứng”. Là một bộ óc bách khoa, Arixtốt để lại nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị về triết học, sinh vật học, đạo đức học, tâm lý học, sinh
vật học, chính trị, thi pháp… và đặc biệt nền văn hoá thuần lý, khoa học và công
nghệ đang lan tràn khắp thế giới Tây phương phải chịu ơn ông nhiều hơn ai hết. Vì
vậy khi tác giả nhận được đề tài nghiên cứu: “Tư tưởng triết học của Arixtốt và
những giá trị, hạn chế của nó” thì đó là một điều vinh hạnh và may mắn khi tìm
hiểu một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử của triết học.
Nghiên cứu về tư tưởng triết học của Arixtốt, tác giả cần làm rõ những tư
tưởng của Arixtốt các lĩnh vực như những vần đề cơ bản của Siêu hình học, logic
học, vật lý học, đạo đức học, nhân bản học, chính trị học, mỹ học… Đồng thời tác

giả nêu ra những giá trị và hạn chế tư tưởng triết học của Arixtốt, những tư tưởng
đó có giá trị như thế nào đối với ai? Đối với các tầng lớp nào trong xã hội và những
mặt hạn chế của nó.
Tác giả đã dùng những tài liệu sau để làm tài liệu tham khảo như: Đại cương
về lịch sử triết học của TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên); Triết học và bức tranh vật lý
học về thế giới của TS Bùi Văn Mưa; Nhập môn Arixtốt của Rupert Woodfin và
Judy Groves do Tinh Vệ biên dịch, nhà xuất bản trẻ; Những Câu Chuyện Triết Học
của Will Durant do Trí Hải và Bửu Đích biên dịch; Quá trình chuyển biến tư tưởng
Phương Tây của Richard Tarnas., Lịch sữ triết học cũa Nguyễn Hữu Vui.
1
Bài tiểu luận môn Triết Học
Chương 1 : TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ARIXTỐT
Arixtốt đã để lại cho nhân loại một di sản triết học đồ sộ được viết bằng tiếng
Hy Lạp cổ, trong đó lớn nhất là tác phẩm “ siêu hình học”. Những tác phẩm của
Arixtốt còn lại cho đến ngày nay có thể chia làm tám nhóm: triết học chung, logic
học, vật lý học, sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học, chính trị và nghệ
thuật học. Để hiểu rõ một cách toàn diện về tư tưởng triết học Arixtốt chúng ta sẽ
cùng đi tìm hiểu từng vấn đề.
1.1. Thuyết nguyên nhân – Cơ sở của siêu hình học:
Với phương châm “Platông là thầy nhưng chân lý còn quý hơn nhiều”, Arixtốt
đã đứng trên quan niệm duy vật tiến bộ phê phán thuyết ý niệm của Platông;
nhưng ông cũng không ủng hộ quan điểm của các trường phái duy vật bàn về
nguyên vật chất của vũ trụ. [1, 110]
- Thứ nhất, ông phản đối quan niệm của Platông coi các ý niệm như một dạng
tồn tại độc lập, tối cao, còn mọi sự vật cảm tình của thế giới chúng ta đều tồn tại ở
cấp độ thấp hơn
- Thứ hai, Arixtốt phê phán việc Platông tách rời thế giới ý niệm với thế giới
hiện thực, ông chỉ ra rằng, như vậy tức là biến các phạm trù, khái niệm thành những
cái vô dụng đối với nhận thức các sự vật. Vì thế, để có ý nghĩa, theo Arixtốt thì thế
giới ý niệm phải thuộc về thế giới các sự vật.

- Arixtốt nhận thấy học thuyết của Platon có nhiều mâu thuẫn về mặt logic.
Một mặt, Platông phân biệt giữa các ý niệm, cho rằng các ý niệm chung nhất là thực
thể, bản chất của các ý niệm mang tính dặc thù hơn. Như vậy, sẽ dẫn đến nghịch lí
là: các ý niệm vừa là thực thể vừa không là thực thể. Điều này, Arixtốt không thể
chấp nhận. Mặt khác, Platông vừa khẳng định các ý niệm hoàn toàn tách biệt với
các sự vật cảm tính, đồng thời lại cho rằng các sự vật đó là cái bóng của ý niệm là
bản sao của chúng. Như vây là thừa nhận sự vật và khái niệm dù sao cũng có điểm
tương đồng nhất định.
2
Bài tiểu luận môn Triết Học
- Từ việc phê phán học thuyết của Platông về các ý niệm, Arixtốt đi đến xây
dựng hệ thống triết học của mình trên cơ sở tiếp thu những điểm hợp lý trong thế
giới quan của Platông, đồng thời khắc phục những hạn chế của nó. [6, 195]
Khi bàn về các vấn đề siêu hình, sự do sự giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm đã đưa Arixtốt đến với chủ nghĩa nhị nguyên; và từ chủ nghĩa nhị
nguyên ông đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi đưa ra thuyết nguyên nhân ( thay cho
thuyết ý niệm của Platông). Tuy nhiên, khi bàn về vật lý học, ông lại bộc lộ rõ quan
điểm duy vật của mình. Thuyết nguyên nhân là nền tảng của Siêu hình học mang
tình thần thánh của Arixtốt. Siêu Hình học là cơ sở lý luận để Arixtốt xây dựng vật
lý học mang tính tự nhiên, bàn về vũ trụ, giới tự nhiên và quá trình vận động của
chúng…
- Thuyết nguyên nhân- cơ sở của siêu hình học:
Theo Arixtốt tồn tại nói chung xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản là: hình thức
(hình dạng), vật chất (vật liệu), vận động (thao tác) và mục đích (cứu cánh); trong
đó, hình thức và vật chất giữ vai trò quan trọng nhất ( nhị nguyên luận). Tuy nhiên
ông lại cho rằng hình thức có vai trò quyết định hơn so với vật chất ( nhất nguyên
luận duy tâm), bởi vì nếu không có hình thức thì vật chất chỉ là khả năng thụ động
chứ không phải hiện thực. Hình thức là thực chất của tồn tại, là bản chất tích cực
của sự vật; nó chứa trong mình vận động và mục đích. Nhờ tính tích cực của hình
thức mà mọi sự vật vận động được; còn vận động của sự vật là một quá trình khách

quan diễn ra theo những trình tự xếp đặt trước, tức là có mục đích của Thượng Đế.
[1,111]
Như vậy, hai tiêu chuẩn trên mâu thuẫn với nhau. Arixtốt đã ý thức được vấn
đề này và tìm cách khắc phục, xong ông đã không giải quyết được. Điều này dẫn
đến mâu thuẫn trong quan niệm về mối quan hệ giữa vật chất và hình dạng. Một
mặt, ông khẳng định mọi sự vật trong thế giới đều là sự thống nhất giữa vật chất và
hình dạng. Ví dụ: quả cầu đồng là sự thống nhất giữa vật chất – chất đồng và hình
dạng – hình cầu, hai yếu tố cùng kết hợp và chuyển hóa tạo nên quả cầu đồng. Mặt
khác, ông thùa nhận tồn tại “ hình dạng thuần túy” phi vật chất hoàn toàn thuộc về
3
Bài tiểu luận môn Triết Học
lĩnh vực tư tưởng, khẳng định có “ vật chất đầu tiên” – vật chất phi hình dạng. từ
việc tách rời vật chất và hình dạng, Arixtốt đã đi đến khẳng định “ hiện thực có
trước mọi khởi nguyên cả về phạm trù, cả về bản chất, còn về thời gian thì theo một
nghĩa nhất định, là tồn tại trước, theo một nghĩa khác thì không do vậy việc xác
định và nhận thức (những cái trong hiện thức) cần phải có trước nhận thức (những
cái trong khả năng). Hơn nữa ông còn coi “ hình dạng thuần túy” là động cơ đầu
tiên của thế giới làm cho mọi vật đều có thể vận động được. Đó chình là thượng đế,
hay trí tuệ thuần túy. Đây là điểm triết học của Arixtốt hòa nhập với thần học của
ông.
Như vật, Arixtốt đã có sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm trong quan niệm về vật chất và hình dạng. Điều này làm cho sự phê phán của
ông đối với lập trường duy tâm trong học thuyết về ý niệm không triệt để.
1.2. Vật lý học:
- Thuyết vận động- cơ sở của vật lý học: Arixtốt cho rằng, giới tự nhiên là
toàn bộ các sự vật, quá trình vận động có liên hệ với nhau và được cấu thành từ một
bản thể vật chất. Mọi sự vật hiện tượng tự nhiên chỉ xuất hiện khi:
Một là, hội đủ bốn nguyên nhân là hình dạng, vật chất, mục đích và tác động,
mà khi khái quát lại, chúng đựơc gọi là hình dạng đầu tiên, vật chất ban đầu, tác
động đầu tiên, mục đích cuối cùng.

Hai là, được cấu thành từ bốn yếu tố đầu tiên là đất, nước, không khí, lửa
mang bốn tính chất nguyên thuỷ là nóng, lạnh, khô, ẩm mà sự xung đột giữa chúng
tạo ra sự chuyển hoá giữa các nguyên tố, đưa đến sự biến đổi trong tự nhiên.
Ba là, có những nguyên lý cơ bản chi phối như: tự nhiên là hữu hạn và hữu
tận, nhưng không có chân không; Vạn vật đều có vị trí nhất định trong trật tự của tự
nhiên; vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ; Vận động của mọi vật thể tự nhiên đều là
vận động cưỡng bức…
4
Bài tiểu luận môn Triết Học
Mỗi nguyên tố có một vị trí tự nhiên trong trật tự thế giới: Vị trí tự nhiên của
đất là Địa cầu- trung tâm bất động của thế giới, của nước là khối cầu bao bọc bên
ngoài Địa cầu, của không khí là khối cầu bao bọc bên ngoài nước, và của lửa là khối
cầu bao bọc bên ngoài không khí có gắn các vì sao bất động. Bên ngoài khối cầu lửa
là động cơ thứ nhất, dù không phải là vật chất hay là chân không, nhưng nó lại điều
khiển mọi sự vận động, thay đổi trong tự nhiên. Nếu vật thể bị cưỡng bức ra khỏi vị
trí tự nhiên của nó thì tự nó sẽ quay lại vị trí tự nhiên đó. Từ Mặt Trăng trở xuống là
Đất, thế giới trần trục, không hoàn thiện với đặc trưng cơ bản là chuyển động thẳng,
được cấu thành từ các nguyên tố tự nhiên như đất, nước, không khí và lửa. Từ Mặt
Trăng trở lên là Trời; Thế giới thần thánh, hoàn thiện với đặc trưng cơ bản là
chuyển dộng tròn cấu thành từ yếu tố siêu nhiên (ether) linh hoạt…[2,17-18]
1.3. Nhận thức luận:
Học thuyết của Arixtốt về tri thức được xây dựng trên nền tảng quan niệm về
thế giới của ông. Arixtốt cho rằng bản chất con người là khát vọng hướng đến tri
thức, con người sinh ra để nhận thức, kẻ nào không nhận thức kẻ đó không là con
người. Tác phẩm “ siêu hình học” của ông được mở đầu bằng luận điểm “ tất cả mọi
người, về bản tính đều khát vọng tới trí thức”. Nhận thức là một quá trình xuất phát
từ thực tại khách quan trải qua giai đoạn cảm giác, biểu tượng để đến tư duy, lý
luận. không có sự tác động của đối tượng nhận thức (hiện thực khách quan) vào
giác quan ( cơ sở của nhận thức) thì sẽ không có một tri thức nào; nhưng nhận thức
cảm tính đó không có đi sâu vào bản chất của sự vật; mà có nhận thức lý tính (khái

quát hoá, trừu tượng hoá…) mới khám phá được cái phổ biến, cái tất yếu, tức cái
quy luật, bản chất của sự vật. Dù nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn con
người con người, nhưng linh hồn con người vừa mới sinh ra như một tấm bản trắng.
Nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bên trong linh hồn,
là ghi chép lên linh hồn những dòng chữ tri thức. Nhiệm vụ của khoa học là khám
phá ra cái phổ biến-tất yếu ( cái bản chất, cái quy luật) trong các sự vật, hiện tượng
riêng lẻ nhằm tích luỹ tri thức. [1,113]
5
Bài tiểu luận môn Triết Học
Lý luận nhận thức của Arixtốt là đỉnh cao của sự phát triển các tư tưởng
nhận thức luận thời cổ đại. Khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người,
ông coi quá trình nhận thức là quá trình khám phá ra chân lí đích thực về bản chất
sự vật. Ông phê phán mọi quan niệm hoài nghi luận trong nhận thức, ông coi “ ngụy
biện chỉ là một sự thông thái giả hiệu”.
Arixtốt đề cao vai trò của nhận thức cảm tính. Nó đem lại cho ta những hiểu
biết xác thực và sinh động về sự vật đơn nhất. Ông là người khởi xướng nguyên lý
tabula rasa (nguyên lý tấm bảng sạch) – coi linh hồn con người khi mới sinh ra hoàn
toàn không có tri thức – đối lập với tư tưởng của Platon coi nhận thức là quá trình
hồi tưởng lại. Theo Arixtốt nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, là điểm xuất
phát của mọi quá trình nhận thức.
Tiếp sau là nhận thức kinh nghiệm, theo Arixtốt đó là hàng chuỗi những liên
tưởng về cùng một sự vật hay nhóm các sự vật nhất định. Và cao hơn kinh nghiệm
là nhận thức nghệ thuật mà nền tảng của nó là thực tiễn của con người. Nó đem lại
nhưng tri thức mang tính khái quát hơn so với các dạng nhận thức trên.
Dạng nhận thức cao nhất đó là nhận thức khoa học, trong đó triết học là tối
cao. Nó là hoạt động trí tuệ đem lại cho chúng ta những tri thức lý luận có tính khái
quát cao. Dưới con mắt của Arixtốt, khoa học là một hệ thống tri thức phức tạp.
Ông là người đầu tiên tìm cách phân loại các khoa học. Xuất phát từ luận điểm “
mọi sự duy diễn đều hướng tới hoặc là hoạt động, hoặc là sáng tạo, hoặc là tư biện”.
Đối với ông , khoa học là một hệ thống tri thức phức tạp nhằm hướng đến ba mục

đích: hoạt động đời sống, sáng tạo và tư biện. Vì vậy có ba nhóm khoa học: khoa
học thực hành (đạo đức học, chính trị học…) và khoa học tư biện-lý thuyết (siêu
hình học, vật lý học, toán học, logíc học…). càng ngày khoa học càng nhận thức
đầy đủ thế giới và càng đạt được nhiều chân lý. Muốn đạt được chân lý, tránh sai
lầm trong quá trình tìm hiểu bản chất, khám phá quy luật của hiện thực khách quan
thì linh hồn lý tính phải được trang bị các phương pháp suy nghĩ đúng đắn, luôn
tuân thủ những yêu cầu của logíc học. Đó là tuân theo quy luật đồng nhất, quy luật
6
Bài tiểu luận môn Triết Học
phi mâu thuẫn, quy luật triệt tam; hướng tư duy theo các quy tắc tam đoạn luận…
[5,198]
1.4. Logic học:
Arixtốt được xem là ông tổ của lôgic học – khoa học về tư duy và các quy
luật của nó. Ông là người đầu tiên đã trình bày hoàn chỉnh và có hệ thống những
quy luật cơ bản của tuy duy đúng đắn.
Những quy luật cơ bản của tuy duy lôgic bao gồm: quy luật đồng nhất ( A =
A), quy luật cấm mâu thuẫn (A # > A) và quy luật loại trừ cái thứ ba ( hoặc A, hoặc
> A). Từ đây, Arixtốt đã xây dựng nên tam đoạn luận nổi tiếng của mình ( nếu A
thuộc B, B thuộc C, thì A thuộc C)
Ngoài ra Arixtốt còn xây dựng lý thuyết chứng minh, đồng thời phân tích các
lỗi lôgic mà mọi người hay mắc phải. Và khẳng định rằng mọi lỗi lôgic là do mọi
người vạn dụng sai tam đoạn luận và các quy luật lôgic.
Lôgic học của Arixtốt không chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp như vậy mà còn
bao hàm cả học thuyết của ông về các phạm trù, thể hiện như là phương pháp luận
xuyên suốt mọi lĩnh vực thế giới quan của ông. Bản thân thượng đế, dưới con mắt
của Arixtốt là một nhà lôgic lý tưởng. Arixtốt đã xây dựng nên hệ thống các phạm
trù như những hình thức của tư tưởng: 1) bản chất; 2) số lượng; 3) chất lượng; 4)
quan hệ; 5) vị trí; 6) thời gian; 7) tình trạng; 8) chiếm hữu; 9) hành động; 10) chịu
đựng. [5, 200]
1.5. Nhân bản học

Nhân bản học là lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong thế giới quan của Arixtốt.
Ông thấy rằng: “nhận thức linh hồn con người thúc đẩy mạnh mẽ nhận thức mọi
chân lý, nhất là nhận thức giới tự nhiên”.
Arixtốt cho rằng con người được cấu thành từ hình dạng và vật chất. Ông
phê phán quan niệm của Platông coi thể xác chỉ là chỗ trú tạm thời của linh hồn bất
7
Bài tiểu luận môn Triết Học
diệt. Arixtốt dựa trên thuyết nguyên nhân cho rằng, cũng giống như sự vật được
hình thành từ hình thức và vật chất, sinh thể và còn người được cấu thành từ thể xác
và linh hồn. Không có linh hồn bất tử, không có linh hồn trong cơ thể chết và cũng
không có linh hồn nằm bên ngoài thể xác vật chất. Ông khẳng định: “ các trạng thái
của linh hồn đều có cơ sở trong vật chất”, và linh hồn là căn nguyên của sự
sống.Nhưng tuỳ theo cấp độ, Arixtốt chia linh hồn thành ba loại là:
- Linh hồn thực vật với khả năng tự nuôi dưỡng và sinh sản; - linh hồn động
vật có khả năng cảm ứng với môi trường xung quanh. Cả hai linh hồn này đều xếp
là: “ linh hồn vật lý”, chúng gắn bó hữu cơ và bị hủy cùng thể xác; - linh hồn lý tính
là dạng cao nhất của linh hồn và chỉ tồn tại ở người, đó là khả năng tư duy, trí tuệ
của con người. Trong thể xác con người có đủ ba loại linh hồn trên khi con người
chết đi linh hồn thực vật và linh hồn động vật mất đi cùng với sự tan rã của thể xác
nhưng linh hồn lý tính chứa tri thức vẫn tồn tại bất diệt. Theo ông con người là một
sinh thể có lý trí.[ 1,112]
1.6. Đạo đức học
Arixtốt xây dựng học thuyết về đạo đức của mình dựa vào tâm lý học. Theo
ông thì linh hồn con người được chia làm ba phần: lý tính thuần túy, lý tính thực
tiễn, phần khoái lạc ham muốn. Arixtốt coi đạo đức là sự mở rộng nhận thức vào
lĩnh vực hành vi con người. Khi phủ nhận quan điểm của Platông coi hạnh phúc của
con người gắn liền với thế giới ý niệm, arixtốt cho rằng: Ngu dốt, sai lầm là nguồn
gốc của cái ác, lý trí và lẽ phỉa đời thường là cơ sở của điuề thiện, là nền tảng của
phẩm hạnh của con người. Phẩm hạnh của con người nếu có đựơc nhờ vào việc hiểu
thấu và làm theo chân lý (hành động dựa trên cái tất yếu- phổ biến do thông qua

giáo dục và đào tạo) thì đó là phẩm hạnh lý tính. Còn phẩm hạnh có được nhờ thói
quen làm theo lẽ phải đời thường (hành động dựa trên cái trung dung, tức là không
thái quá, thông qua tập quán lâu đời càu cộng đồng) thì đó là phẩm hạnh luân lý.
Con người cảm thấy khoái lạc khi bản thân sống có đức hạnh, khi làm điều thiện
một cách tự nhiên. Khoái lạc chỉ là một cơ sở của hạnh phúc. Hạnh phúc của con
người không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan như sự khôn ngoan của lý trí,
8
Bài tiểu luận môn Triết Học
đức hạnh trong hành vi, sự khoái lạc trong trạng thái…mà còn bị chi phối bởi các
điều kiện khách quan như tiền bạc, sức khoẻ, tình bạn, xã hội công bằng…
Vậy theo Arixtốt , đời sống đạo đức, hạnh phúc của con người không nằm trên thế
giới ý niệm trên trời mà nằm trong thế giới thực dưới đất, nơi trần gian; đồng thời
chúng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu của từng người trong đời sống
xã hội.[1,114]
1.7. Học thuyết chính trị - xã hội
Theo Arixtốt, con ngươi là một sinh vật xã hội. Bản tính của nó là sống cộng
đồng. Hình thức tổ chức cuộc sống cộng đồng đó trong một thể chế nhất định được
gọi là nhà nước. Arixtốt vận dụng thuyết trung dung xây dựng lý luận về nhà nước.
Theo Arixtốt, con người không những là sinh thể biết nhận thức, biết sống có đạo
đức mà còn là một động vật chính trị.[1,115] Con người không thể sống ngoài cộng
đồng, bên ngoài sự giao tiếp. Nhà nước là một sự giao tiếp cộng đồng cao nhất, trên
cả gia đình, dòng họ, làng xã. Con người về bản chất phải thuộc về nhà nước. Sứ
mệnh của nhà nước là đảm bào cho mọi người (trừ nô lệ) trong cộng đồng một cuộc
sống hạnh phúc với phúc lợi ngày càng cao.Nhà nước đem lại sinh khí cho mỗi gia
đình, mỗi quần cư và từng con người trong xã hội. Arixtốt coi hình thức tổ chức gia
đình kiểu chiếm hữu nô lệ là hình thức sống cộng đồng tự nhiên và vĩnh viễn. Nhà
nước ra đời trên cơ sở gia đình. Thể chế chính trị là trật tự làm cơ sở để phân bố
chính quyền nhà nước. Thể chế chính trị điều hành và quản lý xã hội về ba phương
diện: lập pháp, hành chính và phân xử. Arixtốt ủng hộ nhà nước quân chủ, coi đó
như là hình thức tổ chức nhà nước thần thánh và ưu việt nhất. Ông phê phán mạnh

mẽ chế độ bạo chúa, cho rằng nó không phù hợp với bản chất của con người. Theo
ông: “ Mục đích của nhà nước là cuộc sống phúc lợi bản thân nhà nước là sự giao
thiệp của các gia tộc và dân cư nhằm đạt được sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự
lập”.[5,206]
1.8. Thẩm mỹ học và những tư tưởng kinh tế học của Arixtốt
- Thẩm mỹ học: Nghệ thuật được coi là toàn bộ hoạt động vật chất của con
người và sản phẩm của nó. “nghệ thuật nói, Arixtốt nhấn mạnh – trong một số
9
Bài tiểu luận môn Triết Học
trường hợp hoàn thành những cái mà giới tự nhiên không thể làm được, trong một
số trường hợp khác, mô phỏng”. Ông đặc biệt nhấn mạnh chức năng mô phỏng theo
giới tự nhiên của nghệ thuật. Trong số các dạng nghệ thuật Arixtốt đặc biệt đề cao
thơ ca
- Kinh tế học: Arixtốt có những quan điểm kinh tế học rất sâu sắc. C.Mác dã
gọi ông là nhà nghiên cứu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử đã hiểu được hình thức
giá trị của trao đổi. Arixtốt cũng đã nghiên cứu những hiện tượng của đời sống xã
hội như: phân công lao động, hàng hóa, trao đổi, phân phối ông cũng đã tìm ra
mối liên hệ giữa trao đổi với phân công lao động, sự phân ra gia đình nguyên thủy
thành những gia đình nhỏ. Khi nghiên cứu trao đổi, Arixtốt đã tiếp cận đến hai hình
thức sở hữu: tự nhiên và không tự nhiên; đồng thời cũng đoàn ra một cách tài tình
tính hai mặt của giá trị tư tưởng độc quyền và giá cả độc quyền cũng đã xuất hiện
trong học thuyết về kinh tế của ông.[5,208 ]
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA ARIXTỐT
2.1. Những giá trị tư tưởng triết học arixtốt:
10
Bài tiểu luận môn Triết Học
- Triết học của ông phản ánh chế độ chiếm hữu nô lệ Hy lạp suy tàn. Củng cố
quyền lực của giai cấp thống trị, những gì ông dạy ở trường Lyceum đều được
Demetrius biến thành luật.

- Triết học của Arixtốt có giá trị với Kitô giáo. Ý tưởng của Arixtốt về một
trật tự thứ bậc của nhận thức trở nên rất có ảnh hưởng trong giới thần học kitô giáo
thời trung cổ. Họ đã chuyển nó thành nhận thức về một trật tự thứ bậc được ban bố
một cách thần linh. Tôma Đacanh(1225-1274) đã xây dựng triết học của mình trên
cở sở xuyên tạc học thuyết của Arixtốt để luận chứng cho thần học của Nhà thờ,
cũng cố cho giáo lý thiên chúa giáo. [1,118]
- Công lao lớn của Arixtốt là ở chỗ: Ông đã chống lại chủ nghĩa duy tâm
khách quan của Platông. Trong học thuyết về tồn tại, ông đã thừa nhận vật chất là
vĩnh viễn. song ông lại tách rời hình thức ra khỏi vật chất, coi hình thức không có
tính vật chất, nhưng có tính tích cực, là nguyên nhân sinh ra các sự vật cụ thể. Còn
vật chất là sự thụ động, nó chỉ có thể biến thành sự vật cụ thể nhờ nguyên nhân hình
thức. Bậc thang hình thức đã dẫn ông đến tư tưỏng duy tâm về hình thức cao nhất
(động lực đầu tiên) ở bên ngoài thế giới.
- Trong học thuyết về linh hồn, ông đã coi linh hồn phụ thuộc vào trạng thái
cơ thể và không bất tử. không chỉ cơ thể con người, mà cả thực vật, động vật cũng
có linh hồn.
- Trong học thuyết về nhận thức, ông đã phê phán thuyết hồi tưởng của linh
hồn về thế giới ý niệm của Platông. Ông coi cảm giác là cơ sở của nhận thức và ông
chống lại việc tách rời nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính.
- Ông có nhiều đóng góp về logíc học. Ông đưa ra các quy luật cơ bản của
logíc hình thức. Ông được coi là cha đẽ của lôgic hình thức với việc khám phá ra
các quy luật cơ bản của tư duy logic nhu quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu
thuẫn trong tư duy và quy luật loại trừ cái thứ ba. Ngoài ra, ông còn có những tư
tưởng quý báu về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa quy nạp
và diễn dịch…
11
Bài tiểu luận môn Triết Học
- Đặc biệt, công trình của ông về tâm lý học luân lý và đạo đức học đức
hạnh đang ở trên tuyến đầu của tư duy triết học, gợi hứng cho học thuyết chính trị
và xã hội hiện nay về “thuyết cộng đồng”, làm cơ sở cho chính sách trung tâm và

trung tả hiện đại.
- Về Xã hội: Một cống hiến quan trọng của ông mà được Mác đánh giá cao
là ông đã chỉ ra được mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế và tìm ra cơ sỡ kinh tế
của công bằng và bình đẳng trong xã hội. Ông cho rằng cơ sở của sự công bằng XH
là sự công bằng trong trao đổi sản phẩm, trong biểu hiện giá trị của hàng hoá, ông
đã tìm ra được một quan hệ bình đẳng và là nghiên cứu vĩ đại, người đầu tiên phân
tích hình thái giá tri.
- Ta cũng thấy những ý tưởng của Arixtốt về Mỹ học và Ký hiệu học tiếp
tục có tầm quan trọng và đang thách thức như thế nào trước sự bế tắc hậu- hiện đại
trong các lĩnh vực văn hoá.
- Những tư tưởng triết học của Arixtốt phác thảo ra đã định hướng cho sự
thống trị tư tưởng phương tây. Đáng kể nhất là hệ thống bách khoa toàn thư của
Arixtốt mà hầu hết hoạt động khoa học của phương Tây cho tới thế kỷ XVII đựơc
thực hiện dựa trên nền những tác phẩm của ông từ thế kỷ IV trước Công nguyên, và
ngay cả khi khoa học đã vượt xa ông, người ta vẫn tiếp tục theo định hướng ấy và
tiếp tục sử dụng công cụ nhận thức của ông. Nhờ Arixtốt đã đem lại một ngôn ngữ
và lý luận, một nền tảng và cấu trúc, và chí ít là một điều tối nghịch đầy uy lực để
phản bác thuyết của Platông, và sau này chống lại dòng tư tưởng cận đại lúc đầu-
mà nếu không có thì triết học, thần học và khoa học của phương Tây đã không thể
phát triển như thế. [4,66]
2.2. Những hạn chế của tư tưởng triết học Arixtốt:
Là một con người khổng lồ về tư tưởng, Arixtốt đã mở ra một chân trời mới
mênh mông cho khoa học phương Tây, nhưng do hạn chế về lịch sử và bàn thân là
nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô Quý tộc, nên triết học của ông cũng có những mặt
hạn chế:
- Về mặt triết học, ông do dự giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
12
Bài tiểu luận môn Triết Học
- Về học thuyết tồn tài, ông cho rằng: tồn tại nói chung xuất phát từ 4
nguyên nhân cơ bản: Nguyên nhân vật chất, hình dạng, vận động, mục đích, trong

đó vật chất và hình thức là cái tạo thành các sự vật. Hình dạng là cơ bản nhất là thực
chất của tồn tại, là bản chất cảu sự vật. Ông đã xem sự phát triển của giới tự nhiên
giống như sự hoạt động sản xuất của con người. Quan niệm đó đã đưa ông đến sai
lầm: trong những hiện tượng tự nhiên, hình dạng là cái có trước vật chất. Ông quan
sát giới tự nhiênphỏng theo hoạt động của con người, không nhìn thấy sự khác nhau
về vật chất giữa tự nhiên và sinh hoạt xã hội. Quan điểm đó dẫn đến chủ nghĩa duy
tâm là thừa nhận “ hình dạngcủa tất cả mọi hình dạng” là xuất phát từ thần thánh-là
thánh thần; đó là nguyên nhân cùng tận, là mục đích của tất cả mọi hiện tượng tự
nhiên.[6,43]
- Về chính trị, ông chỉ bảo vệ lợi ích cho tầng lớp chủ nô trung lưu của chính
mình, nô lệ và phụ nữ không có vai trò nào trong cộng đồng chính trị. Nô lệ không
có lý tính, tức thiếu cái cần thiết cho một vai trò tích cực và chủ động; coi nô lệ
không phải là người mà chỉ là công cụ sống biết nói. Ông lập luận rằng người nô lệ
cần có Chủ để có được “sự khôn ngoan thực tiễn” mà mình thiếu; Còn phụ nữ, dù
có lý tính thì lại không có quyền uy.[3,143]
- Triết học của ông mang tính chủ quan, và có những chỗ thiếu cơ sở khoa
học và quan niệm sai lầm, chẳng hạn ông cho rằng “phải” là tốt hơn “trái”, “cao
hơn” tốt hơn “ thấp hơn” và ‘ mặt trước’ tốt hơn “ mặt sau” và ông cố áp dụng
nguyên tắc này cho vũ trụ. [3,96]
- Về Khoa học của Arixtốt: Các ý tưởng của Arixtốt về động lực học vừa có
tính cảm quan thông thường và vừa sai lầm, ông cho rằng vận tốc của một vật tỉ lệ
thuận với trọng lượng của nó. Vật càng nặng, di chuyển càng nhanh. Thả hai quả
bóng- quả này nhẹ bằng nửa quả kia-từ một vị trí thì quả bóng nặng sẽ tới mặt đất
bằng nữa thời gian của quả bóng nhẹ hơn. Phải đến gần 2000 năm sau, Galileo đã
thí nghiệm và thấy rằng điều ấy không đúng. [3,102]
- Về mặt vật lý, bức tranh của Arixtốt không chứa nhiều dự đoán thiên tài
như những bức tranh trước đó, song nó dựa vào một vài sự kiện kinh nghiệm, có
bàn đến một số vấn đề thực tế, nên từ đó rút ra vài kết luận phù hợp với hiện thực
13
Bài tiểu luận môn Triết Học

và có giá trị đối với con người lúc đó. Do bên cạnh những tư tưởng duy tâm và
những yếu tố thần bí, siêu hình, bức tranh của Arixtốt còn có nhiều tư tưởng duy vật
và những yếu tố khoa học, biện chứng thơ ngây, nên có thể thúc đẩy sự phát triển
khoa học tự nhiên trong một chừng mực nhất định.
- Arixtốt cho rằng Tam đoạn luận là một lối suy diễn thông thường và chính
xác trong khi ngày nay chúng ta có khuynh hướng coi tam đoạn luận cũng chỉ là
một mánh lới để thuyết phục kẻ khác. Ông tưởng rằng tư tưởng con người đi từ các
nguyên đề để tiến đến kết luận trong khi thực tế có những trưòng hợp con người đi
tìm cái kết luận rồi mới cố tìm ra các nguyên đề để chứng minh các kết luận đó.
- Những nhận xét về thiên nhiên của ông cũng nhiều chỗ sai lầm. ông
thường để cho các tư tưởng siêu hình ảnh hưởng đến các nhận xét khoa học.
- Những giá trị của tinh hoa triết học trước đó cũng ít được Arixtốt tiếp thu.
Chương 3: KẾT LUẬN
Arixtốt là nhà bách khoa toàn thư, nhà triết học vĩ đại nhất thời Hy Lạp – La
Mã. Hêghen đã nhận xét về những tác phẩm của ông: “ bao chứa toàn bộ các quan
niệm của con người, trí tuệ của Arixtốt đề cập đến mọi mặt và mọi lĩnh vực của thế
giới hiện thực”. Mặc dù các quan niệm của ông không nhất quán, dao động giữa lập
trường duy vật và duy tâm, nhưng ông đã là người đặt nền móng cho triết học châu
Âu và thế giới, đồng thời còn là người mở ra hướng nghiên cứu cho một loạt các
khoa học xã hội và nhân văn chuyên ngành như: chinh trị học, kinh tế học, đạo đức
học, thẩm mỹ học, tâm lý học và đặc biệt là khoa lôgic học hình thức cho đến ngày
nay và sau này vẫn còn nguyên giá trị.
14
Bài tiểu luận môn Triết Học
Arixtốt không chỉ dựng nên lý luận đầu tiên vể mỹ học mà còn phát triển cả
môn tâm lý học thuần lý, chính trị học và một pgác thảo về xã hội học, mang lại cho
con người học thuyết đạo đức về đức hạnh vẫn còn được bàn cãi đến tận ngày nay
Những đóng góp của ông cho siêu hình học- về “tồn tại”, “hiện hữu”, “bản thể” và
“nhân quả” tiếp tục thâm nhập vào triết học hiện đại
C.Mác đánh giá: “ tư tưởng sâu sắc của Arixtốt vạch ra những vấn đề trừu

tượng tế nhị nhất một cách đáng ngạc nhiên. Ông giống như người đi tìm kho vàng,
dù cho kho tài liệu sống bị chôn vùi bất cứ ở đâu dưới bụi rậm trong khe núi, thì cái
gậy hóa phép của Arixtốt nhất định chỉ đúng vào nó”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần I Đại cương về lịch sử triết học, Khoa
lý luận chính trị tiểu ban triết học Trường ĐHKT TpHCM, 2011
2. Bùi Văn Mưa, Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới, NXB ĐHQG
Tp.HCM, 2008
3. Rupert Woodfin & Judy Groves, Nhập môn Arixtốt, NXB Trẻ, TP.HCM, 2006
4. Richard Tarnas, Quá trình chuyển biến tư tưởng phương tây, NXB văn hoá thông
tin, Hà Nội, 2008
5. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử Triết học, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1998
6. Will Durant, Câu truyện triết học, NXB văn hoá thông tin, Hà Nội, 2008
7. www.Wattpad.com
15

×