Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

MỐI QUAN hệ GIỮA đầu tư CÔNG và nợ CÔNG, yêu cầu đảm bảo bền VỮNG NGÂN SÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.15 KB, 13 trang )

Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công và yêu cầu đảm bảo
bền vững ngân sách ở Việt Nam

Viện Chiến lược và Chính sách tài chính

1. Đầu tư công và vai trò đầu tư công ở Việt Nam
1.1. Vai trò của đầu tư công
Trong 10 năm qua, tổng mức đầu tư toàn xã hội của Việt Nam liên tục
tăng và duy trì ở mức cao. Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã
tăng từ 35,4% năm 2001 lên gần 42% năm 2010, bình quân giai đoạn 2001-
2010 đạt xấp xỉ 41% GDP. Trong khu vực, tỷ lệ tổng mức đầu tư so với GDP
của Việt Nam cao hơn so với tất cả các nước trong ASEAN-5 và chỉ đứng sau
Trung Quốc (Hình 1).
Hình 1: Tổng đầu tư toàn xã hội của một số quốc gia Châu Á
(Đơn vị: % GDP danh nghĩa)

Nguồn: IMF (2011).
Trong cơ cấu đầu tư toàn xã hội, đầu tư công tuy có giảm những năm
gần đây song vẫn chiếm một tỷ trọng khá lớn. Bình quân giai đoạn 2001-
2010, đầu tư công tương đương gần 20% GDP, chiếm 48,2% tổng vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội. Bên cạnh nguồn lực đầu tư công, thời gian qua đã huy
động được một nguồn lực đáng kể từ các khu vực khác như đầu tư cuả khu
vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Huy động vốn từ khu vực

2
ngoài Nhà nước đã có bước phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng trong những
năm gần đây cao hơn mức tăng đầu tư chung. Bình quân cả giai đoạn 2001-
2010, nguồn vốn này chiếm 33,6% tổng đầu tư toàn xã hội, tương đương
13,7% GDP. Một trong những kết quả quan trọng trong giai đoạn 2001-2010
là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục được đẩy mạnh, tỷ
trọng vốn FDI thực hiện trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 16% giai


đoạn 2001-2005 lên 19,3% giai đoạn 2006-2010, bình quân giai đoạn 2001-
2010 là 17,7%, tương đương 7,2% GDP.
Có thể thấy trong các động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
giai đoạn 2001-2010, đầu tư đã đóng một vai trò rất quan trọng
1
. Trong đó có
vai trò đặc biệt quan trọng của đầu tư công, thể hiện trên các giác độ sau: i)
góp phần quan trọng trong việc duy trì và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những
năm vừa qua; ii) góp phần phát triển cơ sở hạ tầng; iii) hỗ trợ tích cực cho
công tác đảm bảo an sinh xã hội và iv) ổn định kinh tế vĩ mô.
- Thông qua đầu tư công, hệ thống cơ cở hạ tầng trong nước tiếp tục
được đầu tư và phát triển, tạo ra các tác động lan tỏa, góp phần cải thiện môi
trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, vốn đầu tư phát triển từ
NSNN đã được tập trung ưu tiên cho các dự án kết cấu hạ tầng, giao thông
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của đất nước.
- Trong tổng đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư công đã góp phần
giải quyết kịp thời các nhu cầu đầu tư cho công tác xóa đói, giảm nghèo, đảm
bảo an sinh xã hội. NSNN đã được cơ cấu lại để tăng chi cho giáo dục - đào
tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá thông tin , góp phần nâng cao chất
lượng nguồn lực con người, tạo nền tảng cho phát triển bền vững. Đã chủ
động bố trí NSNN để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa
đói, giảm nghèo, qua đó cung cấp thêm nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã
hội ở những vùng khó khăn.
- Bên cạnh đó, thời gian qua, đầu tư công cũng đã phát huy được vai trò
của mình trong việc duy trì và ổn định kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, trong bối cảnh
tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2008-2010, chính sách tài
khoá đã được nới lỏng thông qua các chính sách kích cầu đầu tư. Nhờ đó, đầu
tư công đã góp phần quan trọng trong việc hạn chế tác động tiêu cực cực của
khủng hoảng kinh tế thế giới, hồi phục và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất


1
Trong giai đoạn 2001-2010, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam đạt 7,26%, trong đó giai
đoạn 2001-2005 là 7,5% và giai đoạn 2006-2010 là 7,0%.

3
là trong bối cảnh đầu tư của khu vực tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài
suy giảm.
1.2. Đầu tư công và một số vấn đề đặt ra
Tuy nhiên, phân tích về vai trò của đầu tư công ở Việt Nam thời gian
qua cho thấy hiệu quả đầu tư công còn nhiều hạn chế, nổi lên các vấn đề sau:
- Đầu tư công chưa phát huy được vai trò “tạo môi trường” để thu hút
sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Đầu tư công nói chung và
NSNN nói riêng vẫn còn tập trung cho những lĩnh vực mà khu vực tư nhân có
khả năng và sẵn sàng đầu tư.
- Chưa hình thành được các tiêu chí cụ thể trong việc xác định “tính ưu
tiên” trong các dự án đầu tư công nên việc khắc phục tình trạng đầu tư dàn
trải chậm được tháo gỡ
2
. Việc phê duyệt, lựa chọn các dự án đầu tư còn chịu
ảnh hưởng của nhân tố “tư duy nhiệm kỳ” hay “lợi ích nhóm”.
Hình 2: Chi đầu tư phát triển từ NSNN so với GDP

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2012).
- Chất lượng xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch ở nhiều
ngành, lĩnh vực còn yếu. Tình trạng đầu tư mang tính phong trào, rập khuôn,
hình thức của các ngành, các địa phương diễn ra phổ biến. Hầu như địa
phương nào cũng muốn có sân bay, cảng biển…

2
Năm 2010, các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương phân bổ vốn NSNN cho tổng số 16.658 dự án,

nhiều hơn năm 2009 khoảng 850 dự án; số vốn bình quân phân bổ cho một dự án là gần 7 tỷ đồng; vốn bình
quân phân bổ cho dự án nhóm A ở trung ương năm 2010 xấp xỉ 115 tỷ đồng, chỉ bằng 46% mức bố trí năm
2007

4
- Đầu tư công ở mức cao, song do thực hiện dàn trải nên đã không tập
trung được nguồn lực để đầu tư các dự án hạ tầng quan trọng để tạo được tác
động lan tỏa trong phát triển kinh tế - xã hội.
2. Đầu tư công trong mối quan hệ với nợ công ở Việt Nam: Một số
nhận xét
Theo Luật quản lý nợ công thì nợ công bao gồm nợ của Chính phủ, nợ
được Chính phủ bảo lãnh và vay nợ của chính quyền địa phương. Trong 10
năm qua, tỷ lệ nợ công của Việt Nam so với GDP đang có xu hướng gia tăng.
Tổng số dư nợ công tính đến năm 2011 bằng 54,6% GDP
3
. Trong cơ cấu nợ
công thì nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đến là nợ được Chính phủ
bảo lãnh (Hình 3). Quy mô nợ của chính quyền địa phương nhìn chung đến
nay chiếm tỷ trọng còn khá thấp (dưới 1% GDP).
Hình 3. Cơ cấu dư nợ công giai đoạn 2001-2010 (%)
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Nợ Chính phủ Nợ được chính phủ bảo lãnh Nợ của chính quyền địa phương

Nguồn

4
: Dự án 50739-CFBA (2011)
Như vậy, so với nhiều nước đang phát triển thì tỷ lệ nợ công và nợ
Chính phủ của Việt Nam cũng thuộc nhóm tương đối cao (Hình 4). Các hệ số
an toàn về nợ công của Việt Nam tuy vẫn còn trong giới hạn nhưng đã tiệm
cận ở mức cao, đó còn chưa tính đến yếu tố hiệu quả của việc sử dụng nguồn
vốn vay cũng đang là một vấn đề đặt ra hiện nay.

3
Nguồn: Bộ Tài chính (2012)
4
Dự án 50739-CFBA (2011). Báo cáo nghiên cứu “Đổi mới tài chính công ở Việt Nam: Thực trạng và
định hướng đến năm 2020”.

5
Ngoài ra, khi Việt Nam không còn là nước thu nhập thấp và trong thời
gian tới điều kiện vay nợ nước ngoài sẽ khó khăn hơn với chi phí cao hơn.
Quy mô của các khoản vay ưu đãi dự báo cũng sẽ giảm dần.
Hình 4. Mức dư nợ Chính phủ một số nước (% GDP danh nghĩa)

Nguồn: IMF (2011)
5

Dư nợ công thời gian qua tăng lên chủ yếu là do tăng các khoản vay
trực tiếp trong nước và ngoài nước của Chính phủ để bù đắp cho bội chi
NSNN và gia tăng nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh cho một số tập đoàn,
tổng công ty nhà nước. Theo đó, có thể thấy giữa nợ công và đầu tư công ở
Việt Nam có sự quan hệ trực tiếp, cụ thể như sau:
2.1. Đầu tư công và nợ Chính phủ
- Về nợ Chính phủ, trong cơ cấu nợ công, nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng

lớn nhất và có xu hướng mở rộng đáng kể những năm gần đây. Năm 2011, dự
nợ Chính phủ bằng khoảng 43,6% GDP, giảm so với con số 45,7% của năm
2010
6
. Các khoản nợ Chính phủ chủ yếu là vay ODA và vay ưu đãi, các
khoản phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước. Trong giai đoạn 10 năm
qua, tuy tỷ trọng của dư nợ Chính phủ trong tổng mức nợ công có xu hướng
giảm dần, song tỷ trọng nợ Chính phủ so với GDP lại luôn có xu hướng tăng
(tuy vẫn trong giới hạn cho phép).
Cơ cấu dư nợ Chính phủ đã có sự thay đổi theo hướng tích cực, tỷ trọng

5
Số liệu do IMF công bố có thể có sự khác biệt so với các nguồn số liệu khác do có sự khác biệt về tiêu
chí thống kê.
6
Nguyên nhân chủ yếu là do GDP danh nghĩa năm 2011 đã tăng rất cao so với năm 2010 nên các hệ số
nợ khi so với GDP danh nghĩa năm 2011 đều có xu hướng giảm nhẹ so với năm 2010.

6
nợ nước ngoài có xu hướng giảm từ 82% năm 2001 xuống khoảng 59% vào
cuối năm 2010. Nợ trong nước tăng từ 18% lên 41% trong cùng giai đoạn.
Điều này phù hợp với xu hướng chuyển đổi cơ cấu vay nợ Chính phủ hiện
nay đó là tăng tỷ lệ nợ trong nước và giảm dần sự phụ thuộc vào nợ nước
ngoài. Trong dư nợ nước ngoài của Chính phủ, khoản vay ODA chiếm tỷ lệ
cao nhất. Tuy nhiên, khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vượt
ngưỡng nước có thu nhập thấp thì các điều kiện vay ODA sẽ ngày càng kém
ưu đãi hơn. Theo đó, chi phí trả lãi vay hàng năm dự báo sẽ tăng lên. Đây là
một thách thức, đòi hỏi việc quản lý sử dụng vốn vay phải hiệu quả hơn.
Nếu phân theo loại tiền vay thì vay bằng đồng Yên Nhật Bản chiếm tỷ
trọng cao nhất. Thời gian gần đây đồng Yên tăng giá khá cao đã gây nhiều bất

lợi cho danh mục nợ vì sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản nợ đã
đến hạn.
Hình 5. Cơ cấu dư nợ Chính phủ (% tổng nợ)
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Nợ trong nước Nợ ngoài nước

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính (2010)
7

Trong bối cảnh chi thường xuyên của NSNN liên tục được mở rộng và
mức độ thặng dư của cán cân thường xuyên ngày càng thu hẹp, việc duy trì
mức đầu tư công ở mức như thời gian qua đã làm cho bội chi NSNN liên tục
ở mức cao. Mức thặng dư ngân sách thường xuyên đã giảm từ khoảng 9,5%
GDP năm 2006 xuống còn khoảng 5,16% năm 2010 GDP. Hay nói cách khác,
mức tích lũy của Chính phủ đang trong xu hướng giảm.

7
Trích dẫn từ nghiên cứu “Đổi mới tài chính công ở Việt Nam: Thực trạng và định
hướng đến năm 2020”.

7
Hình 6. Cán cân ngân sách thường xuyên của Việt Nam (% GDP danh
nghĩa)


Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính. Năm 2010 và 2011 là số ước
Theo đó, hệ quả trực tiếp của việc duy trì mức chi đầu tư từ NSNN ở
mức cao như giai đoạn vừa qua là sự kéo dài và gia tăng về mức bội chi
NSNN. Bội chi NSNN đã tăng từ mức trung bình là 4,0% GDP giai đoạn
1996-2000 lên 4,9% GDP giai đoạn 2001-2005 và giai đoạn 2006-2010 là
5,5% GDP
8
. Năm 2011, tuy bội chi NSNN đã được giảm xuống mức thấp
nhất trong 3 năm trở lại đây song vẫn đang là mức cao cần phải được tiếp tục
cắt giảm hơn nữa để đảm bảo sự bền vững tài khóa trong trung và dài hạn.
Hình 7. Bội chi ngân sách ở Việt Nam 1996-2011

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính. Ghi chú: Trục phải: Bội chi so với GDP: Trục trái:
Mức bội chi. Năm 2010 và năm 2011 là số ước

8
Đây là con số bội chi theo cách tính của Việt Nam. Số bội chi khi quy theo thông lệ quốc tế, ví dụ như
theo Cẩm nang Thống kê tài khóa của Chính phủ (GFS) của IMF có sự khác biệt với các con số này.

8
Quay trở lại, bội chi NSNN liên tục và ở mức cao sẽ kéo theo sự gia tăng
trực tiếp của dư nợ công. Bội chi NSNN tăng còn tác động đến nợ công thông
qua kênh gián tiếp. Đó là khi huy động nguồn vốn để bù đắp cho bội chi
NSNN, nợ công sẽ ngày càng tăng. Nợ công tăng lên sẽ kéo theo lãi phải trả
tăng. Khi lãi phải trả tăng sẽ lại làm cho bội chi NSNN tăng. Chu trình này sẽ
trầm trọng hơn trong bối cảnh lãi suất cao, tăng trưởng thấp, hiệu quả sử dụng
NSNN thấp. Ngoài ra, còn có yếu tố là khi nợ công ở mức cao thì chi phí vay
nợ của Chính phủ cũng có xu hướng tăng theo.
Bên cạnh nguồn bù đắp thâm hụt NSNN nói trên, một yếu tố khác góp
phần vào sự gia tăng của nợ công thời gian qua là nguồn trái phiếu Chính phủ

động để đầu tư cho một số công trình giao thông, thủy lợi. Hiện hành khoản
này đang được để ngoài dự toán
9
nên thực tế số gia tăng về nợ Chính phủ
thời gian qua luôn lớn hơn số cần có để bù đắp cho thâm hụt NSNN. Tổng chi
từ nguồn trái phiếu Chính phủ trong giai đoạn 2003-2010 vào khoảng 180
nghìn tỷ đồng. Năm 2011, chi từ nguồn trái phiếu Chính phủ ước vào khoảng
45 nghìn tỷ đồng
10
.
2.2. Đầu tư công và nợ Chính phủ bảo lãnh
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là các khoản vay được Chính phủ bảo
lãnh cho một số tập đoàn, tổng công ty Nhà nước trong việc thực hiện một số
dự án đầu tư (đầu tư công), trong các lĩnh vực như dầu khí, điện, xi măng,
hàng không, viễn thông Nguồn vốn này chiếm một tỷ trọng khá lớn trong
tổng vốn đầu tư của các DNNN thời gian qua. Trong cơ cấu nợ được Chính
phủ bảo lãnh có xu hướng tăng lên, từ 4% tổng dư nợ công năm 2001 lên 10%
năm 2005 và 18,6% năm, tương đương khoảng 11,6% GDP
11
.
2.3. Đầu tư công và nợ Chính quyền địa phương
Đối với nợ của Chính quyền địa phương: Nợ của chính quyền địa
phương chủ yếu là vay nợ cho đầu tư xây dựng cơ bản theo khoản 3, Điều 8
của Luật Ngân sách nhà nước 2002. Mức dư nợ phát hành trái phiếu của
chính quyền địa phương hiện nay còn khá thấp, hiện ước khoảng 0,6% GDP.
Mức dư nợ của chính quyền địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của
Luật NSNN không quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản trong nước của

9
Đây cũng là lý do làm cho con số bội chi NSNN của Việt Nam thường có sự khác biệt so với con số

tính toán của các tổ chức tài chính quốc tế.
10
Nguồn: Bộ Tài chính (2012).
11
Nguồn: Dự án 50739-CFBA (2011). Báo cáo nghiên cứu “Đổi mới tài chính công ở Việt Nam: Thực
trạng và định hướng đến năm 2020”.

9
các địa phương. Nhìn chung, so với nhiều nước thì việc vay nợ của chính
quyền địa phương ở Việt Nam là khá thấp.
3. Định hướng đổi mới đầu tư công hướng tới mục tiêu bền vững
tài khóa, đảm bảo an toàn nợ công ở Việt Nam
Trong thập niên tới, bối cảnh thế giới dự báo sẽ tiếp tục có nhiều diễn
biến phức tạp và khó lường. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-
2015 đã đặt ra yêu cầu thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng, trong đó tập trung vào việc thực hiện tái cơ cấu ba lĩnh vực
quan trọng sau: i) tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; ii) tái cơ cấu
lại thị trường tài chính và iii) tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đặt ra trong Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội nói trên, đảm bảo sự bền vững tài khóa và an toàn
về nợ công, các vấn đề đặt ra là:
3.1. Thực hiện có hiệu quả việc tái cấu trúc đầu tư công
- Phát huy vai trò định hướng của đầu tư công trong triển kinh tế - xã
hội, thu hút các nguồn lực khác. Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo
hướng giảm dần tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội, nhất là đầu tư
từ nguồn vốn NSNN. Ưu tiên sử dụng vốn NSNN tập trung đầu tư các dự án
lớn, quan trọng quốc gia, đặc biệt là hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị quy mô
lớn, dự án có tính chiến lược quốc gia và vùng kinh tế… Nguồn vốn vay nước
ngoài của DNNN có bảo lãnh của Chính phủ cần tập trung cho các dự án
trọng điểm trong sản xuất kinh doanh có tính hiệu quả và tính khả thi cao.

- Thực hiện rà soát, đánh giá thực trạng và kết quả cụ thể của công tác
thực hiện quy hoạch một số ngành then chốt, các vùng kinh tế để có quy
hoạch tổng thể, đồng bộ về ngành, lĩnh vực và vùng miền. Trên cơ sở đó, đưa
ra một số danh mục dự án đầu tư quan trọng trên phạm vi cả nước để làm cơ
sở cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư trung và dài hạn và đảm bảo việc thực
hiện trên thực tế được gắn với kế hoạch này. Đồng thời phải tăng cường kỷ
cương trong việc thực hiện quy hoạch, dự án.
- Phải hình thành cho được các tiêu chí xác định các ưu tiên ngân sách
cũng như xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả chi NSNN cho các dự
án đầu tư. Trên cơ sở đó thực hiện phân loại các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu
tiên gắn với các định hướng phát triển trong từng lĩnh vực, từng vùng, miền.
Xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch chi tiêu trung hạn, đảm
bảo việc phân bổ nguồn lực hàng năm định hướng vào các mục tiêu kinh tế -

10
xã hội trong trung và dài hạn, tăng cường tính tiên đoán, chủ động, tính hệ
thống trong phân bổ nguồn lực.
- Sửa đổi các quy chế về phân cấp đầu tư, quy định rõ về quyền quyết
định đầu tư của từng cấp gắn với quyền phân bổ nguồn lực và cân đối vốn.
Thực hiện đảm bảo nguyên tắc chỉ quyết định đầu tư khi dự án có đủ thủ tục
theo quy định, xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối nguồn vốn ở từng
cấp ngân sách. Nghiên cứu hình thành cơ chế mở cho tất cả các địa phương
trong thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp với quy hoạch, năng lực
cũng như đặc điểm của từng địa phương cùng với việc hoàn thiện các các cơ
chế giám sát, đảm bảo sự phù hợp trong định hướng phát triển của địa phương
với định hướng phát triển của từng vùng, miền.
3.2. Thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước
- Thực hiện tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, định vị lại
vai trò của khu vực này trong nền kinh tế, xác định rõ vai trò chủ sở hữu của
nhà nước, lành mạnh hóa năng lực tài chính của các DNNN qua đó góp phần

lành mạnh hóa năng lực tài chính của nhà nước. Thực hiện đẩy nhanh quá
trình cổ phần hóa, giảm bớt số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ
cổ phần chi phối trên cơ sở thực hiện rà soát lại ngành, nghề kinh doanh. Kiên
quyết khắc phục tình trạng các DNNN đầu tư ra các ngành mà không phải
ngành nghề chính.
3.3. Đảm bảo kỷ luật tài khóa, an ninh, an toàn tài chính
- Từng bước giảm dần mức bội chi NSNN theo lộ trình xác định trước
với các bước đi thích hợp, đảm bảo cân đối giữa mục tiêu đảm bảo tổng vốn
đầu tư toàn xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững nhưng vẫn lành
mạnh hóa được tình hình tài khóa. Trong điều hành ngân sách hàng năm cần
ưu tiên sử dụng số tăng thu so với dự toán để giảm bội chi ngân sách hoặc
dành để trả nợ trước hạn.
- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ công, duy trì các chỉ số nợ
công trong giới hạn an toàn. Cụ thể là:
+ Xây dựng và thực hiện Chiến lược quản lý nợ, trong đó nêu rõ mục
đích, công cụ và phạm vi hoạt động cũng như các quan điểm dài hạn trong
quản lý nợ. Đồng thời, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện Chiến lược,
chấp hành các chính sách quản lý nợ, bao gồm cả việc xây dựng các hạn mức
về nợ và giám sát việc tuân thủ các hạn mức đã đặt ra

11
+ Chú trọng công tác quản lý rủi ro đối với danh mục nợ, bao gồm rủi
ro về đồng tiền vay, lãi suất, tỷ giá, khả năng thanh toán và hoạt động. Tiến
hành phân tích bền vững nợ để hình thành các đối sách phù hợp.
+ Đa dạng hóa các công cụ quản lý nợ trong nước thông qua việc tiếp
tục phát triển thị trường thứ cấp nhằm, tăng cường khả năng tự quản lý rủi ro
thông qua các nghiệp vụ phái sinh.
+ Xác định phạm vi quản lý và cách thức ứng xử rõ ràng đối với các
khoản nghĩa vụ nợ công dự phòng cũng như giám sát được các khoản nợ tự
vay tự trả của khu vực tư nhân và các khoản nợ ngắn hạn

12
.
+ Đổi mới tổ chức quản lý nợ theo hướng hiện đại và từng bước củng
cố và phát huy vai trò cơ quan quản lý nợ để thống nhất quản lý nợ trong
nước và ngoài nước.
- Tăng cường sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, đảm bảo
việc thực hiện các chính sách này được gắn với các mục tiêu và định hướng
thống nhất, cụ thể là:
+ Nâng cao sự phối hợp và trao đổi thông tin giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa ngay từ khâu xây dựng và hoạch định chính sách. Thiết
lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành trong điều hành chính sách
kinh tế vĩ mô, trong việc giám sát và duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế;
ứng phó hiệu quả với những tác động bất lợi đối với nền kinh tế
+ Củng cố năng lực tổ chức thực hiện, đánh giá tác động và dự báo
chính sách tài chính. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin chính sách.
Hình thành hệ thống thu nhận thông tin phản hồi về các chính sách, cơ chế tài
chính từ người dân và doanh nghiệp để khắc phục kịp thời những bất cập và
hạn chế của chính sách và quá trình thực hiện chính sách
+ Đổi mới phương thức và cách thức giám sát tài chính vĩ mô thông
qua việc thiết lập hệ thống cảnh báo sớm về tài chính - tiền tệ để kịp thời cảnh
báo những nguy cơ làm mất an ninh trong hệ thống tài chính trên cả ba cấp
độ: quốc gia, ngành và doanh nghiệp.
+ Hoàn thiện cơ sở thông tin dữ liệu và hệ thống hoá các chỉ tiêu thu
thập thông tin, phân tích và xử lý các dữ liệu kinh tế - tài chính vĩ mô để phục

12
Mặc dù nợ của các doanh nghiệp vay theo phương thức tự vay tự trả không thuộc phạm vi của Luật
Quản lý nợ công, nhưng khi có rủi ro, nhất là đối với các khoản nợ của tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, với
tư cách là đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp thì nhà nước vẫn chịu những tác động
nhất định khi các khoản vay nợ của các doanh nghiệp này không được giám sát hiệu quả, ví dụ mất vốn nhà

nước.

12
vụ cho công tác hoạch định chính sách tài chính và tiền tệ. Xây dựng và ứng
dụng các mô hình phân tích và dự báo kinh tế - tài chính vĩ mô.
3.4. Thu hút có hiệu quả, đa dạng hoá các nguồn lực trong xã hội để
đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội để từng bước giảm dần sự phụ
thuộc vào đầu tư công
- Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế hợp tác Nhà nước và tư nhân đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua các dự án PPP.
- Tạo hành lang pháp lý đẩy mạnh mô hình quỹ đầu tư phát triển địa
phương để góp phần huy động và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội địa phương.
- Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số
lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để một mặt tăng thêm nguồn
vốn đầu tư, mặt khác cũng tăng tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch
vụ, tạo cơ hội cho người dân được tiếp cận với một chất lượng của dịch vụ
ngày càng cao.
3.5. Cải thiện tính minh bạch, công khai và nâng cao trách nhiệm
giải trình trong việc sử dụng nguồn lực công
- Mở rộng hình thức và nội dung công khai; tăng cường trách nhiệm
giải trình, khắc phục được tình trạng công khai còn mang tính hình thức như
hiện nay. Tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được với các thông tin về
nguyên tắc, mục tiêu và định hướng của chính sách tài khoá, về số liệu liên
quan đến NSNN để mở rộng và nâng cao sự phản biện chính sách của cộng
đồng và xã hội.
- Đề cao trách nhiệm giám sát của Quốc hội đối với các công trình
trọng điểm quốc gia, của hội đồng nhân dân đối với các dự án đầu tư trên địa
bàn; tăng cường giám sát cộng đồng, hoàn thiện cơ chế để người dân kiểm tra
công việc có liên quan đến ngân sách, đất đai, tài sản của nhà nước.

- Hoàn thiện hệ thống thông tin, báo cáo; xây dựng các chỉ số tài khóa
phù hợp với thông lệ quốc tế, ví dụ như phương thức tính bội chi NSNN theo
chuẩn của GFS.


13

Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2011). “Số liệu công khai ngân sách”. Truy cập từ:

2. Bộ Tài chính (2012). “Ngân sách Việt Nam năm 2012”. Truy cập từ:
/>7070&p_folder_id=2201649&p_recurrent_news_id=52810383.
3. Dự án 50739-CFBA (2011). Báo cáo nghiên cứu “Đổi mới tài chính công
ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng đến năm 2020”.
4. IMF (2012). “World Economic Outlook Update”. Truy cập từ:
www.imf.org.
5. IMF (2011). “World Economic Outlook Database”, September 2011.Truy
cập từ: www.imf.org.
6. Tổng cục Thống kê (2012). “Báo cáo kinh tế - xã hội hàng tháng”. Truy
cập từ: .
7. Trương Bá Tuấn (2012). “Tài khoá 2011: Ưu tiên tăng cường bền vững dài
hạn”. Trong “Tài chính Việt Nam 2011. Viện CL &CSTC (sắp xuất bản).
8. Vũ Nhữ Thăng (2011). “Tái cấu trúc đầu tư công”. Tạp chí Tài chính số 6
(560).

×