Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ MAI QUYÊN
HÁT VÍ LƢU TAM CỦA DÂN TỘC SÁN CHAY
Ở TỨC TRANH, PHÚ LƢƠNG, THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Thái Nguyên – 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ MAI QUYÊN
HÁT VÍ LƢU TAM CỦA DÂN TỘC SÁN CHAY
Ở TỨC TRANH, PHÚ LƢƠNG, THÁI NGUYÊN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hằng Phƣơng
Thái Nguyên - 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn
là trung thực, khách quan và chưa có ai công bố trong bất cứ công trình nghiên
cứu nào.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ
nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 22 tháng 5 năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Mai Quyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bầy tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS.
TS Nguyễn Hằng Phƣơng - ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu đề tài luận văn.
Trong quá trình làm luận văn, tôi còn nhận đƣợc sự chỉ bảo, góp ý, tạo
điều kiện của các thầy cô khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng Quản
lý khoa học, nhân viên thƣ viện trƣờng Đại học Sƣ phạm - Đại học Thái
Nguyên, tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Cảm ơn Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao và Du lịch Tỉnh Thái Nguyên,
các nghệ nhân xã Tức Tranh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình thu thập tài liệu.
Tôi cũng xin đƣợc bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp - những ngƣời luôn dành cho tôi sự quan tâm, động viên, chia sẻ
và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 22 tháng 5 năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Mai Quyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. 8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu. 8
6. Đóng góp của luận văn. 9
7. Bố cục luận văn. 10
NỘI DUNG 11
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC SÁN CHAY Ở TỨC TRANH, PHÚ
LƢƠNG, THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 11
1.1. Khái quát về dân tộc Sán Chay ở Việt Nam và Phú Lƣơng, Thái
Nguyên. 11
1.1.1. Ngƣời Sán Chay ở Việt Nam 11
1.1.2. Ngƣời Sán Chay ở Phú Lƣơng - Thái nguyên 12
1.2. Khái quát về dân tộc Sán Chay ở Tức Tranh, Phú Lƣơng, Thái
Nguyên. 13
1.2.1. Nguồn gốc lịch sử. 14
1.2.2. Dân số và địa bàn cƣ trú. 14
1.2.3. Ngôn ngữ. 14
1.2.4. Quan hệ gia đình và quan hệ xã hội 15
1.2.5. Hoạt động kinh tế 16
1.2.6. Văn hóa truyền thống. 17
1. 3. Khái niệm và nguồn gốc “Hát Ví Lưu Tam” 22
1.3.1. Khái niệm Hát Ví Lƣu Tam 22
1.3.2. Nguồn gốc Hát Ví Lƣu Tam 24
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chƣơng 2: CÁC DẠNG THỨC HÁT VÍ LƢU TAM CỦA DÂN TỘC SÁN
CHAY Ở TỨC TRANH, PHÚ LƢƠNG, THÁI NGUYÊN 29
2.1. Các dạng thức Hát ví Lƣu Tam chia theo tiêu chí thời gian 29
2.1.1. Hát ví Lƣu Tam ban ngày 29
2.1.2. Hát ví Lƣu Tam ban đêm 30
2.2. Các dạng thức Hát ví Lƣu Tam chia theo tiêu chí nội dung 32
2.2.1. Các bài ca nghi lễ - phong tục 32
2.2.1.1. Các bài ca nông lễ 32
2.2.1.2. Các bài ca hôn lễ 35
2.2.1.3. Các bài ca tang lễ 41
2.2.1.4. Các bài ca chúc mừng. 42
2.2.2. Các bài ca lao động 48
2.2.3. Các bài ca giao duyên 50
2.2.4. Các bài ca sinh hoạt 53
2.2.4.1. Hát ru 54
2.2.4.2. Hát vui chơi 56
2.2.4.3. Hát mời 58
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 60
Chƣơng 3 : NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN HÁT VÍ
LƢU TAM CỦA DÂN TỘC SÁN CHAY Ở TỨC TRANH, PHÚ LƢƠNG,
THÁI NGUYÊN 61
3. 1. Một số nội dung cơ bản 61
3.1.1. Phản ánh văn hóa ứng xử 61
3.1.2. Thể hiện tình yêu thiên nhiên. 63
3.1.3. Ca ngợi lao động và tình yêu lao động 66
3.1.4. Đề cao đạo đức, lối sống. 69
3.1.5. Thể hiện tình yêu lứa đôi 73
3. 2. Một số đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu 76
3.2.1. Thể thơ và kết cấu 76
3.2.1.1. Thể thơ 76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2.1.2. Kết cấu 78
3.2.2. Vần và nhịp 81
3.2.2.1. Vần 81
3.2.2.2. Nhịp 85
3.2.4. Các biện pháp tu từ 86
3.2.4.1. So sánh 86
3.2.4.2. Ẩn dụ 88
3.2.4.3. Nhân hóa 90
3.3. Hiện trạng và vấn đề bảo tồn Hát ví Lƣu Tam . 92
3.3.1. Hiện trạng về Hát ví Lƣu Tam 92
3.3.1.1. Tƣ liệu về Hát ví Lƣu Tam 92
3.3.1.2. Đối tƣợng Hát ví Lƣu Tam 93
3.3.1.3. Sự quan tâm của các cấp quản lý 94
3.3.2. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn 95
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 97
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 105
1. Một số bài Hát ví Lƣu Tam tiêu biểu ở Tức Tranh, Phú Lƣơng, Thái Nguyên
đã đƣợc nghệ nhân Hầu Thanh Tĩnh dịch 105
2. Một số bài Hát ví Lƣu Tam ở Tức Tranh, Phú lƣơng, Thái Nguyên do tác giả
sƣu tầm. 112
3. Gặp gỡ một số nghệ nhân Hát ví Lƣu Tam 116
4. Một số hình ảnh về đời sống văn hóa của dân tộc sán Chay ở Tức Tranh, Phú
Lƣơng, Thái Nguyên 125
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Làng quê Việt Nam ở đâu cũng vậy, ẩn chứa trong nó bao điều gần
gũi và thân thƣơng. Mỗi một miền quê đều có những câu hò, điệu hát rất chung
mà lại rất riêng, mang âm hƣởng của từng vùng, miền. Tất cả cùng hòa vào câu
thơ, giọng hát của những làn điệu, tạo thành dòng dân ca Việt Nam rất đa dạng
và phong phú. Dân ca của các vùng miền không chỉ đậm đà chất thơ, chất nhạc
mà còn thể hiện một cách tự nhiên chân thành, đằm thắm tình cảm con ngƣời
và hồn cốt mỗi dân tộc. Nhắc đến dân tộc Tày là nhắc đến Hát Then, Hát Lƣợn.
Dân tộc Nùng là Hát Sli. Dân tộc Sán Dìu là Hát Sọong Cô. Văn nghệ dân gian
Kinh Bắc là những làn điệu quan họ mƣợt mà. Còn với dân tộc Sán Chay, họ tự
hào có Hát ví Lƣu Tam (hát Sấng Cọo hay hát Xình ca) ngọt ngào và mê đắm
lòng ngƣời. Hát ví Lƣu Tam của dân tộc Sán Chay đã có từ rất lâu đời, là một
loại dân ca trữ tình đƣợc viết theo thể thất ngôn, do chính những ngƣời nông
dân thật thà, chất phác sáng tạo nên, đƣợc lƣu truyền từ đời này sang đời khác,
thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu bằng con đƣờng truyền miệng hoặc đƣợc
ghi chép lại bằng chữ Hán cổ. Khi hát, đồng bào sử dụng ngôn ngữ địa phƣơng
và trang phục truyền thống, không chỉ tạo đƣợc sự lôi cuốn, hấp dẫn mà còn
khuyến khích mọi ngƣời tìm hiểu cái hay, cái đẹp của làn điệu dân ca này trong
đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc mình để gìn giữ và bảo tồn.
1.2. Quá trình phát triển của xã hội nói chung và sự giao thoa giữa các
nền văn hóa nói riêng đã làm mai một những nét đặc trƣng về bản sắc văn hóa
của ngƣời Sán Chay đặc biệt là vốn hát nên từ sau khi thực hiện Nghị quyết
Trung ƣơng V (khoá VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, huyện Phú Lƣơng đã dấy lên phong trào tổ
chức các hội hát từ thôn bản đến các xã. Ngày hội Văn hoá - Thể thao các dân
tộc huyện Phú Lƣơng cũng từ đây đƣợc hình thành và phát triển. Cũng từ đó,
các câu lạc bộ hát dân ca của các dân tộc ở các thôn bản đƣợc thành lập. Ngoài
phục hồi, truyền dạy các bài hát dân ca cổ cho lớp trẻ còn, câu lạc bộ còn dạy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
những lời bài hát mới. Cùng với việc phục hồi hát dân ca, trang phục dân tộc
cũng đƣợc may mới, các món ẩm thực dân tộc đƣợc lƣu tâm để thi và trình diễn
trong lễ hội, lễ cƣới, lễ hỏi… và trở thành phong trào đƣợc nhân dân đồng tình
hƣởng ứng. Tuy nhiên, việc tìm hiểu nguồn gốc, dạng thức, lời ca và vấn đề
bảo tồn, phát huy giá trị của Hát ví Lƣu Tam ở Tức Tranh chƣa đƣợc quan tâm
một cách đúng mức. Nhằm khôi phục những di sản văn hóa quý báu để xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì việc nghiên
cứu đề tài Hát ví Lƣu Tam ở Tức Tranh, Phú Lƣơng, Thái Nguyên là một việc
làm cần thiết.
1.3. Xã Tức Tranh, huyện Phú Lƣơng, tỉnh Thái Nguyên nơi có 93% dân
số là dân tộc Sán Chay sinh sống. Vùng quê này có đời sống văn hoá rất phong
phú, nhiều phong tục tập quán đặc sắc, Hát ví Lƣu Tam là một điển hình. Hát ví
Lƣu Tam đƣợc bà con hát bằng cả trái tim tin yêu cuộc sống, gìn giữ nhƣ một
“báu vật” truyền cho con cháu hôm nay và mai sau. Trong cuộc sống hàng
ngày, văn nghệ đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đƣợc của ngƣời
dân nơi đây. Bản thân tôi cũng vô cùng tự hào đƣợc sinh ra trên mảnh đất Phú
Lƣơng giàu truyền thống văn hóa này nên tôi mong muốn góp một phần công
sức nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu và giới thiệu một loại hình văn nghệ
dân gian đặc sắc của quê hƣơng tới đông đảo bạn đọc.
1.4. Lâu nay, đã có một số công trình nghiên cứu về Hát ví Lƣu Tam với
nhiều tên gọi khác nhau nhƣ “Xịnh Ca”, “Sình Ca”. Các nghiên cứu đó cũng
đã đề cập đến một vài nét độc đáo, hấp dẫn của làn diệu dân ca này trên một số
phƣơng diện nhƣ diễn xƣớng, ngôn ngữ, biểu tƣợng, nghệ thuật biểu hiện…
nhƣng việc đi sâu tìm hiểu về Hát ví Lƣu Tam một cách có hệ thống ở Tức
Tranh, Phú Lƣơng, Thái Nguyên thì vẫn còn bỏ ngỏ.
Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu
khoa học “Hát ví Lưu Tam của dân tộc Sán Chay ở Tức Tranh, Phú Lương,
Thái Nguyên ” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về văn hóa văn nghệ dân gian nói chung và Hát ví Lƣu Tam
của dân tộc Sán Chay nói riêng là một trong các vấn đề đƣợc các nhà nghiên
cứu lƣu tâm. Đã có những cuốn sách, những luận văn, khóa luận tốt nghiệp,
những cuộc hội thảo, những bài nghiên cứu, những báo cáo khoa học quan tâm
đến vấn đề này. Có thể kể đến một số công trình sau:
- Tác giả Phƣơng Bằng với cuốn “Dân ca cao Lan” (1981) [2] đã sƣu
tầm đƣợc gần 500 câu hát. Tác giả Ngô Văn Trụ với Cuốn “Dân ca Cao Lan”
(2006) [48] đã sƣu tầm và biên soạn đƣợc gần 1000 câu hát. Từ các tài liệu sƣu
tầm, biên soạn, các nhà nghiên cứu đã xác định số lƣợng và kết cấu những đêm
hát, nội dung của mỗi đêm. Tác giả Ngô Văn Trụ đã bƣớc đầu phân tích đƣợc
bối cảnh diễn ra đêm hát, giai điệu lời hát, phân tích ý nghĩa một số câu hát.
- Cuốn “Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam” (2003) do Khổng Diễn chủ biên
ngoài việc giới thiệu một cách khá kĩ lƣỡng về dân tộc Sán Chay trên các
phƣơng diện nhƣ: điều kiện tự nhiên, dân số, đời sống kinh tế, tổ chức xã hội,
văn hóa vật chất và đặc biệt ở lĩnh vực văn hóa tinh thần, tác giả đã nhấn mạnh:
“Ở người Cao Lan và Sán Chí có kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian rất
phong phú và đa dạng. Có loại đã được ghi chép thành văn, có loại vẫn được
truyền khẩu từ đời này qua đời khác…Sách hát (slây ca) viết về các bài hát,
các bước hát, các tình huống trong khi hát, cả hai nhóm người trên đều đọc
được. Hát truyền thống thì có hát ngoài đường (ca óc lân) và hát trong nhà (óc
lân), hát ngoài đường có tính ứng khẩu đòi hỏi người hát đối đáp phải thuộc
nhiều loại bài hát và nhanh chóng vận dụng vào tình huống cụ thể. Còn hát
trong nhà thường có bài bản, nghe nói do Lưu Ba soạn, từ bên Trung Quốc
đem về. Sách có 12 tập dành cho các bên nam, nữ đối đáp, hát kéo dài trong 12
đêm”[7. tr384 - 385]. Ngoài việc giới thiệu về một làn điệu dân ca độc đáo, tác
giả còn trích dẫn một số bài và đọan hát giao duyên với nội dung khá phong
phú và đa dạng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Năm 2003, trong cuốn “Xình ca Cao Lan” do nhà thơ Lâm Quí sƣu
tầm và dịch [34], nhà xuất bản đã giới thiệu toàn bộ đêm hát thứ nhất với 266
khúc ca với nhiều dạng bài hát khác nhau nhƣ: hát mở đầu, hát vào bản, du
hƣơng ca, bơi thuyền vƣợt biển, hát chúc tụng, thỉnh mời thần ca hát, hát về gà
gáy, hát chúc phụng chủ nhà. Trong lời giới thiệu của về cuốn sách, nhà xuất
bản viết “Xịnh ca Cao Lan - Đêm hát thứ nhất - tiếng Cao Lan gọi là “Slơi ca
hùm tời dắt” là một tác phẩm thơ ca dân gian cổ của dân tộc Cao Lan và lưu
truyền trong đồng bào từ nhiều đời nay. Nội dung cuả tập sách phản ánh cuộc
sống xã hội Cao Lan xưa, thể hiện tâm hồn, tình cảm của họ trước cảnh đẹp
thiên nhiên, tình yêu đôi lứa thông qua hình thức hát đối đáp giao duyên nam
nữ, với những lời ca ví von tình tứ, cô đọng dễ hiểu”[34 - tr.5]
- Luận văn thạc sĩ “Khảo sát đặc điểm truyện thơ Cao Lan “Kó Lăù
Slam”(2003), tác giả Lê Hồng Sinh đã phân tích những nét đặc sắc về nghệ
thuật trong truyện thơ này đồng thời miêu tả về Xình ca nhƣ một phần không
thể thiếu để kết tinh về thành truyện thơ này: “Lời của truyện thơ được đặt theo
thể thơ có trong Xình ca. “Kó Lăù Slam” đường như lấy cảm hứng từ tục hát ví
đầu xuân” [35. tr 41]
- “Dân ca Sán Chí ở Kiên Lao, Lục Ngạn, Bắc Giang”, Nguyễn Xuân
Cần - Trần Văn Lạng chủ biên (2003) [4] lại tập trung vào công việc khảo sát
nghiên cứu và tiến hành bảo tồn dân ca của ngƣời Sán Chí - Sán Chay ở xã
Kiên Lao. Phần đầu của công trình là những bài viết khái quát về con ngƣời,
truyền thống lịch sử, văn hóa trong đó có hát dân ca. Phần hai là 1058 bài dân
ca do tác giả phối hợp với các nghệ nhân phiên âm từ Hán Việt sang tiếng Sán
Chí, ra tiếng phổ thông để mọi ngƣời cùng tiếp cận vốn dân ca này.
- Báo cáo khoa học đề tài “Bảo tồn hát Sình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang” (2003) của Nịnh Văn Độ [9]. Trong báo cáo khoa học của mình, ngoài
việc giới thiệu khái quát về tình hình đặc điểm dân tộc Cao Lan, tác giả còn
giới thiệu về hát Sình ca và khẳng định đây là một loại hình văn hóa dân gian
đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật biểu hiện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Luận văn tốt nghiệp “Khảo sát đặc điểm Xình ca dân tộc Cao Lan ở
Tuyên Quang”(2005) [8], tác giả Phạm Thị Kim Dung đã đặt Xình ca trong
hoàn cảnh văn hóa truyền thống Cao Lan để thấy đƣợc vai trò, vị trí của Xình
ca đối với đời sống tinh thần của cộng đồng này. Tác giả đã khảo sát, rút ra đặc
điểm của Xình ca trên ba phƣơng diện: diễn xƣớng, nội dung và nghệ thuật
biểu hiện.
- Báo cáo khảo sát đề tài phi vật thể bảo tồn hát Nôm dân tộc Sán Chay
xóm Đồng Tâm - xã Tức Tranh - huyện Phú Lƣơng của Sở Văn hóa Thông tin -
Thể thao và Du lịch Thái Nguyên (2006), trong báo cáo, các tác giả đã khái
quát về vị trí địa lý và một số đặc điểm cơ bản của dân tộc Sán Chay và giới
thiệu đôi nét về các thể loại hát Nôm – ví Lƣu Tam mà chƣa có tiêu chí phân
chia các loại ví một cách rõ ràng, cụ thể.
- “Hát ví Lưu Tam dân tộc Sán Chay 2006” [39] do nghệ nhân Hầu
Thanh Tĩnh sƣu tầm và chọn lọc. Những bài hát này chƣa đƣợc in thành sách
mà mới chỉ dừng lại ở việc đánh máy thành một tập để tập luyện trong câu lạc
bộ Hát ví Lƣu Tam tại xã Tức Tranh. Trong tập tài liệu này, nghệ nhân Hầu
Thanh Tĩnh đã chọn lọc các bài Hát ví Lƣu Tam tiêu biểu từ 5 đêm hát dịch
sang tiếng Sán Chay rồi tiến hành dịch nghĩa mà chƣa dịch thơ, xắp xếp chúng
thành 5 loại tiêu biểu: ví mừng nhà mới, ví mời, ví gọi bạn, ví trầu cau, ví đối
giao duyên.
- Triệu Thị Linh với đề tài “Một số biểu tượng trong Xình ca Cao Lan”
tại hội thảo ngữ học trẻ - Xuân 2008 [21], tác giả lại nghiên cứu Xình ca dƣới
góc độ các biểu tƣợng nghệ thuật. Trong đề tài của mình, tác giả đã đề cập đến
ba biểu tƣợng tiêu biểu là: Phƣợng Hoàng, cây cầu và bông hoa. Tác giả này
còn có một luận văn thạc sĩ “Ngôn từ nghệ thuật trong Xình ca Cao Lan” [22]
đã nghiên cứu khá sâu về lĩnh vực ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong Xình ca.
- Phạm Thị Phƣơng Thái và Ngô Thị Ngọc Ánh (2011) [43] lại ví làn
điệu dân ca này là “Sình Ca - lời dẫn đường hạnh phúc lứa đôi”. Trong bài viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
của mình, hai tác giả đã nhấn mạnh đến vai trò, vị trí của làn điệu dân ca này
trong đời sống tinh thần của dân tộc Sán Chỉ “Bao đời nay, Sình ca (Xình ca,
Soọng cô) đã gắn với người Sán Chỉ nói riêng và những tộc người có chung
hoặc gần nguồn gốc như Sán Chay, Sán Dìu, Dao như một thứ không thể
thiếu trong đời sống tinh thần”. Mặt khác, hai tác giả còn đề cập tới không gian
diễn xƣớng của làn điệu dân ca này và chú ý hơn cả là các khúc hát giao duyên.
“Sình ca có mặt ở nhiều không gian khác nhau: trong nhà, ngoài ngõ, trên
nương ngoài ruộng, đám hiếu, đám hỉ Tuy nhiên, phổ biến nhất, quen thuộc
nhất có lễ là những khúc hát giao duyên”. Họ đều khẳng định các bài ca giao
duyên chính là cây cầu bắc nhịp cho tình yêu đôi lứa.
Điểm qua một số tài liệu, chúng tôi nhận thấy có hai vấn đề đƣợc các tài
liệu trên đề cập tới.
Một là: các nghiên cứu chủ yếu đề cập tới văn hóa của dân tộc Sán Chay
(Nhóm Sán Chí) nói chung và ngƣời Cao Lan nói riêng và họ khẳng định ngƣời
Sán Chay có nguồn gốc từ Trung Quốc, sống rải rác ở phía Bắc Việt Nam, là
một cộng đồng ngƣời có kết cấu chặt chẽ, còn lƣu giữ đƣợc nhiều nét văn hóa
đặc sắc trong đó có Hát ví Lƣu Tam (hay một số nơi còn gọi là Xình ca hay
Sịnh ca)
Hai là: các nghiên cứu đề cập tới văn nghệ dân gian trong đó có Xình ca
( một tên gọi khác của Hát ví Lƣu Tam) ở nhiều khía cạnh và phƣơng diện khác
nhau.
Một trong những ngƣời tiên phong làm sáng giá Xình ca là cố nhà thơ -
nhà nghiên cứu Văn hóa dân gian Lâm Quí, ông đã có nhiều công trình nghiên
cứu về văn hóa Cao Lan của dân tộc mình nhƣ: Nàng Kó Lau Slam; Xình Ca
Cao Lan - đêm hát thứ nhất; Truyện cổ Sán Chay
Một số tác giả đã có công sƣu tầm các đêm hát, tập hợp và biên soạn rất
công phu nhƣ nhà thơ Lâm Quí, tác giả Ngô Văn Trụ, nghệ nhân Hầu Thanh
Tĩnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Có tác giả lại nghiên cứu Xình ca ở các phƣơng diện diễn xƣớng, nội
dung và nghệ thuật biểu hiện nhƣ Phạm Thị Kim Dung.
Có tác giả lại đề cập tới Xình ca Cao Lan thông qua một số biểu tƣợng
hoặc nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật trong Xình ca Cao Lan nhƣ Triệu Thị
Linh.
Hai tác giả Phạm Thị Phƣơng Thái và Ngô Thị Ngọc Ánh lại ví Xình ca
là “Lá thư tình giao duyên và lời dẫn đường cho hạnh phúc lứa đôi”
Nhƣ vậy, các tài liệu trên chủ yếu đề cập đến những nét văn hóa đặc sắc
của dân tộc Sán Chí - Sán Chay - Cao Lan và các tài liệu đều nhấn mạnh đến
kho tàng văn nghệ dân gian vô cùng phong phú của dân tộc này trong đó có
Xình ca. Ở một vài công trình, các tác giả cũng đã tiến hành nghiên cứu, tìm
hiểu Xình ca trên một vài phƣơng diện, nhƣng chúng tôi nhận thấy chƣa có một
công trình chuyên biệt nào về “Hát ví Lưu Tam của dân tộc Sán Chay ở Tức
Tranh, Phú Lương, Thái Nguyên”
Trên cơ sở kế thừa thành tựu của ngƣời đi trƣớc, chúng tôi mong trong
giới hạn nhất định mà đề tài luận văn đã chọn “Hát ví Lưu Tam của dân tộc
Sán Chay ở Tức Tranh, Phú Lương, Thái Nguyên” sẽ là cơ hội để chúng tôi
tiến hành tìm hiểu, phân chia các dạng thức của Hát ví Lƣu Tam trên các tiêu
chí cụ thể, tìm hiểu giá trị nội dung cũng nhƣ nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp, sức
sống của Hát ví Lƣu Tam trên tinh thần khoa học và toàn diện nhất có thể. Từ
đó, chúng tôi sẽ hƣớng ngƣời đọc đến một cách hiểu và lý giải thuyết phục về
cái hay, cái độc đáo và hấp dẫn của làn điệu dân ca này. Hy vọng việc nghiên
cứu đề tài này là một đóng góp của chúng tôi trong việc làm đầy đặn hơn bản
sắc văn hóa của dân tộc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Hát ví Lƣu Tam của dân tộc Sán Chay ở Tức Tranh.
- Tìm hiểu không gian diễn xƣớng, hình thức diễn xƣớng và môi trƣờng
diễn xƣớng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Tiếp xúc, phỏng vấn một số nghệ nhân tiêu biểu ở Tức Tranh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
- “Hát ví Lưu Tam dân tộc Sán Chay, 2006” do nghệ nhân Hầu Thanh
Tĩnh sƣu tầm và chọn lọc.
- Các bài Hát ví Lƣu Tam đƣợc sƣu tầm trong quá trình khảo sát, điền dã
của tác giả.
- Trong phạm vi của đề tài luận văn, chúng tôi chủ yếu tìm hiểu Hát ví Lƣu
Tam về phƣơng diện lời ca. Tuy nhiên, văn học dân gian nói chung và Hát ví Lƣu
Tam nói riêng gắn bó với đời sống văn hóa dân gian nên việc tìm hiểu thêm về
văn hóa sẽ giúp chúng tôi có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về vấn đề nghiên
cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Chỉ ra các dạng thức Hát ví Lƣu Tam của dân tộc Sán Chay ở Tức Tranh.
- Tìm hiểu các giá trị về nội dung, nghệ thuật của Hát ví Lƣu Tam ở Tức
Tranh.
- Qua việc nghiên cứu, chúng tôi muốn góp phần gìn giữ, bảo tồn và giới
thiệu những nét đặc sắc của Hát ví Lƣu Tam trong đời sống văn hóa của dân
tộc Sán Chay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Giới thuyết những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát, thống kê, phân tích, lý giải các dạng thức của Hát ví Lƣu
Tam.
- Trong điều kiện cho phép, chúng tôi sẽ đối chiếu so sánh Hát ví Lƣu
Tam với một số làn điệu dân ca khác ở những vùng miền khác nhau để thấy
đƣợc nét đặc trƣng làm nên sức sống của làn điệu dân ca này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đƣợc mục đích đặt ra trong phạm vi đề tài luận văn, chúng
tôi sử dụng phối hợp một số phƣơng pháp chính sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Phƣơng pháp điền dã: sƣu tầm, ghi âm, chụp hình và ghi chép những tài
liệu có liên quan đến Hát ví Lƣu Tam của dân tộc Sán Chay ở địa bàn đã xác
định.
- Phƣơng pháp khảo sát, thống kê, phân loại: chúng tôi tiến hành khảo sát,
thống kê và phân loại các dạng thức, vần, nhịp của Hát ví Lƣu Tam dựa trên
những tiêu chí cụ thể để có một cái nhìn toàn diện và khoa học.
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp so sánh: từ việc khảo sát, thống kê,
phân loại, chúng tôi tiến hành tìm hiểu các giá trị về nội dung cũng nhƣ nghệ
thuật làm nên nét riêng trong Hát Ví Lƣu Tam của dân tộc Sán Chay so với các
làn điệu dân ca khác. Từ việc phân tích đó, chúng tôi hƣớng đến những kết luận
mang tính tổng hợp nhất, khái quát nhất giúp ngƣời đọc thấy đƣợc những đặc
sắc của làn điệu dân ca này.
- Phƣơng pháp hệ thống: chúng tôi sử dụng phƣơng pháp hệ thống trong
quá trình nghiên cứu để từ đó có đƣợc một cái nhìn cụ thể về các dạng thức Hát
ví Lƣu Tam, nội dung cũng nhƣ các yếu tố nghệ thuật và đặt Hát ví Lƣu Tam
trong dòng chảy của văn học dân gian của các dân tộc thiểu số.
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: song song với việc vận dụng phối
hợp các phƣơng pháp trên, chúng tôi còn vận dụng những kiến thức về các
khoa học liên ngành để phục vụ hiệu quả vấn đề mà chúng tôi chọn làm đề tài
cho luận văn.
6. Đóng góp của luận văn.
- Hệ thống hóa những vấn đề về Hát ví Lƣu Tam (hay Xình ca hoặc Sịnh
ca) nói chung và Hát ví Lƣu Tam ở Tức Tranh, Phú Lƣơng, Thái Nguyên nói
riêng đã đƣợc một số công trình nghiên cứu đề cập tới.
- Khẳng định sự phong phú về các dạng thức của Hát ví Lƣu Tam ở Tức
Tranh.
- Làm sâu sắc hơn về giá trị nội dung cũng nhƣ nghệ thuật của Hát ví
Lƣu Tam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Kết quả mà luận văn nghiên cứu sẽ là nguồn tƣ liêu hữu ích cho việc
nghiên cứu và giảng dạy của giáo viên đứng lớp sau này khi dạy về văn học
của các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn góp
phần gìn giữ, bảo tồn những giá trị văn hóa phi vật thể quý báu này trong đời
sống văn hóa của dân tộc Sán Chay.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn đƣợc triển khai trong 3 chƣơng :
Chƣơng 1: Khái quát về dân tộc Sán Chay ở Tức Tranh, Phú Lƣơng, Thái
Nguyên và một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Chƣơng 2: Các dạng thức Hát ví Lƣu Tam của dân tộc Sán Chay ở Tức
Tranh, Phú Lƣơng, Thái Nguyên.
Chƣơng 3: Nội dung, nghệ thuật và vấn đề bảo tồn Hát ví Lƣu Tam của
dân tộc Sán Chay ở Tức Tranh, Phú Lƣơng, Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC SÁN CHAY Ở TỨC TRANH, PHÚ LƢƠNG,
THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về dân tộc Sán Chay ở Việt Nam và ở Phú Lƣơng, Thái
Nguyên.
1.1.1. Người Sán Chay ở Việt Nam
Ngƣời Sán Chay là quần thể cƣ dân nông nghiệp làm lúa nƣớc, chủ yếu
tập trung ở các tỉnh Đông bắc Bắc Bộ nhƣ Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc
Giang và sống rải rác ở các tỉnh: Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn. Hiện tại có
một nhóm ngƣời vào Tây Nguyên lập nghiệp đƣợc tổ chức thành các làng. Dân
tộc Sán Chay còn có các tên gọi: Sán Chí, Cao Lan, Mán Cao Lan, Hờn Bận…
Tổ tiên của ngƣời Sán Chay xƣa kia là vùng giáp ranh giữa các tỉnh
Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam - Trung Quốc. Do những biến động về lịch
sử họ đã di cƣ đến nƣớc ta vào khoảng thế kỷ thứ XVIII. Ngƣời Sán Chay có
các nhóm địa phƣơng, nhóm Cao Lan nói ngôn ngữ Tày, Thái và nhóm Sán Chỉ
nói thổ ngữ Hán, Quảng Đông. Tiếng nói Cao Lan thuộc nhóm ngôn ngữ Tày -
Thái, ngữ hệ (Thái - Ka Đai), còn tiếng Sán Chỉ thuộc ngôn ngữ Hán (ngữ hệ
Hán - Tăng). Do có tình trạng song ngữ này mà có nhiều ý kiến khác nhau về
nguồn gốc của ngƣời Sán Chay.
Ngƣời Sán Chay thờ tổ tiên là chính song cũng chịu nhiều ảnh hƣởng của
Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009,
ngƣời Sán Chay ở Việt Nam có dân số 169.410 ngƣời, có mặt tại 58 trên tổng
số 63 tỉnh, thành phố. Ngƣời Sán Chay cƣ trú tập trung tại các tỉnh: Tuyên
Quang (61.343 ngƣời, chiếm 36,2 % ), Thái Nguyên (32.483 ngƣời, chiếm
19,2 % ), Bắc Giang (25.821 ngƣời chiếm 15,2%), Quảng Ninh (13.786 ngƣời
8,1%), Yên Bái (8.461 ngƣời chiếm 5%), Cao Bằng (7.058 ngƣời chiếm 4,2%),
Đắk Lắk (5.220 ngƣời chiếm 3,1%), Lạng Sơn (4.384 ngƣời chiếm 2,6%, Phú
Thọ (3.294 ngƣời chiếm 1,9%), Vĩnh Phúc (1.611 ngƣời chiếm 1%)…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nhƣ vậy, theo thống kê về ngƣời Sán Chay ở Việt Nam thì Thái Nguyên
là một trong những tỉnh có nhiều ngƣời Sán Chay sinh sống chiếm 19,2%.
(Đứng thứ hai sau Tuyên Quang với 36,2%)
1.1.2. Người Sán Chay ở Phú Lương - Thái Nguyên
Phú Lƣơng là huyện miền núi nằm ở vùng phía Bắc của tỉnh Thái
Nguyên, nằm trong toạ độ địa lý từ 21036 đến 21055 độ vĩ bắc, 105037 đến
105046 độ kinh đông; phía Bắc giáp huyện Chợ Mới (tỉnh Bắc Cạn), phía Nam
và Đông Nam giáp thành phố Thái Nguyên, phía Tây giáp huyện Định Hoá,
phía Tây Nam giáp huyện Đại Từ, phía Đông giáp huyện Đồng Hỷ; huyện lỵ
đặt tại thị trấn Đu, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 22km về phía Bắc
(theo Quốc lộ 3). Huyện Phú Lƣơng có diện tích tự nhiên 368,82 km2, trong đó
đất nông nghiệp 119,79 km2; đất lâm nghiệp 164,98km2 (chiếm 44,73% tổng
diện tích đất tự nhiên); đất nuôi trồng thuỷ sản 6,65km2; đất phi nông nghiệp
46,63km2; đất chƣa sử dụng 31,64km2.
Địa hình Phú Lƣơng tƣơng đối phức tạp, độ cao trung bình so với mặt
nƣớc biển từ 100m đến 400m. Các xã ở vùng Bắc và Tây Bắc huyện có nhiều
núi cao, độ cao trung bình từ 300m đến 400m, độ dốc phần lớn trên 200; thảm
thực vật dầy, tán che phủ cao, phần nhiều lá rừng xanh quanh năm. Các xã ở
vùng phía Nam huyện địa hình bằng phẳng hơn, có nhiều đồi và núi thấp, độ
dốc thƣờng dƣới 150. Đây là vùng địa hình mang tính chất của vùng trung du
nhiều đồi, ít ruộng. Từ phía Bắc xuống phía Nam huyện, độ cao giảm dần.
Dân cƣ Phú Lƣơng gồm ba bộ phận chính: một là dân bản địa định cƣ từ
lâu đời; hai là dân phu đƣợc bọn tƣ bản Pháp tuyển mộ vào làm thuê trong các
hầm mỏ, đồn điền; ba là đồng bào ở các tỉnh miền xuôi di cƣ lên sinh cơ lập
nghiệp.
Về dân số, toàn huyện Phú Lƣơng năm 1933 có 7.033 ngƣời; trƣớc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 chƣa tới 10.000 ngƣời; trong kháng chiến chống
Pháp có khoảng 13.700 ngƣời; đầu những năm 1970 là 54.676 ngƣời; theo tổng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
điều tra dân số ngày 1- 4 - 1989 là 107.390 ngƣời; năm 1996 gần 110.000
ngƣời.
Từ ngày 1-1-1997, do 10 xã, thị trấn vùng phía Bắc huyện đƣợc chuyển
về huyện Bạch Thông (tỉnh Bắc Kạn) nên dân số của huyện giảm xuống. Cuối
năm 2006, dân số toàn huyện là 106.257 ngƣời (trong đó nam 53.079 ngƣời, nữ
53.178 ngƣời; số ở nông thôn là 98.563 ngƣời, sống ở đô thị là 7.694 ngƣời;
dân tộc Kinh chiếm 54,2%, Tày 21,1%, Sán Chay 8,05%, Nùng 4,5%, Sán Dìu
3,29% còn lại 4,82% là ngƣời các dân tộc Thái, Hoa, Hmông và một số dân tộc
khác.
Theo thống kê, dân tộc Sán Chay đứng thứ ba sau dân tộc Kinh và dân
tộc Tày trong số các dân tộc của huyện. Ở Phú Lƣơng, ngƣời Sán Chay thƣờng
tập trung ở các chân đồi, gần các con sông, cánh rừng. Trải qua bao thăng trầm
của lịch sử, ngƣời Sán Chay đã sát cánh bên nhau, cùng chống chọi với thiên
nhiên khắc nghiệt, biến những mảnh đất khô cằn thành những cánh đồng màu
mỡ. Từ cuộc sống vất vả, lam lũ, những lời ca, tiếng hát đã trở thành món ăn
tinh thần không thể thiếu đối với họ trong đó phải kể tới Hát ví Lƣu Tam.
1.2. Khái quát về dân tộc Sán Chay ở Tức Tranh, Phú Lƣơng, Thái
Nguyên.
Trong huyện Phú Lƣơng có rất nhiều các dân tộc sinh sống nhƣ dân tộc
Kinh, Tày, Sán Chay, Nùng, Sán Dìu…ở các xã khác nhau nhƣng chúng tôi đặc
biệt quan tâm tới dân tộc Sán Chay ở Tức Tranh. Trong xã Tức Tranh có 24
xóm: Đồng Tâm, Đồng Tiến, Đồng Lƣờng, Đồng Danh, Đồng Hút, Đồng
Lòng, Gốc Cọ, Gốc Mít, Gốc Xim, Gốc Gạo, Đan Khê, Tân Khê, Thác Dài,
Ngoài Tranh, Cây Thị, Khe Xiêm, Thâm Găng, Quyết Tiến, Quyết Thắng, Đập
Tràn, Minh Hợp, Bãi Bằng, Khe Cốc, Tân Thái thì xóm Đồng Tâm có dân tộc
Sán Chay cƣ trú tập trung nhất (chiếm 93%). Dân tộc Sán Chay ở nơi đây đã
gìn giữ đƣợc rất nhiều những bản sắc văn hóa độc đáo trong đó có Hát ví Lƣu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tam mà đề tài luận văn quan tâm nên việc tìm hiểu về ngƣời Sán Chay tại xóm
Đồng Tâm là một việc làm cần thiết.
1.2.1. Nguồn gốc lịch sử.
Đồng Tâm là xóm đầu tiên của xã Tức Tranh và huyện Phú Lƣơng đƣợc
hai lần nhận bằng văn hóa tiêu biểu cấp Tỉnh. Xóm đƣợc hình thành từ năm
1926 gồm 8 hộ với 40 ngƣời lúc đầu xây dựng xóm. Tất cả những hộ này đều là
dân tộc Sán Chay có nguồn gốc từ các huyện Phú Lƣơng, Đại Từ, Đồng Hỷ
quần tụ về lấy tên là làng Đồng Báng. Đến năm 1960, trong phong trào xây
dựng hợp tác xã, làng Đồng Báng đƣợc chuyển thành xóm Đồng Tâm. Năm
1996, phòng Văn hóa - Thông tin huyện Phú Lƣơng đã chọn xóm Đồng Tâm
làm đơn vị điểm để xây dựng mô hình xóm bản văn hóa theo cuộc vận động
xây dựng gia đình, làng bản văn hóa và ngày nay là cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.
1.2.2. Dân số và địa bàn cư trú.
Tộc ngƣời Sán Chay của xóm Xóm Đồng Tâm - xã Tức Tranh chiếm tỉ
lệ cao 161 hộ/ 173 hộ (bằng 93%) với 657 nhân khẩu (Theo thống kê tháng 12
năm 2011). Diện tích đất tự nhiên: 342 ha đất tự nhiên, vùng địa hình phức tạp
chủ yếu là những quả đồi ở mức thấp. Dân cƣ sống rải rác trừ các số hộ sống
tập trung gần nhà văn hóa của xóm. Phía Đông giáp với xóm Gốc Mít, Đồng
Lƣờng. Phía Tây giáp với xã Yên Lạc, phía Bắc giáp với xóm Đồng Tiến và
phía Nam giáp với xóm Quyết Tiến. Đồng Tâm là một xóm vùng sâu, vùng xa
nằm cách trung tâm xã Tức Tranh 3km, cách trung tâm huyện lị Phú Lƣơng
chừng 13 km nên đƣờng giao thông, đƣờng điện là một trong những vấn đề gặp
nhiều khó khăn. Năm 2003, xóm Đồng Tâm mới có đƣờng điện cao thế. Năm
2011, mới có đoạn đƣờng bê tông về gần đến trung tâm xóm với độ dài là
2,4km. Vì chủ yếu là dân tộc Sán Chay lại sinh sống ở một địa bàn không thuận
lợi, điều kiện giao lƣu văn hóa không nhiều nên đồng bào nơi đây chủ yếu là
hát làn điệu dân ca của dân tộc mình là chính.
1.2.3. Ngôn ngữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chúng tôi đến xóm Đồng Tâm, xã Tức Tranh để tìm hiểu những nét văn
hoá đặc sắc của ngƣời Sán Chay. Đồng chí Trần Văn Hải - Bí thƣ Chi bộ cho
biết: Đồng Tâm có tới 93% dân số là ngƣời Sán Chay. Ngày xƣa, ngƣời Sán
Chay nói hai ngôn ngữ là tiếng Cao Lan thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ
hệ Thái - Ka Đai) và tiếng Sán Chỉ thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán
Tạng). Nhiều ngƣời già ở đây vẫn đọc và nói đƣợc tiếng Hán. Các cuốn sách về
Hát ví Lƣu Tam và một số cuốn sách khác đều đƣợc viết bằng chữ Hán cổ. Số
tài liệu này vẫn còn đƣợc lƣu giữ tại gia đình nghệ nhân Hầu Thanh Tĩnh là chủ
yếu. Nhƣng bây giờ, trong giao tiếp hàng ngày, đồng bào thƣờng nói với nhau
tiếng mẹ đẻ nhƣ: “Hối na nẩy?” (Đi đâu?), “Chấu mật cọng à?” (Làm việc
gì?), “Ăn cơm” ( Hạch phờn), “Uống nước” (Hạch sui), “Đi cấy lúa” (Hối
Schap vui), “Đi chợ” ( Hối hôi)….
1.2.4. Quan hệ gia đình và quan hệ xã hội
Cộng đồng của ngƣời Sán Chay có nhiều dòng họ nhƣ: họ Hoàng, họ
Hầu, họ Trần, họ La, họ Lý, họ Nịnh…. mỗi họ chia thành nhiều ngành. Họ cho
rằng số ngƣời trong mỗi ngành nhiều hay ít phụ thuộc vào thần đỡ đầu nhƣ
Quan Âm, Ngọc Hoàng, Bạch Phạm, Mạng Văn, Nam Hỏa, Ôn Vƣơng,. . .
Trong tam giáo, các ngành khác nhau không chỉ về tên gọi mà còn khác
cả lễ nghi, kiêng kỵ. Thành viên trong ngành lập thành một nhóm “hương hỏa”
có nguyên tắc là không đƣợc kết hôn với nhau mặc dù họ cách nhau bao nhiêu
đời.
Gia đình ngƣời Sán Chay là một gia đình nhỏ phụ quyền. Ngƣời đàn ông
là ngƣời chỉ đạo công việc làm ăn với sự tham gia góp ý kiến của các thành
viên trong gia đình đã trƣởng thành. Mỗi ngƣời làm công việc khác nhau tuỳ
theo giới tính và tính chất công việc. Đàn ông bao giờ cũng gánh vác công việc
khó khăn nặng nhọc, phụ nữ thì làm việc nhẹ, đảm nhiệm việc nuôi con, nấu
ăn, nội trợ, quản lý tiền bạc và chi tiêu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Quyền đƣợc thừa kế tài sản chỉ phụ thuộc vào những ngƣời con trai. Do
bị ảnh hƣởng nhiều của lễ giáo phong kiến, ngƣời phụ nữ Sán Chay xƣa bị mất
quyền bình đẳng đối với nam giới trong gia đình cũng nhƣ ở ngoài xã hội.
Ở thời Phong kiến, việc lấy vợ, lấy chồng do cha mẹ sắp đặt theo quan
niệm “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nên trong các câu Hát ví Lƣu Tam về
tình yêu lứa đôi có cả sự oán trách, xót xa vì yêu nhau mà không lấy đƣợc
nhau.
Còn giờ đây, trai gái đƣợc tự do tìm hiểu và yêu đƣơng. Phụ nữ Sán
Chay ngoài việc làm nƣơng rẫy còn sinh đẻ và nuôi con cho đến khi trƣởng
thành. Những việc lớn trong dòng tộc chỉ do anh em họ mạc nam giới bàn bạc
và quyết định.
1.2.5. Hoạt động kinh tế
Cũng nhƣ hầu hết các dân tộc sinh sống ở vùng núi thấp khu vực Việt
Bắc, Đông Bắc, trồng trọt cây lƣơng thực trên đất dốc là hoạt động kinh tế chủ
đạo của ngƣời Sán Chay xƣa kia. Tất cả các hoạt động mƣu sinh khác nhƣ chăn
nuôi, thủ công gia đình, trao đổi buôn bán, săn bắt, hái lƣợm…chỉ là những
hoạt động phụ, mang tính hỗ trợ hoạt động trồng trọt.
Trồng trọt cây lƣơng thực là nguồn sống chính của ngƣời Sán Chay. Nó
cung cấp lƣơng thực đáp ứng nhu cầu ăn hàng ngày; săn bắt, hái lƣợm cung cấp
nhu cầu rau ăn, thực phẩm thông thƣờng; thủ công gia đình cung cấp nông cụ,
đồ gia dụng; chăn nuôi đáp ứng nhu cầu về lễ phẩm cho các dịp tế lễ, ma chay,
thực phẩm cho cƣới xin và các sinh hoạt cộng đồng khác.
Do tập quán canh tác xƣa kia chủ yếu phát nƣơng, làm rẫy và trồng lúa
nƣớc, các công cụ lao động sản xuất rất thô sơ chủ yếu là tự chế nhƣ: cầy, bừa,
lóng phên, dập lúa phơi thóc, khuôn làm bún hay cối giã gạo đều làm bằng gỗ,
sức kéo chủ yếu là trâu bò, điều này cũng đƣợc phản ánh trong Hát ví Lƣu Tam
với những bài ca lao động để ca ngợi về lao động và tình yêu lao động. Trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cuộc sống còn nhiều vất vả, khó khăn, họ đã mƣợn những lời ca tiếng hát để
bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng và cả sự lạc quan của mình trƣớc cuộc sống.
Ngày nay, hoạt động kinh tế của ngƣời sán Chay đã có nhiều thay đổi cả
về cơ cấu, kỹ thuật và tính chất sản xuất. Không những chỉ trồng trọt mà cả thủ
công nghiệp, thƣơng mại cũng rất phát triển. Những kỹ thuật tiên tiến, hiện đại
đã đƣợc ứng dụng trong mọi lĩnh vực sản xuất. Nhiều hoạt động kinh tế đã
mang tính sản xuất hàng hóa nhƣ nuôi lợn, trồng vải, nhãn, xoài Đội ngũ
những ngƣời chuyên buôn bán đang hình thành và phát triển. Trao đổi, buôn
bán đã trở thành nhu cầu quan trọng trong đời sống xã hội Sán Chay ngày nay.
1.2.6. Văn hóa truyền thống.
Ở: Ngƣời Sán Chay cƣ trú ở các tỉnh Ðông Bắc nƣớc ta. Họ sống trên
nhà sàn giống nhà của ngƣời Tày cùng địa phƣơng. Nhà sàn xƣa kia làm nền
dốc cột cao thấp khác nhau. Thƣờng mỗi ngôi nhà sàn có từ 16 cột đến 24 cột,
có cột cái, xà vƣợt hợp thành 4 mái. Trong nhà có một hành lang để nhìn ra
phía trƣớc cửa sổ, giữa nhà có bếp lửa - đây là nơi thƣờng xuyên diễn ra Hát ví
Lƣu Tam ban đêm trong ánh lửa bập bùng. Một góc trên hành lang là buồng
thờ Ngọc Hoàng “Nam Hỏa” và ở gian giữa trong nhà nhìn ra cửa là bàn thờ
Tổ Tiên. Nơi gần bếp và cửa là thờ thùng cám. Phía góc nhà là bàn thờ mụ. Cầu
thang đƣợc bố trí ở đầu nhà thấp hơn sàn nhà một đến hai cấp khoảng 40 -
50cm (Sàn cầu thang) sau đó mới là cửa lên nhà. Phía gầm nhà sàn thƣờng
đƣợc để các vật dụng sản xuất: cầy, bừa, cuốc, xẻng… và nuôi gia súc, gia cầm:
lợn, gà, ngan, ngỗng….Nếp nhà sàn đơn sơ, giản dị của đồng bào Sán Chay
cũng trở thành những lời ví ngọt ngào mà ai đã từng đƣợc nghe thì không dễ gì
quên đƣợc.
Trang phục: Phụ nữ mặc váy chàm và áo dài có trang trí hoa văn ở ngực
áo và lƣng áo. Thƣờng ngày, chỉ dùng một thắt lƣng chàm nhƣng trong ngày
tết, ngày lễ, đặc biệt trong mỗi lần Hát ví Lƣu Tam họ dùng 2- 3 chiếc thắt lƣng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
bằng lụa hay nhiễu với nhiều màu khác nhau để tôn thêm vẻ đẹp dịu dàng và
tình tứ của những con ngƣời nơi đây.
Áo váy đi lễ là áo có hoa văn ở ngực và lƣng áo. Dƣới cánh áo có gấu
trắng gọi là “Piệc Tẹp Sạm” có yếm hoa, khăn vắt và váy, xà cạp…. Áo lao
động cũng có áo dài tứ thân nhƣ vùng Kinh Bắc vẫn mặc. Ngoài ra còn có áo
chàm hoặc gụ, nâu ngắn, cả nam giới và nữ giới đều mặc. Ngày nay, các loại
quần áo dài đi lễ hội không còn nhiều.
Ăn: Ngƣời Sán Chay ăn cơm tẻ là chính. Rƣợu cũng đƣợc dùng nhiều,
nhất là trong ngày tết, ngày lễ. Rƣợu xƣa kia hoàn toàn tự nấu bằng gạo xay, ủ
bằng men lá tự chế. Ngày nay ít ngƣời biết làm và chế đƣợc nên phải mua
ngoài chợ. Thƣờng ngày thì đàn ông hút thuốc lào, phụ nữ thì ăn trầu cho má
thắm, môi hồng.
Ngoài những bữa cơm đạm bạc thì trong các dịp lễ, tết, ngƣời Sán Chay
còn có rất nhiều các loại bánh: bánh chƣng, bánh dầy, bánh do, bánh tép, bánh
sừng bò, bánh chim…và các loại xôi: xôi cẩm, xôi gấc, xôi sau sau, xôi
gừng…Các loại bánh và xôi đƣợc làm từ những sản phẩm nông nghiệp do
chính mồ hôi công sức của họ kết tinh mà thành bởi những đôi bàn tay khéo léo
và tài hoa.
Thức ăn có một số đặc sản nhƣ: lợn quay, vịt quay, thịt nƣớng…mùi vị
đặc trƣng của những món ăn đặc sản này đã quyến rũ khách thập phƣơng trong
mỗi lần đến tham gia lễ hội.
Việc ăn uống của ngƣời Sán Chay xƣa kia cũng đƣợc gửi gắm trong Hát
ví Lƣu Tam với nhiều nghi lễ nhất là trong ví mời.
Tín ngƣỡng và tâm linh:
Tín ngƣỡng cộng đồng: đi đến đâu, ở đâu, ngƣời Sán Chay phải lập thổ
công, thổ kỳ. Đình làng là nơi sinh hoạt cộng đồng, làm lễ cầu mùa dịp tết 2/2
âm lịch, 2/6 âm lịch, 12/12 âm lịch Ngoài cầu mùa, cầu mƣa còn có cầu yên,
lễ cấp sắc, lễ khao quân, lễ hội dịp xuân về…trong các ngày lễ đều có Hát ví
Lƣu Tam.