Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ KỶ XVIII VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.04 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU BAN TRIẾT HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ
NGHĨA DUY VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ KỶ 18
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
SVTH : NGUYỄN TẤN LUÂN
STT : 94
NHÓM : 10
LỚP : CAO HOC KINH TẾ
KHÓA : 21
ĐÊM : 5
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 02 năm 2012
MỤC LỤC
Mở đầu 1
Chương 1: Những tư tưởng cơ bản của triết học Khai sáng và Chủ nghĩa duy
vật chiến đấu Pháp thế kỷ 18 2
1.1. Tư tưởng chung của trường phái triết học Khai sáng Pháp TK 18 2
1.2. Những tư tưởng của Chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp TK 18 3
1.2.1. Tư tưởng của Điđơrô (Denis Diderot, 1713-1784). 3
1.2.2.Tư tưởng của Hônbách (Paul Henri Ditrich Holbach,
1723-1789) 6
Chương 2: Những giá trị và hạn chế của CNDV chiến đấu Pháp TK.18 ……10
2.1. Những giá trị của CNDV chiến đấu Pháp TK.18 10
2.2. Những hạn chế của CNDV chiến đấu Pháp TK.18 12
Kết luận 14
Tài liệu tham khảo 15
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa


MỞ ĐẦU
Xã hội Pháp nửa cuối thế kỷ XVIII chứa đựng những mâu thuẫn sâu sắc.
Giai cấp phong kiến Pháp đứng đầu là vua Luis XVI đã thâu tóm vào tay mình
những quyền lực vô hạn. Đời sống của nông dân hết sức khốn khổ, nạn đói do
mất mùa hoành hành, những cuộc nổi dậy chống chế độ phong kiến xảy ra
thường xuyên. Tất cả cái đó là nguyên nhân kinh tế - xã hội của cuộc Cách mạng
tư sản Pháp (1789-1794). Và các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII là những người
chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng về chính trị sôi động đó. Theo lời
Mác, đó là cuộc cách mạng có quy mô ảnh hưởng toàn Châu Âu, đánh dấu thắng
lợi của trật tự tư sản mới đối với trật tự phong kiến cũ.
Nhìn chung, triết học Khai sáng và chủ nghĩa Duy vật chiến đấu Pháp thế
kỷ 18 đã vạch trần các thế lực đen tối lúc bấy giờ là nhà thờ Thiên Chúa Giáo và
chế độ phong kiến mà đại diện tiêu biểu là Điđơrô và Hônbách. Thông qua
những triết gia đó, ta sẽ thấy được sự phê phán mạnh mẽ tới mức nêu cao tinh
thần chiến đấu của họ. Tuy nhiên, các nhà triết học thời kỳ này vẫn chưa thoát
khỏi quan niệm siêu hình, máy móc về thế giới và nhận thức.
Đề tài tiểu luận đã giúp em hệ thống lại một mảng kiến thức về lịch sử
triết học Pháp mà tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp TK 18 rất hay và
bổ ích. Mặc dù rất cố gắng nhưng tiểu luận cũng không thể tránh những thiếu sót
nên rất mong nhận được sự đóng góp quý báo của thầy và các bạn để tiểu luận
được tốt hơn. Em chân thành cám ơn sự hướng dẫn của thầy Bùi Văn Mưa trong
quá trình thực hiện tiểu luận này.
Để thực hiện tiểu luận em dựa vào: 1) Các giáo trình chính: Đại cương
về lịch sử triết học, 2011; Lịch sử triết học phương Tây, NXB Tổng hợp
TP.HCM, 2006; Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Bộ giáo dục và đào tạo. Tiểu
luận gồm 2 chương: Chương 1 – Những tư tưởng cơ bản của triết học ánh sáng
và chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp TK18; Chương 2 – Những giá trị và hạn
chế của chủ nghĩa chiến đấu Pháp TK18.
3
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa

CHƯƠNG I
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC KHAI
SÁNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ
KỶ 18
1.1 Tư tưởng chung của trường phái triết học khai sáng Pháp thế kỷ
18
Nếu chủ nghĩa thực chứng là khuynh hướng bài trừ siêu hình học theo
một hướng tiêu cực, nghĩa là phủ định sạch trơn những giá trị của triết học truyền
thống; thì triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, mà hạt nhân là chủ nghĩa duy
vật, là kế thừa và phát triển khuynh hướng bài trừ siêu hình học thế kỷ XVII theo
một hướng tích cực. Triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII không phủ định sạch
trơn mà đánh giá lại các giá trị triết học truyền thống, đồng thời cũng kế thừa và
phát triển các khuynh hướng tư tưởng bài trừ siêu hình học của thế kỷ qua. Nó
bắt đầu bằng sự phê phán một cách không thương tiếc các quan niệm cũ về thế
giới và con người. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc phê phán đó đã biến thành cuộc
đấu tranh chống toàn bộ tư tưởng phong kiến cùng hệ thống quan điểm của Nhà
thờ thiên chúa giáo. [1, tr.166]
Triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư
sản trong thời kỳ bình minh đầy tính cách mạng của mình. Nó thu hút và tập hợp
đông đảo mọi tầng lớp tiến bộ trong xã hội, hướng họ tới cuộc đấu tranh nhằm
lật đổ chế độ phong kiến – nhà thờ, khẳng định tự do hóa cá nhân của con người
và tiến bộ của xã hội. Chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cách mạng tư sản Pháp sẽ
xảy ra vào năm 1789-1794. [1, tr.167]
Trong tác phẩm Về giá trị chủ nghĩa duy vật chiến đấu, V.I.Lênin đánh giá
cao cuộc đấu tranh chống tôn giáo của chủ nghĩa vô thần Pháp thế kỷ XVIII.
Người viết: “Những tác phẩm nồng nhiệt, sinh động, linh lợi, tài tình của những
nhà vô thần cũ thế kỷ XVIII công khai công kích bọn tăng lữ đang thống trị, rất
thường
4
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa

khi là những tác phẩm muôn ngàn lần có khả năng đưa người ta ra khỏi tình
trãng mê muội tôn giáo”. Vào thế kỷ XVIII, chủ nghĩa duy vật Pháp là trào lưu
triết học tiên tiến nhất ở Tây Âu. [1, tr.167]
Trong những học thuyết về chính trị, đạo đức, các nhà triết học Khai sáng
và duy vật Pháp thế kỷ XVIII đã nêu lên những học thuyết về đạo đức và quan
niệm chính trị - xã hội của họ khỏi những hạn chế có tính chất tự nhiên chủ
nghĩa. Lý tưởng chung của các nhà Khai sáng là ý tuởng về sự tiến bộ. Ðó là sự
tin tưởng rằng điều kiện sống của con người sẽ ngày càng tốt hơn và thế hệ sau
sẽ sống tốt hơn thế hệ trước; đồng thời họ sẽ đóng góp hoạt động, lao động của
họ cho cuộc sống của thế hệ mai sau, đó là con đường mà nhân loại cùng chia xẻ
để cùng nhau phát triển.
Các đại biểu xuất sắc của triết học khai sáng thời kỳ này là: Môngtécxkiơ
(1689-1755), La Méttơri (1709-1751), Vônte (1694-1778), Rútxô (1712-1778),
Điđơrô (1713-1784), Hônbách (1723-1789).
Trong đó, tư tưởng triết học của Điđơrô và HônBách mang tính chiến đấu
cao vì họ phê phán một cách mạnh mẽ nền giáo dục, đạo đức tôn giáo, phủ nhận
sự tồn tại của Thượng đế.
1.2 Tư tưởng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp thế kỷ 18
1.2.1 Tư tưởng của Denis Diderot (1713 – 1784)
Điđơrô là nhà triết học chủ nghĩa nổi tiếng, nhà tư tưởng của giai cấp tư
sản cách mạng thế kỷ XVIII, là kiến trúc sư của công trình Bách Khoa toàn thư
đồ sộ. Ông sinh năm 1713 tại Langres và mất tại Paris năm 1784.

Quan niệm về thế giới và con người: Điđơrô là nhà triết học duy vật triệt để
trong quan niệm về thế giới tự nhiên. Ông cho rằng thế giới là vật chất tồn tại
khách quan trong trạng thái thường xuyên vận động. Vì vậy, khởi điểm của quan
niệm về thế giới là phải bắt đầu từ vật chất. Với ông không thể có hai thực tế như
quan niệm nhị nguyên luận. Tất cả các sự vật hiện tượng trong thế giới này đều
5
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa

có chung nguồn gốc vật chất. Vật chất là toàn bộ những vật thể có tính quán tính,
có hình thức, có tính chất không thể xuyên qua….Vật chất tồn tại trong không
gian và thời gian. Đó là hai thuộc tính tồn tại khách quan của vật chất nên không
thể chia tách. Thông qua việc phản bác quan niệm của Rousseau cho rằng vật
chất là một thực thể trơ ỳ, Điđơrô đã khẳng định vận động là một thuộc tính của
vật chất, chứ không phải là cái gán ghép từ bên ngoài vào. Quan niệm nay được
xem như một đóng góp quan trọng của Điđơrô vào việc phát triển chủ nghĩa duy
vật ở thế kỷ XVIII, [2, tr.357-538]. Ông khẳng định rằng trong quá trình vận
động đó, giới tự nhiên sẽ chọn lọc, loại bỏ những cái gì không còn phù hợp,
không theo quy luật và giữ lại những gì giúp nó càng ngày càng hoàn thiện hơn.

Quan điểm về con người: Theo Điđơrô, con người là sự thống nhất hữu cơ
giữa linh hồn và thể xác, trong đó linh hồn là tổng thể các hiện tượng tâm lý vì
thế linh hồn sẽ không là cái gi cả nếu không có thân thể con người. Ông cho rằng
cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức, tức là quá trình tâm lý.
Con người không phải đặc ân của Thiên Chúa. Sự hình thành và phát triển của
nó như một chuỗi biến dịch của vật chất. Từ vật chất trở về vật chất, [2, tr.359-
540]. Ông nhận ra nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh và môi
trường xung quanh. Tuy nhiên ông vẫn chưa hiểu được bản thân hoàn cảnh và
môi trường đó cũng là sản phẩm của hoạt động con người.

Quan niệm về nhận thức: Điđerô theo khuynh hướng cảm giác luận. Ông chia
quá trình nhận thức làm hai giai đoạn: cảm giác và tư duy. Cảm giác là giai đoạn
thứ nhất của nhận thức giới tự nhiên và cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu
biết của chúng ta. “Ông xem cảm giác là bằng chứng về sự tồn tại của giới tự
nhiên, lý trí là quan tòa dùng để kiểm soát cảm giác”, [2, tr360-361]. Ông luôn
dựa trên lập trường duy vật để phê phán các hệ thống triết học siêu hình – chủ
nghĩa duy lý cực đoan. So với các triết gia đượng thời ông đã có những bước tiến
bộ đáng kể, đặc biệt là ông đã phỏng đoán được mối liên hệ hữu cơ của cảm tính
và lý tính, hai giai đoạn của quá trình nhận thức hiện thực khách quan. Ông cho

rằng con người có thể nhận thức hoàn toàn đầy đủ thế giới.
6
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa

Quan điểm xã hội: Ông không vượt qua được giới hạn của thời đại, Diderot là
nhà triết học duy tâm khi giải quyết các hiện tượng xã hội. Chịu ảnh hưởng của
Rousseau, của Montesquieu, Điđơrô cho rằng phong tục tập quán xã hội tùy
thuộc ở Pháp luật và hình thứ cai trị. Đối với một nhà nước thì sự cần thiết nhất
là pháp luật của nhà nước phải phù hợp với yêu cầu của lý tính và đó là nền tảng
của cuộc sống có đạo đực, cho công dân có học thức, có tự do và không đánh rơi
mất cái thiện. [2, tr.361]

Quan niệm về tôn giáo: Điđơrô cho rằng không có chúa bởi vì không cần đến
chúa vẫn có vạn vật. Vạn vật là từ vật chất. Chúa là do con người thần thánh hóa
điều kiện sống của mình tạo ra. Vì vậy không phải tôn giáo tạo ra con người mà
con người tạo ra tôn giáo. Ông viết: “Không thể giả thử rằng có một thực thể nào
đó đứng bên ngoài vũ trụ vật chất. Không bao giờ được giả thử như vậy, bởi vì từ
trong giả thử ấy không rút ra đuyợc kết luận nào cả”. “Chúa của những người Cơ
đốc giáo, đó là người cha chỉ biết coi trọng những đám mây chứ không lưu tâm
gì đến những đứa con của ông ta” đang hiện hữu trên mặt đất, [2, tr.361]. Mặc dù
phê phán mạnh mẽ tôn giáo nhưng Điđơrô cũng chỉ nhận thấy nguồn gốc của tôn
giáo là ở các yếu tố tâm lý mà không thấy được cơ sở kinh tế - xã hội của tồn tại
tôn giáo. Vì vậy, theo ông chỉ cần tiêu diệt giới tu hành, mở rộng hệ thống giáo
dục là có thể xóa bỏ được tôn giáo là một điều không thực tế.
Điđơrô phê phán luôn cả nền đạo đức và giáo dục, luật pháp tôn giáo. Nên
giáo dục thì lạc hậu, sự giả dối trong đạo đức, và luật pháp thì thối nát. Những
môi thứ này chỉ tạo ra môi trường sống đồi bại, làm con người trở nên yếu hèn,
khốn khổ, làm con người sống cả tin vào số mệnh. Tôn giáo tạo ra mộng ảo về
thiên đàng và ảo tưởng về địa ngục như một biện pháp khích lệ và đe dọa để
kiểm soát hành vi con người. Từ những quan điểm trên Điđơrô mạnh mẽ kêu gọi

phải tách tôn giáo ra khỏi nhà trường, loại bỏ thần học khỏi giáo dục, tách nhà
thờ khỏi nhà nước. Ông chỉ ra rằng nền giáo dục phải hướng tới việc xây dựng
mỗi con người thành một người công dân, một nhà khoa học – duy vật – vô thần.
[1, tr.176-177]
7
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
Tóm lại, tư tưởng triết học của Điđơrô đầy tính duy vật chiến đấu. Sự phê
phán tôn giáo một cách mạnh mẽ của Điđơrô có ảnh hưởng tích cực đến phong
trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Pháp thời đó, nhưng nó vẫn chỉ là một
phê phán mà thôi.
1.2.2 Tư tưởng của Hônbách
Hônbách sinh ngày 18/2/1723 và mất năm 1789. Ông là đại biểu xuất sắc
của chủ nghĩa duy vật và vô thần Pháp thế kỷ XVIII. Ông không chỉ là một trong
những trụ cột của phái Khai sáng mà còn tham gia tích cực vào phái Bách khoa
toàn thư. Từ những thành tựu khoa học tự nhiên, ông đã khái quát và hệ thống tư
tưởng duy vật Pháp.

Quan niệm về thế giới: Thế giới quan của Hônbách được dựng nên từ nền
tảng vật chất. Trong tác phẩm Hệ thống tự nhiên hay là quy luật của thế giới vật
lý và của thế giới tinh thần, Hônbách đã chỉ ra rằng thế giới này không gì khác
hơn đó là thế giới vật chất. Ông viết: “Thế giới, đó là sự kết hợp kỳ diệu của tất
cả những vật đang tồn tại, bất cứ chỗ nào chúng ta cũng chỉ thấy vật chất và
chuyển động; trước mắt chúng ta toàn thể thế giới chỉ là một sợi dây chuyền vô
tận và liên tục của nguyên nhân và kết quả…”. [2, tr363-364]
Ông đưa ra định nghĩa có thể xem là khái quát nhất về vật chất: “Vật chất
là tất cả những cái tác động bằng cách nào đó vào các giác quan của chúng ta,
còn các đặc tính mà chúng ta gán cho các chất khác nhau thì dựa trên những cảm
giác khác nhau hay những biến đổi khác nhau do chúng gây ra trong chúng ta”.
Vật chất theo ông không do ai sinh ra và không bị tiêu diệt. Vật chất là vô cùng
vô tận, phục tùng những quy luật khách quan của chính nó, vật chất có đặc tính

như: trọng lực, quán tính, không thể phân chia, hình dáng…vật chất tồn tại bằng
vận động. Vận động và vật chất tồn tại vĩnh viễn. [2, tr363-364]
Giống như các nhà duy vật Pháp, Hônbách chưa vượt qua được giới hạn
của chủ nghĩa cơ học. Ông đã quy các hình thức vận động vốn phong phú của vật
chất về vận động cơ giới. Căn cứ để phân loại thành “vận động đơn giản” và
8
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
“vận động phức tạp” của ông rất ngây thơ. Vận động giản đơn là một nguyên
nhân gây nên, vận động phức là từ hai nguyên nhân tạo thành.
Hônbách không thấy tính biện chứng trong sự phát triển của giới tự nhiên
(và càng không thể thấy ở trong đời sống xã hội). Tự nhiên bao gồm vô cơ, hữu
cơ và con người. Vận trù tuyệt đối theo ba quy luật tất định đó là quy luật nhân
quả, quy luật quán tính và quy luật hấp dẫn xô đẩy. Ông phủ nhân sự tồn tại của
ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên là cái tất nhiên khi chưa gọi được nguyên nhân. “Ngẫu
nhiên – danh từ vô nghĩa” nhưng ông chưa hiểu được tính khách quan của ngẫu
nhiên. [2. Tr365-366]
Tư tưởng về vật chất của Hônbách đã có giá trị quan trọng đối với việc
phản bác các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, của tôn giáo về vai trò của
Thượng đế.

Quan niệm về con người: Hônbách cho rằng con người là sản phẩm của giới
tự nhiên, giống như các sinh vật khác, con người tồn tại trong tự nhiên. “Con
người không có cơ sở nào để tự coi mình là một sinh thể có đặc quyền của giới
tự nhiên. Nó cũng phải chịu đựng mọi phong ba như mọi sản phẩm khác của giới
tự nhiên”. Từ giới tự nhiên con người tìm kiếm tri thức và giới tự nhiên “ban ý
thức cho con người”. Tự nhiên chi phối con người thông qua hệ thống quy luật
máy móc, bất di bất dịch của nó. Không thể vượt qua khỏi tự nhiên nên Hônbách
kết luận “cần phải xem con người như một cỗ máy”.[2, tr366-367]

Quan niệm về nhận thức: Xuất phát từ quan niệm cho rằng, ý thức là đặc tính

của một dạng vật chất có tổ chức cao, ông vạch ra sự vô lý của những học thuyết
về linh hồn phi thể chất, về con người được tạo ra theo hình ảnh của Thượng đế.
Trong nhận thức, Holbach là nhà duy cảm. “Mọi cảm giác đều chỉ là những chấn
động mà các giác quan của chúng ta nhận được, mọi tri giác đều là sự chấn động
đó, mọi ý niệm – đó là hình ảnh của đối tượng mà cảm giác và tri thức bắt nguồn
từ đó”. Với Holbach, thế giới vật chất ở bên ngoài là nguồn gốc để tạo thành các
cảm giác của con người. Cảm giác là nguồn gốc của tri thức. Holbach phủ định
tư tưởng bẩm sinh, không có linh hồn bất tử vì “bộ não chính là linh hồn”. Trên
9
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
lập trường duy vật, ông khẳng định chân lý là sự phù hợp giữa ý niệm và sự vật.
[2, tr367-368].
Holbach đã có những đóng góp đáng kể cho quan điểm duy vật. Tuy vậy,
đó vẫn chỉ là nhận thức duy vật siêu hình. Ông không nhận thấy những bước
chuyển biện chứng của con đường nhận thức từ cảm tính lên lý tính, nhận thức là
một quá trình phức tạp. Ở ông chỉ thuần túy là sự nâng cấp về mặt lượng của
cảm giác.

Quan niệm về tôn giáo: Tôn giáo và thần học của Holback mặc dù còn có
những hạn chế nhất định, nhưng có lẻ Holbach là nhà triết học của thời kỳ cận
đại viết về tôn giáo hay nhất. Theo ông, thần học nếu được gọi là khoa học thì đó
là “khoa học mang màu sắc thần thánh, dạy chúng ta suy nghĩ về những cái mà
chúng ta không hiểu và làm cho chúng ta mất quan niệm rõ ràng về những điều
mà chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được”. Tôn giáo, theo Holbach, dù ở chín tầng
trời thì cũng là sản phẩm của những sinh linh mang kiếp người tạo ra. Con người
của Holbach về mặt thân xác không tội nghiệp như con người của Pascal nhưng
nó lại có bản tính túng bách về mặt nhu cầu (theo Holbach những nhu cầu này là
khách quan) và tối tăm về mặt trí tuệ. Như vậy theo Holbach, con người không
sinh ra cùng tôn giáo. Tôn giáo chỉ xuất hiện trong một giai đoạn phát triển lịch
sử, nó phản ánh sự bất lực của con người trước những lực lượng khủng khiếp và

bí ẩn của giới tự nhiên, lực lượng đối diện với thân xác mong manh và bé nhỏ
của con người.
Hơn thế nữa, trong một giới hạn nào đó, Holbach cũng đã chỉ ra tôn giáo
có mối liên hệ chặt chẽ giữa giáo hội và chế độ chính trị lúc bấy giờ, là công cụ
duy trì địa vị của tầng lớp quý tộc, của giai cấp thống trị. “Tôn giáo hình như
được bịa đặt ra chỉ là để đặt các vua chúa lên trên dân tộc và đặt các dân tộc dưới
quyền hành của vua chúa…”. Có thể nói điểm đặc sắc nhất trong luận điểm của
Hônbách về tôn giáo là ông đã cho rằng không phải tôn giáo sẽ làm cho con
người trở nên thanh cao hơn mà ngược lại, tôn giáo đang làm tha hóa con người,
trở thành kẻ vong thân ngay trên quê hương của mình. “Vì thiếu sự cai trị hợp lý,
10
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
thiếu những luật lệ công bằng, những thể chế có ích, thiếu sự giáo dục đúng đắng
và vì thấy tu và vua chúa kìm giữ trong vòng ngu dốt và hèn mọn cho nên các
dân tộc đã có đầu óc tôn giáo và trở nên trụy lạc. Người ta quên mất bản chất của
con người, những lợi ích chân chính của xã hội…”. [2, tr369-370]

Quan niệm về chính trị và xã hội: Hônbách là người chủ trương chế độ quân
chủ lập hiến, còn trong một số trường hợp thì chủ trương chế độ chuyên chế sáng
suốt. Mang đầy đủ quan điểm của triết học duy vật đương thời nên Hônbách duy
tâm về xã hội. Ông coi quá trình phát triển xã hội như một quá trình do định mệnh
chi phối. Ông cho rằng con đường để giải phóng con người chỉ có thể giáo dục
và vì “sự bất công thống trị ở trần gian” nên động lực của lịch sử là ở các nhà
làm luật. Với ông, xã hội tư bản đang phát triển là vương quốc của lý tính. Ông
muốn có sự quá độ hòa bình từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản bằng con
đường lập pháp hóa.[2, tr.370]
Mặc dù còn những hạn chế nhưng những tư tưởng triết học của Hônbách
đã để lại dấu ấn quan trọng trong hành trình phát triển của chủ nghĩa duy vật.
Lênin đánh giá rất cao các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII (trong đó có
Hônbách) vì họ là các tác giả của “Những tác phẩm nồng nhiệt sinh động, linh

lợi, tài tình… có khả năng đưa người ta ra khỏi tình trạng mê muội tôn giáo”.[2,
tr370]
11
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ KỶ 18
2.1 Những giá trị của CNDV chiến đấu Pháp TK.18
Triết học Pháp thời kỳ này là thế giới quan của gia cấp tư sản đang lên,
tiêu biểu cho tư tưởng giai cấp tư sản Pháp. Giai cấp tư sản Pháp lúc bấy giờ đã
có năng lực lên nắm chính quyền, do đó nó đã xây dựng được một hệ thống tư
tưởng trực tiếp đối lập với truyền thống tôn giáo cựu truyền, nghĩa là trực tiếp
đối lập với tư tưởng của chế độ phong kiến. Các nhà chủ nghĩa duy vật chiến đấu
Pháp dương cao ngọn cờ tự do, dân chủ nhằm tập hợp các tầng lớp bị áp bức, các
lực lượng tiến bộ để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc CMTS Pháp (1789-
1794). Tư tưởng triết học của họ là vũ khí lí luận của giai cấp tư sản Pháp trong
thời kì chuẩn bị cho cuộc đại cách mạng tư sản Pháp 1789. Nó có nhiệm vụ thu
hút, giác ngộ, tập hợp đông đảo mọi tầng lớp tiếng bộ trong xã hội, hướng họ tới
cuộc đấu tranh cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ tư sản.
Chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp thế kỷ 18 đã vạch trần bộ mặt của các
thế lực đen tối (nhà thờ Thiên Chúa Giáo và Nhà nước phong kiến) thời bấy giờ.
Các nhà triết học đã đứng trên lập trường duy vật vô thần để chống lại thế giới
duy tâm và phê phán một cách gay gắt nền giáo dục lạc hậu, hệ thống đạo đức
giả dối của tôn giáo, những đạo luật dốt nát của nhà thờ và nhà nước đã làm cho
môi trường và hoàn cảnh xung quanh con người ngày càng trở nên đồi bại mà
kết quả là làm cho con người ngày càng khốn khổ. Theo Montesquieu thì tôn
giáo chỉ là công cụ để ru ngũ quần chúng, trước đây nó là công cụ của chính trị
thì hiện nay cũng không hơn gì. Chỉ ra được mối liên hệ chặt chẽ giữa giáo hội
và chế độ chính trị lúc bấy giờ, là công cụ duy trì địa vị của tầng lớp quý tộc và
giai cấp thống trị. Bác bỏ những quan điểm của thần học về lịch sử, cho rằng

không những không khích lệ được sự tiến bộ mà ngược lại làm đơn điệu, tầm
thường hóa lịch sử và con người.
12
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
Lênin đặc biệt đánh giá cao công lao của các nhà duy vật Pháp. Ông viết:
”Trong suốt toàn bộ lịch sử hiện đại của châu Âu và nhất là vào cuối thế kỷ
XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc quyết chiến chống tất cả những rác
rưởi của thời trung cổ, chống chế độ nông nô trong các thiết chế và trong những
tư tưởng thì chủ nghĩa duy vật là triết học duy nhất triệt để, trung thành với tất
cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với mê tín, với thói đạo đức
giả v.v " [4]
Đem lại những thành quả lớn cho nền lý luận nhân loại như lý luận về
pháp luật của phương Tây do Montesquieu sáng lập ra. Các nhà triết học Pháp đã
đóng góp và làm giàu thêm kho tàng văn hóa thế giới với những tác phẩm nổi
tiếng như Những bức thư Ba Tư (1731) của Montesquieu đã gây chấn động
không chỉ ở Pháp mà còn ở cả Châu Âu phê phán chế độ quân chủ Pháp. Voltaire
thì có Những bức thư triết học (1727-1733), Lý luận về siêu hình (1734)….Tác
phẩm được giải thưởng của Viện Hàn Lân do Rousseau viết: Sự tiến bộ của khoa
học và nghệ thuật đã làm hư hỏng hay thuần khiết bản tính con người (1750).
Những tác phẩm chính của Điđơrô: Những tư tưởng triết học (1746), Cuộc dạo
chơi của những người theo chủ nghĩa hoài nghi (1747)…Holbach với Đạo Cơ
Đốc bị bốc trần (1761), Sách thần học bỏ túi hay là từ điển vắn tắc của đạo Cơ
đốc (1768)…Làm ảnh hưởng lớn về tư tưởng và hành động với nhân loại.
Đề cao vai trò của triết học và khoa học trong việc nhận thức quy luật và
sức mạnh của tự nhiên, giúp con người nhận thức được tự nhiên và làm chủ tự
nhiên. Khẳng định vật chất tự nhiên là thực thể duy nhất. Vật chất luôn vận động.
Vận động do nguyên nhân bên trong của vật chất.
Coi con người là sản phẩm của tự nhiên, con người tồn tại trong tự nhiên,
chịu sự chi phối của tự nhiên. Con người là thể thống nhất giữa cơ thể và ý thức.
Bác bỏ linh hồn bất tử, linh hồn tách rời cơ thể. Các nhà triết học Pháp đã nhận

thấy nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục.
Đề cao vai trò nhận thức kinh nghiệm, của thực nghiệm khoa học chống
lại niềm tin mù quáng. Nhấn mạnh sự thống nhất giữa tư duy với nhận thức cảm
13
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
tính và coi thực nghiệm là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Bằng trí tuệ và thực
nghiệm kiểm soát cảm tính, và bằng trí tuệ, thực nghiệm, cảm tính nhận thức thế
giới vật chất – thế giới tự nhiên. Phê phán chủ nghĩa duy tâm bất khả tri, thừa
nhận có chân lý khách quan và cho thấy nguồn gốc của tri thức là cảm giác, ở
kinh nghiệm.
2.2 Những hạn chế của CNDV chiến đấu Pháp TK.18
Tuy triết học thời kỳ này là thế giới quan của giai cấp tư sản nhưng nó lại
chứa đựng hạn chế đó là nếu có sự đối lập thể hiện trong thế giới quan thì lại
không hoàn toàn trong nhân sinh quan và đặc biệt trong những chủ trương chính
trị, vì giai cấp tư sản lúc ấy tuy đã có thể nắm được chính quyền, bảo đảm chính
quyền, nhưng với lực lượng bản thân của nó, nó lại không có đủ năng lực để
đánh đổ chế độ phong kiến. Chủ lực quân đánh đổ chế độ phong kiến là nhân
dân, đa số gồm nông dân, công nhân, tiểu công, tiểu thương, dân nghèo. Quyền
lợi của giai cấp tư sản không phù hợp với những tầng lớp này; nó lại còn đối lập
với quần chúng nữa. Cho nên chủ trương chính trị và xã hội của giai cấp tư sản
Pháp đã mất lập trường duy vật, chuyển sang duy tâm, thậm chí lại có hướng
phần nào dựa vào phong kiến. Quá trình Cách mạng Pháp từ 1789-1794 đã
chứng minh điều đó: đối với cách mạng tư sản Pháp nói chung do giai cấp tư sản
Pháp lãnh đạo, nhưng lúc gay go nhất, lúc thử thách quyết định (đánh đổ nhà vua
chẳng hạn) thì tư sản không lãnh đạo được mà phải có bộ phận tiểu tư sản, gần
quần chúng hơn, huy động quần chúng mới đánh đổ được chế độ quân chủ. Do
đó, các nhà duy vật Pháp thế kỷ 18 vẫn chưa thoát khỏi duy tâm trong viêc giải
quyết vấn đề xã hội.[5]
Triết học chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ 18 nhìn chung là siêu hình và máy
móc do nhận thức còn ngây thơ và chất phát về vận động, chưa hiểu rõ bản chất

của vận động chỉ dậm chân tại chỗ trong quan niệm về vận động, vẫn chỉ dừng
lại lại ở lý thuyết cơ học của Newton. Chưa vượt qua được giới hạn của chủ
nghĩa cơ học dù các nhà triết học thời kỳ này đã có sự phân loại vận động.
14
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
Nhưng không quan niệm vận động đi từng bước từ thấp lên cao, có những trình
độ khác nhau, mà chỉ quan niệm có biến lượng không có biến chất.
Chưa thoát khỏi cách nhìn máy móc về con người do tự nhiên chi phối con
người thông qua hệ thống quy luật máy móc, bất di bất dịch của nó. Không thể
vượt qua khỏi tự nhiên nên “cần xem phải con người như một cỗ máy”.[2, tr367]
Họ cũng chưa thấy được rằng ý thức không chỉ là sản phẩm của dạng vật chất
có tổ chức cao là bộ óc con người, mà còn là sản phẩm của sự phát triển xã hội.
Họ chỉ thấy nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh môi trường xung
quanh nhưng chưa hiểu được rằng, bản thân môi trường và hoàn cảnh đó cũng là
sản phẩm của hoạt động con người, và vì vậy, cả con người lẫn hoàn cảnh sống
của nó đều mang tính lịch sử.
Các nhà chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp vẫn chưa nhận ra được cơ sở
kinh tế - xã hội của sự tồn tại tôn giáo mà chỉ mới thấy được nguồn gốc nhận
thức của nó là từ sự thiếu hiểu biết và tâm lý sợ hãi của con người. Đó là vì họ
quan niệm một cách máy móc, không nắm được cơ sở và thực chất. Theo họ nếu
thay đổi phương pháp giáo dục người ta sẽ tốt, cho nên muốn làm cách mạng chỉ
cần đấu tranh tư tưởng và giáo dục tư tưởng thì thay đổi con người. Thay đổi
được con người thì thay đổi được xã hội.
Và Mác đã phê bình những nhà duy vật Pháp: “Nói người ta là do ảnh
hưởng của giáo dục, nhưng vấn đề là ai giáo dục những nhà giáo dục? Đặt vấn đề
như vậy, vì thực ra chính những nhà giáo dục ấy đã được chế độ ấy giáo dục. Các
nhà triết học Pháp không nắm được điểm này, vì tư tưởng của họ xuất phát từ
quyền lợi của giai cấp tư sản. Họ có thể thay đổi được sự cần thiết thay đổi
phương pháp giáo dục, nhưng không thể thay đổi được cơ sở của phương pháp
giáo dục”. Vì vậy, họ đã sai lầm khi cho rằng không thể không xóa bỏ tôn giáo,

tiêu diệt giới tu hành, mở rộng khoa học và thực hành giáo dục toàn dân.[5]
15
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, các nhà duy vật Pháp
thừa nhận vật chất, giới tự nhiên là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất,
theo các nhà duy vật Pháp tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng tạo và cũng không
thể tiên diệt được, không thể biến đổi thành vật chất thành hư vô, cũng không thể
tạo nên vật chất từ hư vô. Bác bỏ nhị nguyên luận của Đềcactơ, họ cho rằng sự
phong phú, đa dạng của sự vật, hiện tượng chỉ là những hình thức khác nhau của
tồi tại vật chất do các phân tử cấu thành. Vật chất là một thực thể duy nhất,
nguyên nhân tồn tại của vật chất nằm ngay trong bản thân của nó. Theo họ, vận
động biểu hiện hoạt tính của vật chất và gắn liền với vật chất. Nhờ vận động mà
giới tự nhiên luôn luôn chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác.[3,
tr35]. Tính nhất nguyên của chủ nghĩa duy vật làm cho các nhà duy vật Pháp thế
kỷ XVIII thể hiện mạnh mẻ chủ nghĩa vô thần.
Họ đã cố gắng khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy vật ở thế kỷ XVIII
song vẫn không thoát khỏi tính chất siêu hình và cơ giới trong quan niệm về vật
chất và vận động; vận động vẫn chỉ được hiểu một cách cơ giới. Vẫn chưa thoát
khỏi duy tâm trong việc giải quyết những vấn đề xã hội.
Họ có dứt khoát về mặt vũ trụ quan, nhưng về mặt nhân sinh quan họ
không triệt để. Sở dĩ họ có cái mâu thuẫn ấy là vì quyền lợi giai cấp của tầng lớp
công thương Pháp bấy giờ có tính chất đối lập với quyền lợi giai cấp phong kiến,
nhưng một mặt khác, bản thân nó lại không đủ sức đánh đổ phong kiến; mà đối
với nhân dân, động lực của cách mạng, quyền lợi của nó lại đối lập.
Các nhà duy vật chiến đấu Pháp rất mạnh mẽ trong việc phê phán, vạch
trần bộ mặt đen tối của Tôn giáo và nhà nước phong kiến cầm quyền, nền giáo
dục lạc hậu. Nhưng họ vẫn chỉ hạn chế ở mức phê phán, tuy vậy những tư tưởng
của họ đã là cở sở lý luận, tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789.
Triết học Khai sáng và chủ nghĩa Duy vật chiến đấu Pháp vẫn có giá trị

vận dụng cho thực tiễn hiện tại trong quá trình xem xét tôn giáo, chính trị - xã
hội để từ đó có cái nhìn đúng đắn về thực tại trong quan điểm của mỗi chúng ta.
16
Tiểu luận triết học GVHD: TS.Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên;2011), Triết học – Đại cương về lịch sử triết
học, tập 1, Tp.HCM.
2. PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng (2006), NXB Tổng hợp TP.HCM
3. Gs, Ts. Nguyễn Ngọc Long & Gs, Ts. Nguyễn Hữu Vui (2007), Giáo trình
Triết học Mác – Lênin, Bộ Giáo dục đào tạo.
4. V.I.Lenin, Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, bản
dịch của NXB Sự Thật Hà Nội, theo website:
/>5.
duy-vat-phap-the-ki-xviii.html
17

×