Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

nghiên cứu khả năng hấp thụ khí co2 của rừng trồng mỡ (manglietia conifera) tại thành phố lào cai, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 108 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGUYỄN MINH TÂM




NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG HẤP THỤ KHÍ CO
2
CỦA
RỪNG TRỒNG MỠ (MANGLIETIA CONIFERA) TẠI
THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. TS. Nguyễn Thế Hƣng
2. PGS.TS. Hoàng Ngọc Quang




THÁI NGUYÊN - 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
theo chương trình đào tạo cao học Sinh học hệ chính quy, chuyên ngành Sinh
thái học, khoá 19 (2011 - 2013).
Trước hết, tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thế
Hưng và PGS.TS. Hoàng Ngọc Quang - người hướng dẫn khoa học, đã trực
tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức quý báu và dành
những tình cảm tốt đẹp cho tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn, tác giả nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học và các thầy, cô giáo
khoa Sinh Trường Đại học Sư phạm và các bạn bè đồng nghiệp. Nhân dịp này,
tác giả xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ hiệu quả đó.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, ban ngành trên địa
bàn tỉnh Lào Cai, các xã, phường và một số hộ dân trồng rừng trên địa bàn
nghiên cứu đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong việc thu thập số liệu ngoại
nghiệp để thực hiện luận văn này.
Do thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế, bản luận văn này chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, tác giả mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo, các nhà khoa học
cùng bạn bè đồng nghiệp để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 11 tháng 4 năm 2013
Tác giả



Nguyễn Minh Tâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi cùng với sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thế Hưng và PGS.TS. Hoàng Ngọc
Quang (Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội). Các số liệu, kết
quả nghiên cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Nếu sai tôi chịu
hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giả

Nguyễn Minh Tâm















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN i
LỜI CAM ĐOAN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vii
DANH MỤC CÁC BẢNG viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ ẢNH x
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Trên thế giới 4
1.1.1. Nghiên cứu sinh khối và năng suất rừng 4
1.1.2. Nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của rừng 8
1.1.3. Nghiên cứu về cây Mỡ (Manglietia conifera) 12
1.2. Ở Việt Nam 13
1.2.1. Nghiên cứu sinh khối và năng suất rừng 13
1.2.2. Nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của rừng 16
1.2.3. Các hoạt động liên quan đến CDM ở Việt Nam 19
1.2.4. Nghiên cứu về cây Mỡ 21
1.3. Nhận xét và đánh giá chung 22
Chƣơng 2: MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 24
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 24
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 24
2.3. Nội dung nghiên cứu 25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv


2.3.1. Tổng quan tài liệu: Phân tích, tổng hợp và đánh giá các công trình
nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam có liên quan đến đề tài. 25
2.3.2. Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai (vị trí
địa lý, địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng…). 25
2.3.3. Nghiên cứu sinh khối rừng Mỡ trồng thuần loài ở các tuổi khác nhau
ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. 25
2.3.4. Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của một số quần xã rừng Mỡ trồng
thuần loài ở các tuổi khác nhau ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. 25
2.3.5. Nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh khối, lượng carbon hấp thụ với
các nhân tố điều tra rừng chủ yếu và xây dựng bảng tra lượng CO
2
hấp thụ
của rừng Mỡ cho tỉnh Lào Cai. 25
2.4. Phương pháp nghiên cứu 25
2.4.1. Quan điểm và cách tiếp cận của đề tài 25
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 27
Chƣơng 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU 30
3.1. Điều kiện tự nhiên 30
3.1.1. Vị trí địa lý 30
3.1.2. Địa hình, địa thế 30
3.1.3. Khí hậu, thuỷ văn 31
3.1.4. Địa chất, thổ nhưỡng 33
3.1.5. Hiện trạng đất đai và tài nguyên rừng 34
3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 38
3.2.1. Nguồn nhân lực 38
3.2.2. Thực trạng chung về kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai 39

3.3. Nhận xét đánh giá chung về điều kiện khu vực nghiên cứu 39
3.3.1. Thuận lợi 39
3.3.2. Khó khăn 40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v

Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 41
4.1. Nghiên cứu sinh khối cây cá thể 41
4.1.1. Nghiên cứu sinh khối tươi cây cá thể 41
4.1.2. Nghiên cứu sinh khối khô cây cá thể 44
4.1.3. Mối quan hệ sinh khối khô với sinh khối tươi cây cá thể Mỡ 47
4.2. Nghiên cứu sinh khối cây bụi, thảm tươi và vật rơi rụng 48
4.2.1. Nghiên cứu sinh khối cây bụi, thảm tươi 48
4.2.2. Nghiên cứu sinh khối vật rơi rụng 50
4.3. Nghiên cứu tổng sinh khối toàn lâm phần 52
4.3.1. Nghiên cứu tổng sinh khối tươi toàn lâm phần 52
4.3.2. Nghiên cứu tổng sinh khối khô phần trên mặt đất toàn lâm phần 55
4.4. Nghiên cứu lượng carbon tích lũy trong cây cá thể 57
4.4.1. Cấu trúc carbon tích lũy trong cây cá thể 57
4.4.2. Mối quan hệ giữa lượng carbon tích lũy trong cây cá thể với các nhân
tố điều tra lâm phần 60
4.4.3. Mối quan hệ carbon với sinh khối khô cây cá thể 61
4.5. Nghiên cứu lượng carbon tích lũy trong cây bụi, thảm tươi và vật rơi
rụng 62
4.5.1. Nghiên cứu lượng carbon tích lũy trong cây bụi, thảm tươi 62
4.5.2. Nghiên cứu lượng carbon tích lũy trong vật rơi rụng 63
4.6. Nghiên cứu tổng lượng carbon, CO
2
hấp thụ trong rừng Mỡ 64
4.6.1. Cấu trúc tổng lượng carbon tích lũy trong lâm phần 64

4.6.2. Nghiên cứu tổng lượng CO
2
được hấp thụ trong phần trên mặt đất
của toàn lâm phần 65
4.6.3. Mối quan hệ tổng CO
2
được hấp thụ bởi phần trên mặt đất của toàn
lâm phần với các nhân tố điều tra 66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi

4.7. Đề xuất một số ứng dụng trong việc xác định sinh khối và lượng carbon
tích lũy rừng trồng Mỡ 67
4.7.1. Đề xuất ứng dụng xác định sinh khối tươi, sinh khối khô và lượng
carbon cây cá thể Mỡ dựa vào các nhân tố điều tra lâm phần 67
4.7.2. Đề xuất ứng dụng xác định sinh khối khô thông qua sinh khối tươi 68
4.7.3. Đề xuất ứng dụng xác định lượng carbon được tích lũy thông qua
sinh khối khô cây cá thể 68
4.7.4. Đề xuất ứng dụng xác định tổng sinh khối tươi và khô phần trên mặt
đất cho lâm phần rừng trồng Mỡ 69
4.7.5. Đề xuất ứng dụng xác định tổng lượng CO
2
được hấp thụ bởi các
phần trên mặt đất trong lâm phần rừng trồng Mỡ 70
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 71
Kết luận 71
Kiến nghị 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
PHỤ LỤC 78







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CDM : Cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism)
IPCC : Uỷ ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu
(The Intergovermental Panel on Climate Change)
UNFCCC : Công ước chống biến đổi khí hậu toàn cầu
(United Nations Framework Convention on Climate Change)
P.T : Phương trình
OTC : Ô tiêu chuẩn
VRR : Vật rơi rụng














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
viii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1: Cấu trúc sinh khối tươi cây cá thể Mỡ 41
Bảng 4.2: Mối quan hệ giữa tổng sinh khối tươi cây cá thể Mỡ với đường kính
thân cây (D
1.3
) 43
Bảng 4.3: Cấu trúc sinh khối khô cây cá thể Mỡ trong rừng trồng 45
Bảng 4.4: Mối quan hệ giữa tổng sinh khối khô cây cá thể Mỡ với đường kính
thân cây (D
1.3
) 46
Bảng 4.5: Tỷ lệ sinh khối khô so với sinh khối tươi cây cá thể (%) 47
Bảng 4.6: Mối quan hệ giữa tổng sinh khối khô với sinh khối tươi cây cá thể Mỡ
trong rừng trồng 47
Bảng 4.7: Cấu trúc sinh khối cây bụi, thảm tươi dưới tán rừng trồng Mỡ 48
Bảng 4.8: Mối quan hệ giữa sinh khối tươi và sinh khối khô cây bụi, thảm tươi
trong rừng trồng Mỡ 49
Bảng 4.9: Cấu trúc sinh khối vật rơi rụng trong rừng trồng Mỡ 50
Bảng 4.10: Mối quan hệ giữa sinh khối tươi và sinh khối khô vật rơi rụng 51
Bảng 4.11: Tổng sinh khối tươi toàn lâm phần theo độ tuổi 52
Bảng 4.12: Mối quan hệ tổng sinh khối tươi phần trên mặt đất toàn lâm phần với
các nhân tố điều tra 54
Bảng 4.13: Tổng sinh khối khô phần trên mặt đất toàn lâm phần theo độ tuổi 55
Bảng 4.14: Mối quan hệ giữa tổng sinh khối khô phần trên mặt đất toàn lâm phần
với các nhân tố điều tra 57
Bảng 4.15: Cấu trúc lượng carbon tích lũy trong cây cá thể 57

Bảng 4.16: Hàm lượng carbon ở các vị trí khác nhau trên thân 59
Bảng 4.17: Mối quan hệ giữa tổng lượng carbon tích lũy trong cây cá thể với các
nhân tố điều tra 60
Bảng 4.18: Mối quan hệ giữa carbon với sinh khối khô cây cá thể 61
Bảng 4.19: Cấu trúc carbon tích lũy trong cây bụi, thảm tươi ở rừng trồng Mỡ . 62
Bảng 4.20: Mối quan hệ giữa carbon với sinh khối khô cây bụi, thảm tươi 62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ix

Bảng 4.21: Lượng carbon tích lũy trong vật rơi rụng ở rừng trồng Mỡ 63
Bảng 4.22: Mối quan hệ giữa lượng carbon với sinh khối khô vật rơi rụng 63
Bảng 4.23: Hàm lượng carbon tích lũy trong lâm phần 64
Bảng 4.24: Hàm lượng CO
2
hấp thụ phần trên mặt đất trong lâm phần 65
Hình 4.7: Biểu đồ tổng lượng CO
2
hấp thụ toàn lâm phần 66
Bảng 4.25: Mối quan hệ giữa CO
2
được hấp thụ bởi phần trên mặt đất toàn lâm
phần với các nhân tố điều tra 66





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
x


DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ ẢNH
Hình 2.1: Sơ đồ các bước tiến hành nghiên cứu của đề tài 26
Hình 2.2: Sơ đồ ô tiêu chuẩn, ô thứ cấp và ô dạng bản 27
Hình 4.1: Biểu đồ sinh khối tươi cây cá thể Mỡ theo tuổi của rừng trồng 42
Hình 4.2: Cấu trúc sinh khối tươi cây cá thể Mỡ trong rừng trồng 43
Hình 4.3: Cấu trúc sinh khối tươi phần trên mặt đất toàn lâm phần 53
Hình 4.4: Cấu trúc sinh khối khô phần trên mặt đất toàn lâm phần 56
Hình 4.5: Biểu đồ carbon cây cá thể theo tuổi 58
Hình 4.6: Cấu trúc carbon trong cây cá thể Mỡ 59
Ảnh 1: Đo đường kính ngang ngực bằng thước kẹp kính 96
Ảnh 2: Đo đường kính tán bằng thước dây 96
Ảnh 3: Rừng Mỡ trồng thuần loài 10 tuổi tại xã Hợp Thành - Thành phố Lào Cai . 97
Ảnh 4: Rừng Mỡ trồng thuần loài 8 tuổi tại xã Đồng Tuyển - Thành phố Lào Cai . 97







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1

MỞ ĐẦU

Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của con người.
Rừng có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, giữ cân bằng
sinh thái và sự phát triển bền vững trên Trái Đất.
Sự biến đổi khí hậu đang đe dọa đến đời sống của nhiều dân tộc trên
khắp hành tinh. Con người đang phải đối mặt với những tác động của biến đổi

khí hậu như: dịch bệnh, đói nghèo, mất nơi ở, thiếu đất canh tác, sự suy giảm
đa dạng sinh học
Các nhà khoa học cho rằng, nguyên nhân trực tiếp của sự biến đổi khí
hậu là do phát thải quá mức khí nhà kính, đặc biệt là CO
2
. Với diện tích rừng
đang ngày một thu hẹp cộng với quá trình khai thác rừng không hợp lí chính là
cơ hội để lượng CO
2
tích tụ ngày càng nhiều trong bầu khí quyển. Theo
Christopher Field: “Lượng carbon tích trữ trong hệ sinh thái rừng thấp, dẫn đến
CO
2
trong khí quyển tăng nhanh hơn và quá trình nóng lên toàn cầu diễn ra
cũng mạnh hơn” và theo tuyên bố của tổ chức Thống kê Nam cực (BAS) của
Anh cho biết năm 2006 có gần 10 tỉ tấn khí CO
2
trong khí quyển Trái Đất, tăng
35% so với năm 1990.
Vì vậy nghiên cứu carbon trở thành một vấn đề trọng tâm trong khoa học
kể từ khi mức độ phát thải khí CO
2
ngày càng tăng lên. Trên thực tế lượng CO
2

hấp thụ phụ thuộc vào kiểu rừng, trạng thái rừng, loài cây ưu thế, tuổi lâm
phần, rừng cây có khả năng hấp thụ CO
2
ở các mùa khác nhau. Muốn giảm tác
hại nhà kính, đòi hỏi phải có những nghiên cứu, đánh giá về khả năng hấp thụ

của từng kiểu thảm thực vật rừng cũng như các trạng thái rừng cụ thể để làm cơ
sở lượng hóa những giá trị kinh tế mà rừng đem lại.
Nghị định thư Kyoto với cơ chế phát triển sạch - CDM - mở ra cơ hội
cho các nước đang phát triển trong việc tiếp nhận đầu tư từ các nước phát triển
để thực hiện các dự án lớn về trồng rừng, phục hồi rừng, quản lí bảo vệ rừng tự
nhiên, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng nông lâm kết hợp góp phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2

phát triển đất nước theo hướng bền vững. Nghiên cứu khả năng cố định CO
2

trong thực vật thân gỗ để xác định giá trị kinh tế với chức năng phòng hộ môi
trường sinh thái của rừng là một hướng nghiên cứu mới cần được quan tâm và
phát triển.
Mỡ (Manglietia conifera) là loài cây gỗ lớn, cao tới 25 - 30m, đường
kính ngang ngực đạt tới 50 - 60cm, thân thẳng, tròn, vỏ xám bạc, thịt màu
trắng và có mùi thơm nhẹ. Gỗ mỡ màu sáng hoặc vàng nhạt, mềm nhẹ, tỷ
trọng 0,48, gỗ mịn, ít nứt nẻ, mối mọt. Đây là loài cây sinh trưởng nhanh, tỉa
cành tự nhiên tốt, tái sinh chồi mạnh, có thể kinh doanh một, hai luân kỳ tiếp
theo với năng suất cao, nên mục đích kinh doanh chủ yếu từ trước tới nay
đối với loài cây này là cung cấp gỗ nhỏ, gỗ nguyên liệu giấy, gỗ gia dụng, gỗ
dán lạng, gỗ trụ mỏ, Ngày nay, với công nghệ tạo ván ghép thanh gỗ mỡ
được dùng để chế tạo ra các đồ mộc cao cấp xuất khẩu rất có giá trị được
khách hàng nước ngoài ưa dùng. Với những lý do đó Mỡ đã được chọn là
một trong những loài cây trồng rừng chủ lực vùng trung tâm Bắc Bộ và
Đông Bắc Việt Nam theo quyết định số 16/2005/QĐ-BNN ngày 15/3/2005
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Mỡ là loài cây được nghiên cứu tương đối toàn diện về kỹ thuật gây
trồng, tăng trưởng, sinh trưởng, chọn tạo giống, trồng rừng thâm canh, sản

lượng gỗ và ảnh hưởng của Mỡ tới khí hậu, đất đai, Tuy nhiên, nghiên cứu về
sinh khối và khả năng hấp thụ carbon của rừng Mỡ chưa được tiến hành một
cách hệ thống và đầy đủ. Cơ chế phát triển sạch (CDM) đang mở ra vận hội
mới cho ngành lâm nghiệp nước ta trong việc bán lượng carbon được hấp thụ
bởi rừng thì Mỡ là một trong những loài cây trồng rừng rất được chú ý. Để có
cơ sở cho việc tính toán giá trị thương mại carbon mà rừng Mỡ trồng có thể tạo
ra, việc nghiên cứu xác định sinh khối và lượng carbon hấp thụ của rừng Mỡ là
rất cần thiết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu khả năng hấp thụ khí CO
2
của một số quần xã rừng trồng mỡ ở
thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”, nhằm đưa ra những dẫn liệu về khả năng
tích luỹ carbon của rừng trồng mỡ ở thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.




















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu sinh khối và năng suất rừng
Sinh khối và năng suất rừng là những vấn đề đã được rất nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Từ những năm 1840 trở về trước, đã có những công trình
nghiên cứu về lĩnh vực sinh lý thực vật, đặc biệt là vai trò và hoạt động của
diệp lục thực vật màu xanh trong quá trình quang hợp để tạo nên các sản phẩm
hữu cơ dưới tác động của các nhân tố tự nhiên như: đất, nước, không khí và
năng lượng ánh sáng mặt trời. Sang thế kỷ XIX nhờ áp dụng các thành tựu
khoa học như hoá phân tích, hoá thực vật và đặc biệt là vận dụng nguyên lý
tuần hoàn vật chất trong thiên nhiên, các nhà khoa học đã thu được những
thành tựu đáng kể. Tiêu biểu cho lĩnh vực này có thể kể tới một số tác giả sau:
- Liebig, J (1862) lần đầu tiên đã định lượng về sự tác động của thực vật
tới không khí và phát triển thành định luật “tối thiểu”. Mitscherlich, E.A.
(1954) đã phát biểu luật tối thiểu của Liebig, J thành luật “năng suất” (dẫn theo
Võ Đại Hải - 2009) [5].
- Riley, G.A (1944) [34], Steemann Nielsen, E (1954), Fleming, R.H.
(1957) đã tổng kết quá trình nghiên cứu và phát triển sinh khối rừng trong các
công trình nghiên cứu của mình (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].

- Lieth, H. (1964) đã thể hiện năng suất trên toàn thế giới bằng bản đồ
năng suất, đồng thời với sự ra đời của chương trình sinh học quốc tế “IBP”
(1964) và chương trình sinh quyển con người “MAB” (1971) đã tác động mạnh
mẽ tới việc nghiên cứu sinh khối. Những nghiên cứu trong giai đoạn này tập
trung vào các đối tượng đồng cỏ, savan, rừng rụng lá, rừng mưa thường xanh
(dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
- Duyiho cho biết thực vật ở biển hàng năm quang hợp đến 3x10
10
tấn
vật chất hữu cơ, còn trên mặt đất là 5,3x10
10
tấn. Riêng với hệ sinh thái rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5

nhiệt đới năng suất chất khô thuần từ 10 - 50 tấn/ha/năm, trung bình là 20
tấn/ha/năm, sinh khối chất khô từ 60 - 800 tấn/ha/năm, trung bình là 450
tấn/ha/năm (dẫn theo Lê Hồng Phúc - 1994) [11].
- Dajoz (1971) tính toán năng suất sơ cấp của một số hệ sinh thái
như sau:
+ Mía ở châu Phi: 67 tấn/ha/năm.
+ Rừng nhiệt đới thứ sinh ở Yangambi: 20 tấn/ha/năm.
+ Savana cỏ Mỹ (Penisetum purpureum) châu Phi: 30 tấn/ha/năm.
+ Đồng cỏ tự nhiên ở Fustuca (Đức): 10,5 - 15,5 tấn/ha/năm.
+ Đồng cỏ tự nhiên Deschampia và Trifolium ở vùng ôn đới là 23,4
tấn/ha/năm.
+ Sinh khối (Biomass) của Savana cỏ cao Andrôpgon (cỏ Ghine): 5000 -
10000 kg/ha/năm. Rừng thứ sinh 40 - 50 tuổi ở Ghana: 362.369 kg/ha/năm (dẫn
theo Dương Hữu Thời - 1992) [20].
- Canell, M.G.R (1981) [29] đã công bố công trình “Sinh khối và năng

suất sơ cấp rừng thế giới - World forest biomass and primary production data”
trong đó tập hợp 600 công trình đã được xuất bản về sinh khối khô thân, cành,
lá và một số thành phần, sản phẩm sơ cấp của hơn 1.200 lâm phần thuộc 46
nước trên thế giới.
- Theo Rodel D. Lasco (2002), mặc dù rừng chỉ che phủ 21% diện tích
bề mặt Trái Đất, nhưng sinh khối thực vật của nó chiếm đến 75% so với tổng
sinh khối thực vật trên cạn và lượng tăng trưởng sinh khối hàng năm chiếm
37% (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Khi nghiên cứu về sinh khối, phương pháp xác định có ý nghĩa rất quan
trọng vì nó liên quan đến độ chính xác của kết quả nghiên cứu, đây cũng là vấn
đề được nhiều tác giả quan tâm. Tuỳ từng tác giả với những điều kiện khác
nhau mà sử dụng các phương pháp xác định sinh khối khác nhau, trong đó có
thể kể đến một số tác giả chính như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6

- Một số tác giả như Trasnean (1926), Huber (Đức, 1952), Monteith
(Anh, 1960 - 1962), Lemon (Mỹ, 1960 - 1987), Inone (Nhật, 1965 - 1968),…
đã dùng phương pháp dioxit carbon để xác định sinh khối. Theo đó, sinh khối
được đánh giá bằng cách xác định tốc độ đồng hoá CO
2
.
- Aruga và Maidi (1963): đưa ra phương pháp “Chlorophyll” để xác định
sinh khối thông qua hàm lượng Chlorophyll trên một đơn vị diện tích mặt đất.
Đây là một chỉ tiêu biểu thị khả năng của hệ sinh thái hấp thụ các tia bức xạ
hoạt động quang tổng hợp.
- Khi xem xét các phương pháp nghiên cứu Whitaker, R.H (1961,
1966) Mark, P.L (1971) cho rằng “Số đo năng suất chính là số đo về tăng
trưởng, tích luỹ sinh khối ở cơ thể thực vật trong quần xã” (dẫn theo Võ Đại
Hải - 2009) [5].

- Năng suất sơ cấp tuyệt đối là lượng chất hữu cơ tích luỹ trong cơ thể
thực vật trong một đơn vị thời gian trên một đơn vị diện tích, lượng vật chất
này mới thực sự có ý nghĩa đối với đời sống con người. Từ đó, Woodwell, G.M
(1965) và Whitaker, R.H (1968) đã đề ra phương pháp “thu hoạch” để nghiên
cứu năng suất sơ cấp tuyệt đối (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
- Newbuold.P.J (1967) [32] đề nghị phương pháp “cây mẫu” để nghiên
cứu sinh khối và năng suất của quần xã từ các ô tiêu chuẩn. Phương pháp này
được chương trình quốc tế “IBP” thống nhất áp dụng.
- Sinh khối rừng có thể xác định nhanh chóng dựa vào mối liên hệ
giữa sinh khối với kích thước của cây hoặc của từng bộ phận cây theo dạng
hàm toán học nào đó. Phương pháp này được sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ và
châu Âu (Whitaker, 1966; Tritton và Hornbeck, 1982; Smith và Brand,
1983). Tuy nhiên, do khó khăn trong việc thu thập rễ cây, nên phương pháp
này chủ yếu dùng để xác định sinh khối của bộ phận trên mặt đất (Grier và
cộng sự, 1989; Reichel, 1991; Burton V. Barner và cộng sự, 1998) (dẫn theo
Võ Đại Hải - 2009) [5].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7

- Edmonton. Et. Al (1968) đề xướng phương pháp Oxygen nhằm định
lượng oxygen tạo ra trong quá trình quang hợp của thực vật màu xanh. Từ đó
tính ra được năng suất và sinh khối rừng.
- Schumarcher, Spurr, Prodan, Alder, Abadie: đã sử dụng mô hình toán
học để mô phỏng sinh khối, năng suất rừng thông qua một số nhân tố điều tra
như: đường kính, chiều cao, cấp đất, tuổi, mật độ,…
- Phương pháp lấy mẫu rễ để xác định sinh khối được mô tả bởi
Shurrman và Geodewaaen (1971), Moore (1973), Gadow và Hui (1999),
Oliveira và cộng sự (2000), Voronoi (2001), McKenzie và cộng sự (2001) (dẫn
theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
- Bộ phận cây bụi và những cây tầng dưới của tán rừng đóng góp một

phần quan trọng trong tổng sinh khối rừng. Có nhiều phương pháp để xác định
sinh khối cho cây bụi và cây tầng dưới trong hệ sinh thái cây gỗ (Catchpole và
Wheeler, 1992). Các phương pháp bao gồm: (1)- Lấy mẫu toàn bộ cây
(quadrats); (2)- phương pháp kẻ theo đường; (3)- phương pháp mục trắc; (4)-
phương pháp lấy mẫu kép sử dụng tương quan.
Các nhà sinh thái rừng đã dành sự quan tâm đặc biệt đến nghiên cứu sự
khác nhau về sinh khối rừng ở các vùng sinh thái. Tuy nhiên, việc xác định đầy
đủ sinh khối rừng không dễ dàng, đặc biệt là sinh khối của hệ rễ, nên việc làm
sáng tỏ vấn đề trên đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn nữa mới đưa ra được những dẫn
liệu mang tính thực tiễn và có sức thuyết phục cao. Hiện nay tồn tại 3 cách tiếp
cận để xác định sinh khối rừng như sau:
Cách i) Tiếp cận thứ nhất: Dựa vào mối liên hệ giữa sinh khối rừng với
kích thước của cây hoặc của từng bộ phận cây theo dạng hàm toán học nào đó.
Hướng tiếp cận này được sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ và châu Âu (Whittaker,
1966; Tritton và Hornbeck, 1982; Smith và Brand, 1983) (dẫn theo Võ Đại Hải
- 2009) [5].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8

Cách ii) Tiếp cận thứ hai: Xác định sinh khối rừng thông qua đo trực tiếp
quá trình sinh lý điều khiển cân bằng carbon trong hệ sinh thái. Cách này bao
gồm việc đo cường độ quang hợp và hô hấp cho từng thành phần trong hệ sinh
thái rừng (lá, cành, thân, rễ), sau đó ngoại suy ra lượng CO
2
tích lũy trong toàn
bộ hệ sinh thái. Các nhà sinh thái rừng thường sử dụng tiếp cận này để dự tính
tổng sản lượng nguyên, hô hấp của hệ sinh thái và sinh khối hiện có của nhiều
dạng rừng trồng hỗn giao ở Bắc Mỹ (Botkin và cộng sự, 1970; Woodwell và
Botkin, 1970).
Cách iii) Tiếp cận thứ ba: Được phát triển trong những năm gần đây với

sự hỗ trợ của kỹ thuật vi khí tượng học (micrometeological techniques).
Phương pháp phân tích hiệp phương sai dòng xoáy đã cho phép định lượng sự
thay đổi của lượng CO
2
theo mặt phẳng đứng của tán rừng. Căn cứ vào tốc độ
gió, hướng gió, nhiệt độ, số liệu CO
2
theo mặt phẳng đứng để dự đoán lượng
carbon đi vào và đi ra khỏi hệ sinh thái rừng theo định kỳ từng giờ, từng ngày,
từng năm. Kỹ thuật này đã áp dụng thành công ở rừng thứ sinh Harward -
Massachusetts. Tổng lượng carbon tích lũy dự đoán theo phương pháp phân
tích hiệp phương sai dòng xoáy là 3,7 megagram/ha/năm. Tổng lượng carbon
hô hấp của toàn bộ hệ sinh thái vào ban đêm là 7,4 megagram/ha/năm. Vì thế
tổng lượng carbon đi vào hệ sinh thái là 11,1 megagram/ha/năm (Wofsy và
cộng sự, 1993).
1.1.2. Nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của rừng
Trên cơ sở các phương pháp tiếp cận về sinh khối rừng nêu trên, các nhà
khoa học đã nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon cho các đối tượng khác nhau
và đã thu được các kết quả đáng kể.
Để nghiên cứu lượng carbon hấp thụ, các mẫu thứ cấp đã được dùng để
phân tích hàm lượng carbon theo phương pháp đốt cháy (Rayment và
Higginsin, 1992). Mẫu thứ cấp được đốt cháy bằng oxi tinh khiết trong môi
trường nhiệt độ cao và chuyển toàn bộ carbon thành carbonoxit, sau đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9

carbonoxit được tách ra bằng máy dò của dòng Heli tinh khiết. Các loại oxit
khác (nitơ, lưu huỳnh,…) được tách ra từ dòng khí. Hàm lượng carbon được
tính toán bằng phương pháp không tán sắc của vùng quang phổ hồng ngoại.
Phân tích hàm lượng carbon bằng hai phương pháp phép sắc ký của dòng khí

và quang phổ khối (Gifford, 2000). Sử dụng phương pháp đốt lò có thể phân
tích được hàm lượng nitơ oxit cùng với hàm lượng carbonoxit và có thể phân
tích thêm các loại khoáng để tăng thêm giá trị của số liệu.
Rừng là bể chứa carbon khổng lồ của Trái Đất. Tổng lượng hấp thu dự
trữ carbon của rừng trên toàn thế giới khoảng 830 PgC, trong đó carbon trong
đất lớn hơn 1,5 lần carbon dự trữ trong thảm thực vật (Brown, 1997). Đối với
rừng nhiệt đới, có tới 50% lượng carbon dự trữ trong thảm thực vật và 50% dự
trữ trong đất (Dixon et al., 1994 [30]; Brown, 1997; IPCC, 2000; Pregitzer and
Euskirchen, 2004 [33]) (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Theo ước tính, hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng trên thế giới có tỷ
lệ hấp thu CO
2
ở sinh khối là 0,4 - 1,2 tấn/ha/năm ở vùng cực bắc; 1,5 - 4,5
tấn/ha/năm ở vùng ôn đới và 4 - 8 tấn/ha/năm ở các vùng nhiệt đới (Dixon et
al., 1994 [30]; IPCC, 2000) (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Brown và cộng sự (1996) [28] đã ước lượng tổng lượng carbon mà hoạt
động trồng rừng trên thế giới có thể hấp thu tối đa trong vòng 5 năm (1995 -
2000) là khoảng 60 - 87 Gt C, với 70% ở rừng nhiệt đới, 25% ở rừng ôn đới và
5% ở rừng cực bắc (Cairns et al., 1997). Tính tổng lại rừng trồng có thể hấp thu
được 11 - 15% tổng lượng CO
2
phát thải từ nguyên liệu hoá thạch trong thời
gian tương đương (Brown, 1997) (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Một số kết quả nghiên cứu về khả năng hấp thụ carbon của các
dạng rừng
- Năm 1980, Brown và cộng sự đã sử dụng công nghệ GIS dự tính lượng
carbon trung bình trong rừng nhiệt đới Châu Á là 144 tấn/ha trong phần sinh
khối và 148 tấn/ha trong lớp đất mặt với độ sâu 1m, tương đương 42 - 43 tỷ tấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10


carbon trong toàn châu lục. Năm 1991, Houghton R.A đã chứng minh lượng
carbon trong rừng nhiệt đới châu Á là 40 - 250 tấn/ha, trong đó 50 - 120 tấn/ha
ở phần thực vật và đất (dẫn theo Phạm Xuân Hoàn - 2005) [7].
- Năm 1986, Paml, C.A và cộng sự [31] đã cho rằng lượng carbon
trung bình trong sinh khối phần trên mặt đất của rừng nhiệt đới châu Á là
185 tấn/ha và biến động từ 25 - 300 tấn/ha. Kết quả nghiên cứu của Brown
(1991) cho thấy rừng nhiệt đới Đông Nam Á có lượng sinh khối trên mặt đất
từ 50 - 430 tấn/ha (tương đương 25 - 215 tấn C/ha) và trước khi có tác động
của con người thì các trị số tương ứng là 350 - 400 tấn/ha (tương đương 175
- 200 tấn C/ha) [31].
- Brown và Pearce (1997) đưa ra các số liệu đánh giá lượng carbon và tỷ
lệ thất thoát đối với rừng nhiệt đới. Theo đó một khu rừng nguyên sinh có thể
hấp thụ được 280 tấn carbon/ha và sẽ giải phóng 200 tấn carbon/ha nếu bị
chuyển thành du canh du cư và sẽ giải phóng carbon nhiều hơn một chút nếu
được chuyển thành đồng cỏ hay đất nông nghiệp. Rừng trồng có thể hấp thụ
khoảng 115 tấn carbon và con số này sẽ giảm từ 1/3 đến 1/4 khi rừng chuyển
đổi sang canh tác nông nghiệp (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
- Năm 1995, Murdiyarso D đã nghiên cứu và đưa ra dẫn liệu rừng
Indonesia có lượng carbon hấp thụ từ 161 - 300 tấn/ha trong phần sinh khối
trên mặt đất [31].
- Tại Philippines, năm 1999 Lasco R cho biết ở rừng tự nhiên thứ sinh có
86 - 201 tấn C/ha trong phần sinh khối trên mặt đất; ở rừng già con số đó là 185
- 260 tấn C/ha (tương đương 370 - 520 tấn sinh khối/ha, lượng carbon ước tính
chiếm 50% sinh khối) (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
- Tại Thái Lan, Noonpragop K đã xác định lượng carbon trong sinh khối
trên mặt đất là 72 - 182 tấn/ha.
- Ở Malaysia, lượng carbon trong rừng biến động từ 100 - 160 tấn/ha và
tính cả trong sinh khối và đất là 90 - 780 tấn/ha (Abu Bakar,R) [31].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11

- Năm 2000 tại Indonesia, Noordwijk [31] đã nghiên cứu khả năng tích
luỹ carbon của các rừng thứ sinh, các hệ nông lâm kết hợp và thâm canh cây
lâu năm. Kết quả cho thấy lượng carbon hấp thụ trung bình là 2,5 tấn/ha/năm.
- Công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống về lượng
carbon tích luỹ của rừng được thực hiện bởi Ilic (2000) và Mc Kenzie (2001).
Theo Mc Kenzie (2001), carbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở bốn
bộ phận chính: thảm thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất
rừng. Việc xác định lượng carbon trong rừng thường được thực hiện thông qua
xác định sinh khối rừng (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Kết quả nghiên cứu về sự biến động carbon sau khi khai thác rừng
- Theo Lasco (2003) lượng sinh khối và carbon của rừng nhiệt đới châu
Á bị giảm khoảng 22 - 67% sau khai thác; tại Philippines, ngay sau khi khai
thác lượng carbon bị mất là 50%, so với rừng thành thục trước khai thác; ở
Indonesia là 38 - 75% (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
- Theo Putz F.E. & Pinard M.A (1993), phương thức khai thác cũng có
ảnh hưởng rõ rệt tới mức thiệt hại do khai thác hay lượng carbon bị giảm. Bằng
việc áp dụng phương thức khai thác giảm thiểu (RIL) tác động ở Sabah
(Malaysia) sau khai thác một năm, lượng sinh khối đã đạt 44 - 67% so với
trước khai thác. Lượng carbon trong lâm phần sau khai thác theo RIL cao hơn
lâm phần khai thác theo phương thức thông thường đến 88 tấn/ha (dẫn theo
Phạm Xuân Hoàn - 2005) [7].
- Nghiên cứu sự biến động carbon sau nương rẫy cho thấy rằng: Nếu
rừng bị phá bỏ hoàn toàn để làm nương rẫy hay trở thành trảng cỏ sẽ làm cho
khả năng tích lũy carbon giảm nghiêm trọng (dẫn theo Phạm Xuân Hoàn -
2005) [7].
- Thay thế rừng tự nhiên bằng rừng trồng hoặc cây công nghiệp lâu
năm là hình thức thay đổi phương thức sử dụng đất khá phổ biến ở các nước
nhiệt đới và kết quả là làm giảm lượng carbon trong các hệ sinh thái mới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12

được hình thành so với rừng tự nhiên vốn có. Tại Indonesia, các đồn điền cọ
dầu và cà phê có lượng carbon hấp thụ thấp hơn rừng tự nhiên từ 6% - 31%
(Sitompul.S.M. et al, 2000); các hệ canh tác nông lâm kết hợp và rừng trồng
mức chênh lệch này là 4 - 27% (Hairiah.K. và cộng sự, 2000) (dẫn theo
Phạm Xuân Hoàn - 2005) [7].
- Theo Rodel D. Lasco (2002), lượng carbon tích luỹ bởi rừng chiếm
47% tổng lượng carbon trên trái đất, nên việc chuyển đổi đất rừng thành các
loại hình sử dụng đất khác có tác động mạnh mẽ đến chu trình carbon. Các hoạt
động lâm nghiệp và sự thay đổi phương thức sử dụng đất, đặc biệt là sự suy
thoái rừng nhiệt đới là một nguyên nhân quan trọng làm tăng lượng CO
2
trong
khí quyển, ước tính có khoảng 1,6 tỷ tấn/năm trong tổng số 6,3 tỷ tấn khí
CO
2
/năm được phát thải ra do các hoạt động của con người. Vì vậy, rừng nhiệt
đới và sự biến động của nó có ý nghĩa rất to lớn trong việc hạn chế quá trình
biến đổi khí hậu toàn cầu (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Với sự ra đời của nghị định thư Kyoto, vai trò của rừng trong giảm phát
thải khí nhà kính và chống lại sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định. Theo
kết quả tính toán, giá trị hấp thụ CO
2
của các khu rừng tự nhiên nhiệt đới
khoảng từ 500 - 2000 USD/ha và đối với rừng ôn đới từ 100 - 300 USD/ha
(Zang, 2000). Giá trị hấp thụ CO
2
ở rừng Amazon được ước tính là 1625

USD/ha/năm, trong đó rừng nguyên sinh là 4000 - 4400 USD/ha/năm, rừng thứ
sinh là 1000 - 3000 USD/ha/năm và rừng thưa là 600 - 1000 USD/ha/năm
(Camille Bann và Bruce Aylward, 1994) (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
1.1.3. Nghiên cứu về cây Mỡ (Manglietia conifera)
Mỡ (Manglietia conifera) được Dandy mô tả tại Journ. Boot (1930) là
loài cây gỗ nhỡ lá rộng thường xanh, chiều cao có thể đạt được 20 - 25m và
đường kính 20 - 50cm (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo gỗ và giá trị sử dụng của Mỡ cũng được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của Ginoga B, (1978)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13

cho thấy gỗ Mỡ có màu sáng và trọng lượng trung bình với tỷ trọng từ 320 -
580 kg/m
3
với độ ẩm 15%. Gỗ có chất lượng tốt có thể sử dụng làm nhà và cầu,
đóng đồ, gỗ ván ghép, gỗ trang trí mặt ngoài và gỗ dán. Gỗ cũng có thể dùng
cho nghệ thuật trạm khắc (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Stefanov-B; Naidenova-Ts (1975) đã đưa ra những điểm đáng lưu ý về
39 loài cây gỗ lá rộng của Việt Nam mà Bungari quan tâm, đặt biệt là ngành
công nghiệp đóng đồ gia dụng, trong đó có Mỡ, Ngọc lan vàng, Long não, Đàn
hương và một số cây khác (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Giertz-HW (1974) đã đưa ra kết quả phân tích trong phòng thí nghiệm về
chất hydrogen sunphite trong gỗ ở những loài cây gỗ lá rộng ở Scandinavian:
Mỡ, Bạch đàn, Lõi thọ, Bồ đề,… một số chỉ tiêu như thời gian sấy, lượng chất
hoá học đã sử dụng, các đặc tính về độ bền, độ đục, độ sáng và kích thước của
sợi gỗ đã được so sánh với gỗ của loài cây Vân sam. Kết quả phân tích cho thấy
các loài cây gỗ này thích hợp làm nguyên liệu giấy. Từ đó đã đưa ra thảo luận
vấn đề mở rộng phạm vi trồng đối với các loài cây này (dẫn theo Võ Đại Hải -
2009) [5].

Nghiên cứu về đất dưới tán rừng trồng Mỡ cũng được quan tâm. Theo
Chertov-OG (1974) đã đưa ra chi tiết về cấu tạo của đất mùn, đất sét trộn màu
vàng trên tầng đất từ trung bình đến dày, hoặc sự phong hoá mạnh của đá Gnai
dưới rừng trồng mỡ 10 tuổi. Nghiên cứu cho thấy sự hình thành chất mùn
nhanh hơn, với một lượng Axit fulvic cao (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
Về lĩnh vực nông lâm kết hợp, Sellgren-P; Svensson-C (1997) đã kết hợp
Mỡ, Dứa và Quế làm thành hệ thống hàng rào cây xanh để giảm bớt hiện tượng
xói mòn đất và cải thiện độ màu mỡ của đất (dẫn theo Võ Đại Hải - 2009) [5].
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu sinh khối và năng suất rừng
So với những vấn đề nghiên cứu khác trong lĩnh vực lâm nghiệp, nghiên
cứu về sinh khối rừng ở nước ta được tiến hành khá muộn (cuối thập kỷ 80),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14

tản mạn và không có hệ thống. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng đã đem lại
những kết quả rất có ý nghĩa và để lại nhiều dấu ấn.
Hoàng Mạnh Trí (1986) [22]: với công trình “Sinh khối và năng suất
rừng Đước” đã áp dụng phương pháp “cây mẫu” nghiên cứu năng suất, sinh
khối một số quần xã rừng Đước đôi (Zhizophora apiculata) rừng ngập mặn
ven biển Minh Hải là đóng góp có ý nghĩa lớn về mặt lý luận và thực tiễn đối
với hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển nước ta. Hà Văn Tuế (1994) [25]
cũng trên cơ sở phương pháp “cây mẫu” của Newboul, P.J (1967) nghiên
cứu năng suất, sinh khối một số quần xã rừng trồng nguyên liệu giấy tại
vùng trung du Vĩnh Phúc.
Công trình “Đánh giá sinh trưởng, tăng trưởng, sinh khối và năng suất
rừng Thông ba lá (Pinus keysia Royle ex Gordon) vùng Đà Lạt - Lâm Đồng”
của Lê Hồng Phúc (1996) [12] đã tìm ra quy luật tăng trưởng sinh khối, cấu
trúc thành phần tăng trưởng sinh khối thân cây. Tỷ lệ sinh khối tươi, khô của
các bộ phận thân, cành, lá, rễ, lượng rơi rụng, tổng sinh khối cá thể và quần thể

rừng Thông. Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Lung và Ngô Đình Quế cũng đã
nghiên cứu về động thái, kết cấu sinh khối và tổng sinh khối cho loài cây này.
Vũ Văn Thông (1998) [21] với công trình “Nghiên cứu cơ sở xác định
sinh khối cây cá lẻ và lâm phần Keo lá tràm (Acacia auriculiformis Cunn) tại
tỉnh Thái Nguyên” đã giải quyết được một số vấn đề thực tiễn đặt ra, đó là
nghiên cứu và xây dựng mô hình xác định sinh khối Keo lá tràm, lập các bảng
tra sinh khối tạm thời phục vụ cho công tác điều tra kinh doanh rừng.
Cũng với loài Keo lá tràm, Hoàng Văn Dưỡng (2000) [4] đã tìm ra quy
luật quan hệ giữa các chỉ tiêu sinh khối với các chỉ tiêu biểu thị kích thước của
cây, quan hệ giữa sinh khối tươi và sinh khối khô các bộ phận, thân cây Keo lá
tràm. Nghiên cứu cũng đã lập được biểu tra sinh khối và ứng dụng biểu xác
định sinh khôi cây cá lẻ và lâm phần Keo lá tràm.

×