Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Hoàn thiện công tác dịch vụ khách hàng tại công ty bảo việt nhân thọ Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 117 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH








LƢU THỊ THU HẢI






HOÀN THIỆN CÔNG TÁC DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG
TẠI CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ PHÚ THỌ







LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ











THÁI NGUYÊN, NĂM 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH








LƢU THỊ THU HẢI







HOÀN THIỆN CÔNG TÁC DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG
TẠI CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ PHÚ THỌ




CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 60.34.04.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Thái Quốc






THÁI NGUYÊN, NĂM 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả. Các
số liệu và kết quả nghiên cứu của luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích dẫn trong quá trình
nghiên cứu đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn


Lƣu Thị Thu Hải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii

LỜI CẢM ƠN

Luận văn được hoàn thành là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu
lý luận và tích luỹ kinh nghiệm thực tế của tác giả. Những kiến thức mà thầy
cô giáo truyền thụ đã giúp tác giả thực hiện luận văn.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc đối với
Phó giáo sư, tiến sỹ Phạm Thái Quốc người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Công ty Bảo Việt Nhân Thọ
Phú Thọ, Ban giám hiệu, Khoa sau đại học trường đại học Kinh tế và Quản trị
kinh doanh đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ, nhân viên, đại lý của
công ty Bảo Việt Nhân Thọ Phú Thọ đặc biệt là các anh chị đại lý của các
phòng ban kinh doanh Việt Trì, Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông, Thị xã Phú
Thọ đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Thái Nguyên, năm 2013
Tác giả luận văn




Lƣu Thị Thu Hải


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO HIỂM
NHÂN THỌ VÀ DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG TRONG KINH DOANH
CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ 4
1.1. Sự ra đời và phát triển của BHNT 6
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của BHNT trên thế giới 6
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của BHNT ở Việt Nam 7
1.1.3. Vai trò của BHNT 10
1.2. Khái niệm và đặc điểm của BHNT 12
1.2.1. Khái niệm 12

1.2.2. Đặc điểm cơ bản của Bảo hiểm nhân thọ 13
1.3. Các loại hình BHNT 17
1.3.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong 18
1.3.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ) 21
1.3.3. BHNT hỗn hợp 22
1.3.4. Các điều khoản bổ sung 22
1.4. Công tác dịch vụ khách hàng trong kinh doanh bảo hiểm 23
1.4.1. Khái niệm dịch vụ khách hàng 23
1.4.2. Vai trò của công tác dịch vụ khách hàng trong kinh doanh bảo hiểm 24
1.4.3. Những yếu tố chi phối dịch vụ khách hàng 26
1.4.4. Các chỉ tiêu đánh giá dịch vụ khách hàng trong kinh doanh của
Công ty bảo hiểm nhân thọ 28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
1.4.5. Các hình thức của công tác DVKH 30
Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
2.1. Câu hỏi nghiên cứu 34
2.2. Phương pháp thu thập thông tin 34
2.2.1. Nguồn số liệu 34
2.2.2. Mô tả thiết kế nghiên cứu 35
2.2.3. Phương pháp tổng hợp thông tin và phân tích 41
2.2.4. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích 42
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG
TẠI CÔNG TY BVNT PHÚ THỌ 45
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty BVNT Phú Thọ 45
3.1.1. Sự hình thành và phát triển 45
3.1.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty BVNT Phú Thọ 47
3.1.3. Các sản phẩm bảo hiểm đang triển khai tại BVNT Phú Thọ 49

3.2. Phân tích, đánh giá kết quả hoạt động của công ty BVNT Phú Thọ 50
3.2.1. Phân tích, đánh giá hoạt động khai thác và phát hành hợp đồng 50
3.2.2. Phân tích đánh giá công tác quản lý hợp đồng và giải quyết
quyền lợi bảo hiểm 53
3.3. Tình hình triển khai công tác DVKH tại công ty 56
3.3.1. Dịch vụ chăm sóc khách hàng 56
3.3.2. Dịch vụ hỗ trợ khách hàng 60
3.3.3. Công tác giải quyết quyền lợi bảo hiểm 68
3.3.4. Dịch vụ khách hàng dành cho đại lý 72
Chƣơng 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC DỊCH
VỤ KHÁCH HÀNG TẠI CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ PHÚ THỌ 75
4.1. Xu hướng phát triển hoạt động kinh doanh bảo việt nhân thọ và của
bảo việt nhân thọ Phú Thọ trong thời gian tới 75
4.1.1. Chiến lược và định hướng của BVNT 76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
4.1.2. Chiến lược và định hướng của BVNT Phú Thọ 78
4.1.3. Khả năng cạnh tranh và giải pháp thực hiện chiến lược đối với
BVNT Phú Thọ 78
4.2. Một số giải pháp hoàn thiện công tác dịch vụ khách hàng tại công ty
BVNT Phú Thọ trong thời gian tới 80
4.2.1. Nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, đạo tạo và quản lý cán
bộ, tư vấn viên, thu ngân viên 80
4.2.2. Nâng cao chất lượng khai thác hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 83
4.2.3. Thực hiện tốt công tác giám định và trả tiền bảo hiểm. 84
4.2.4. Nâng cao chất lượng và bổ sung thêm các hình thức phục vụ
khách hàng 85
4.2.5. Bổ sung và hoàn thiện công tác DVKH dành cho đại lý 91

KẾT LUẬN 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC 97


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BHNT : Bảo hiểm nhân thọ
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT : Bảo hiểm y tế
NĐBH : Người được bảo hiểm
STBH : Số tiền bảo hiểm
NTGBH : Người tham gia bảo hiểm
HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm
HĐBHNT : Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
DVKH : Dịch vụ khách hàng
SPBH : Sản phẩm bảo hiểm
DNBH : Doanh nghiệp bảo hiểm
KDBH : Kinh doanh bảo hiểm
BVNT : Bảo Việt Nhân Thọ
HĐ : Hợp đồng
KTM : Khai thác mới



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.2: Kết quả hoạt động khai thác mới của BVNT Phú Thọ giai
doạn (2008-2012) 51
Bảng 3.3 Tình hình chi quyền lợi bảo hiểm theo từng nghiệp vụ 53
Bảng 3.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của BVNT Phú Thọ giai
đoạn (2008 - 2012) 55
Bảng 3.5: Chi phí tặng lịch năm mới của BVNT Phú Thọ (2008-2012) 57
Bảng 3.6: Chi phí tổ chức hội nghị khách hàng của BVNT Phú Thọ
(2008-2012) 61
Bảng 3.7: Tỷ lệ giảm phí theo số tiền bảo hiểm gốc 63
Bảng 3.8: Bảng kết quả điều tra định kỳ đóng phí 64
Bảng 3.9: Tình hình sử dụng các dịch vụ hỗ trợ khách hàng 67
Bảng 3.10 : Tình hình giải quyết quyền lợi bảo hiểm giai đoạn 2008-2012 68
Bảng 3.11: Tình hình đáo hạn hợp đồng tại BVNT Phú Thọ giai đoạn
2008-2012 71






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU


1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh hàng ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con
người vẫn luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó
do nhiều nguyên nhân, ví dụ như rủi ro do môi trường thiên nhiên như bão lụt,
động đất, rét, hạn, sương muối, dịch bệnh; rủi ro do sự tiến bộ phát triển khoa
học và kỹ thuật như tai nạn ôtô, hàng không, tai nạn lao động; rủi ro do môi
trường xã hội như hoả hoạn, bạo lực… Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro
xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất
hoặc giảm thu nhập, sức khoẻ bị giảm sút, làm ngưng trệ sản xuất và kinh
doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân…làm ảnh hưởng đến đời sống
kinh tế - xã hội nói chung. Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều
biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro
gây ra. Trong số đó, Bảo hiểm được coi là một biện pháp tích cực nhất trong
việc hạn chế rủi ro, giảm thiểu tổn thất. Bên cạnh các loại hình bảo hiểm như
Bảo hiểm xã hội (BHXH) và Bảo hiểm y tế (BHYT), ngày càng có nhiều
người dân trên toàn thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng tham gia vào các
loại hình bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại, trong đó đặc biệt là
bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Trên thế giới, loại hình BHNT đã phát triển hàng thế kỷ và cho đến nay
đã có hàng trăm sản phẩm BHNT ra đời, góp phần phục vụ nhu cầu ngày càng
đa dạng của khách hàng. Ở Việt Nam, Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đã cho
ra mắt loại hình bảo hiểm nhân thọ vào tháng 8/1996 và cho đến nay đã đạt
được những bước tiến lớn chiếm 32% thị phần doanh thu phí bảo hiểm, là
doanh nghiệp duy nhất có mạng lưới đại lý phủ khắp các tỉnh thành. Các sản
phẩm của Bảo Việt ngày càng hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của khách hàng và được khách hàng tín nhiệm, tin tưởng tham gia. Từ giữa




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
năm 1999, Chính Phủ cho phép mở cửa thị trường BHNT đã xuất hiện thêm
các doanh nghiệp BHNT lớn, có vốn đầu tư nước ngoài. Sự xuất hiện này đã
tạo ra sự cạnh tranh toàn diện với tốc độ cao giữa các doanh nghiệp BHNT và
góp phần thúc đẩy thị trường BHNT của Việt Nam ngày càng phát triển. Dưới
sức ép cạnh tranh, các công ty BHNT không ngừng nỗ lực nâng cao khả năng
khai thác sản phẩm BHNT để thu hút khách hàng và mở rộng thị phần. Nhìn
chung những phương thức cạnh tranh lành mạnh của các công ty đều đem lại
lợi ích cho khách hàng, sẽ khuyến khích ngày càng nhiều người tham gia bảo
hiểm. Tuy nhiên, mặc dù các doanh nghiệp BHNT trong những năm qua đã có
nhiều biện pháp nhằm đẩy mạnh khả năng khai thác sản phẩm của mình,
nhưng nhìn chung số lượng, chất lượng sản phẩm (dịch vụ) bán được vẫn chưa
cao, đặc biệt là các sản phẩm bảo hiểm Nhân thọ trọn đời, số tiền bảo hiểm còn
hạn chế, công tác giải quyết quyền lợi bảo hiểm, phục vụ khách hàng còn
nhiều bất cập. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện công tác dịch
vụ khách hàng tại Công ty Bảo Việt Nhân thọ Phú Thọ” giúp có cái nhìn
tổng quan về thực trạng kinh doanh bảo hiểm nhân thọ trên thị trường Việt
Nam và đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện công tác dịch vụ khách hàng tại
công ty Bảo Việt nhân thọ Phú Thọ trong thời gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu chung
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm hoàn thiện dịch vụ khách hàng
trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ để nâng cao thị phần, doanh thu và lợi
nhuận cho Công ty Bảo Việt nhân thọ Phú Thọ trong thời gian tới.
* Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về dịch vụ khách hàng trong kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ

- Phân tích thực trạng công tác dịch vụ khách hàng tại Công ty BVNT
Phú Thọ chỉ ra những mặt đạt được và chưa được, phân tích và đề xuất những
giải pháp giải quyết.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch
vụ khách hàng của Công ty BVNT Phú Thọ cho phù hợp với tình hình kinh
doanh hiện nay và sự phát triển của Công ty trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là dịch vụ khách hàng đối với khách
tham gia bảo hiểm nhân thọ tại Công ty BVNT Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu công tác dịch vụ khách hàng trong
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ của Công ty BVNT Phú Thọ từ năm 2008 đến
năm 2012.
4. Những đóng góp mới của luận văn
- Nghiên cứu, tìm hiểu những điều kiện riêng, đặc thù liên quan đến
dịch vụ khách hàng của BVNT tại Phú Thọ (điều kiện sống, sức khoẻ, thu
nhập )
- Nghiên cứu khía cạnh lý luận về Dịch vụ khách hàng của các công ty Bảo
hiểm nhân thọ, phân tích vấn đề trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện công tác DVKH tại công ty
Bảo việt Nhân thọ Phú Thọ trong giai đoạn 2008-2012.
- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi để hoàn thiện dịch vụ khách
hàng nhằm phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty BVNT Phú Thọ.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, luận văn được kết cấu theo 4

chương nội dung chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Bảo hiểm nhân thọ và dịch vụ
khách hàng trong kinh doanh của Công ty bảo hiểm nhân thọ.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng công tác dịch vụ khách hàng tại Công ty Bảo Việt
Nhân Thọ Phú Thọ.
Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện công tác dịch vụ khách hàng tại
Công ty Bảo Việt Nhân Thọ Phú Thọ.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
VÀ DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG TRONG KINH DOANH
CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ

Trong mọi thời kỳ phát triển của xã hội con người luôn được coi là lực
lượng sản xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội.
Song trong lao động sản xuất cũng như trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày
những tai nạn, rủi ro luôn tiềm ẩn, đe dọa sức khoẻ, sinh mạng ảnh hưởng tới
cuộc sống của con người mà không ai có thể biết trước, đoán trước hoặc tránh
khỏi được hậu quả của nó tác động đến nhiều mặt của đời sống, xã hội. Vì
vậy, vấn đề mà bất kỳ xã hội nào cũng quan tâm là làm thế nào để khắc phục
hậu quả của rủi ro nhằm đảm bảo cuộc sống của con người. Thực tế, đã có
nhiều biện pháp áp dụng như phòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm,… nhưng bảo
hiểm luôn được đánh giá là biện pháp hữu hiệu nhất.
Việc mất hoặc giảm thu nhập của những người trụ cột trong gia đình

ảnh hưởng đến cuộc sống của con cái và người thân. Có lẽ không một người
trụ cột trong gia đình nào lại muốn những người đang sống nhờ vào thu
nhập của họ phải chịu những khó khăn về tài chính hoặc bị khánh kiệt khi
họ gặp phải những rủi ro (tử vong, ốm đau…) nhất là khi con cái chưa đến
tuổi trưởng thành, nợ nần còn chồng chất. Vì vậy, đối với mỗi cá nhân và
gia đình, việc tiết kiệm chi tiêu hiện tại để chuẩn bị cho tương lai, cho việc
giáo dục con cái, chuẩn bị hành trang vào đời cho con cái là biện pháp hết sức
thiết thực và có ý nghĩa.
Bên cạnh đó, việc chăm lo cho tuổi già hoặc khi về hưu đang là vấn đề
được xã hội quan tâm và coi trọng. Một số người khi hết tuổi lao động có thu
nhập từ lương hưu, nhưng thực tế khó có thể đáp ứng các nhu cầu chi tiêu
trong cuộc sống. Ngoài ra, phần lớn những người già không có lương hưu phải
sống nhờ vào con cái hay vẫn phải lao động vất vả để kiếm sống đang là vấn



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
đề xã hội bức xúc. Chẳng ai muốn sống một tuổi già đau yếu bệnh tật, phụ
thuộc hay là gánh nặng cho con cái. Đặc biệt tuổi thọ càng cao thì nguồn dự trữ
tài chính lại càng dần dần bị cạn kiệt. Vấn đề là phải tạo ra một công cụ để mọi
người có thể đều đặn dành ra từ thu nhập và tiết kiệm chi tiêu hiện tại của mình
những khoản tiền nhỏ mà vẫn đủ đảm bảo cuộc sống khi về già.
Bảo hiểm nhân thọ nằm trong bảo hiểm con người và là loại hình bảo
hiểm thương mại, là hình thức bổ sung cho Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế,
nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những
rủi ro, tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính mạng, sự giảm sút hoặc mất thu
nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia bảo hiểm. So với
Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm nhân thọ có đối tượng tham gia

rộng hơn, quỹ bảo hiểm được hình thành chủ yếu từ phí bảo hiểm do những
người tham gia đóng góp, số tiền chi trả căn cứ vào sự thoả thuận và cam kết
trong hợp đồng giữa bên bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm. Hình thức bảo
hiểm là tự nguyện. Còn đối với bảo hiểm xã hội, phí bảo hiểm được xác định
căn cứ vào tiền lương của người lao động do Nhà nước quy định. Ngoài ra sự
khác nhau còn thể hiện ở cơ sở pháp lý của sự cam kết, cơ quan tổ chức thực
hiện,…vv.
Tuy nhiên, sự khác nhau giữa hai hệ thống bảo hiểm này không tạo ra sự
đối lập, mâu thuẫn mà trái lại chúng bổ sung cho nhau. Các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ có thể thay thế Bảo hiểm xã hội trong những trường hợp, những khu
vực của nền kinh tế, những nơi mà Bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện hoặc
có nhưng không đủ bù đắp thu nhập của người lao động bị giảm sút. Mặc dù
người lao động làm công ăn lương được hưởng trợ cấp Bảo hiểm xã hội, nhưng
đôi khi có những rủi ro, những nhu cầu nằm ngoài phạm vi Bảo hiểm xã hội
hoặc các khoản trợ cấp của Bảo hiểm xã hội không đáp ứng được những nhu
cầu khắc phục hậu quả của rủi ro. Phần chênh lệch và thiếu hụt về mặt tài
chính sẽ được Bảo hiểm nhân thọ bù đắp.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
1.1. Sự ra đời và phát triển của BHNT
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của BHNT trên thế giới
BHNT là loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất trên thế giới. BHNT xuất
hiện đầu tiên ở đế quốc La Mã cổ đại. Tại đây người ta lập nên các hội mai
táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên, ngoài ra hội cũng hỗ trợ tài
chính cho thân nhân người chết.
Tuy nhiên HĐBH nhân thọ đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1583 do

một công nhân Luân Đôn là ông William Gybbon tham gia. Phí bảo hiểm ông
đóng lúc đó là 32 bảng Anh. Khi ông chết năm đó người thừa kế của ông được
hưởng 400 bảng Anh. Sau cách mạng ánh sáng năm 1688 ở Châu Âu chỉ có
Vương Quốc Anh công nhận tính pháp lí của BHNT. Nhờ vậy mà trong suốt 3
thập kỷ sau Cách Mạng ánh sáng, ở Anh dịch vụ này đã phát triển rất mạnh
mẽ. Mặc dù vậy công ty BHNT ra đời đầu tiên không phải trên lãnh thổ Anh
quốc mà là ở Mỹ. Ngành công nghiệp bảo hiểm Hoa Kỳ được xây dựng trên
mô hình bảo hiểm Anh. Vào năm 1735, công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ
đã ra đời ở Charleston, thủ phủ bang South Carolina. Vào năm 1759 Hội nghị
giáo hội Trưởng lão Philadelphia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn bảo hiểm
nhân thọ đầu tiên của Hoa Kỳ. Tập đoàn này hoạt động vì lợi ích của các mục
sư và tín đồ. Năm 1762 công ty BHNT Equitable ở nước Anh được thành lập
và bán BHNT cho mọi người dân trong xã hội.
Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 1868
công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty
khác là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985
doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ đôla, năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ
và năm 1993 con số này là 1647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm. Hiện
nay có 5 thị trường BHNT lớn nhất thế giới là Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh
và Pháp (Theo Nguyễn Viết Vượng (2006), Giáo trình kinh tế bảo hiểm).



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của BHNT ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ngành bảo hiểm nói chung, BHNT nói riêng ra đời tương đối
muộn. Sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm gắn liền với những sự kiện

lịch sử của đất nước.
Ngày 17/12/1964 bằng quyết định số 179/CP của Hội đồng chính phủ,
theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, công ty bảo hiểm Việt Nam tên giao
dịch là Bảo Việt được thành lập và chính thức đi vào khai trương hoạt động
ngày 15/1/1965 với vốn điều lệ là 10 triệu VND (tương đương 2 triệu USD
thời điểm đó) dưới sự quản lí trực tiếp của Bộ tài chính. Trong thời gian này
bảo Việt chỉ mới triển khai mảng bảo hiểm phi nhân thọ, mà chưa triển khai
BHNT. Tuy nhiên, Bảo Việt cũng đã chú trọng đến việc mở rộng và đa dạng
hoá các nghiệp vụ bảo hiểm đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm con người làm tiền
đề cho việc triển khai BHNT về sau.
Ở miền Nam, vào những năm 1970 đã có một công ty BHNT ra đời có tên
là công ty BHNT Hưng Việt. Công ty bảo hiểm này triển khai được một số sản
phẩm bảo hiểm như BHNT trọn đời, bảo hiểm tử kì thời hạn 5 năm, 10 năm,
20 năm. Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hoà
miền Nam Việt Nam đã tuyên bố đình chỉ các hoạt động của các công ty bảo
hiểm miền Nam Việt Nam, trong đó có công ty BHNT Hưng Việt và tuyên bố
thanh lí giải thể các tổ chức bảo hiểm tư nhân.
Năm 1976, Bộ trưởng bộ kinh tế tài chính chính phủ lâm thời cộng hoà
miền Nam Việt Nam ra quyết định số 21/QĐ-BKT thành lập công ty bảo
hiểm, tái bảo hiểm Việt Nam (viết tắt là BAVINA), thuộc Tổng nha tài chính
Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền nam Việt Nam.
Năm 1977, Bộ trưởng Bộ tài chính ra quyết định số 61/TCQĐ/TCCB về
việc sát nhập BAVINA thành chi nhánh của Bảo Việt tại TPHCM. Như vậy kể
từ đây, Bảo Việt chính thức có mạng lưới hoạt động tại các tỉnh miền Nam.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8

Chính sách mở cửa vào năm 1987 đã tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm
Việt Nam được học hỏi và tiếp cận với những kĩ thuật bảo hiểm mới trên thế
giới. Từ kinh nghiệm các nước, Bảo Việt lúc đó vẫn là công ty bảo hiểm duy
nhất ở Việt Nam đã thấy được tiềm năng to lớn của BHNT ở nước ta. Vì vậy,
Bảo Việt bắt đầu nghiên cứu triển khai BHNT ở Việt Nam với đề án: “BHNT
và điều kiện triển khai ở Việt Nam” nhưng lúc đó chưa có đủ điều kiện vì thu
nhập dân cư còn thấp, kinh tế còn kém phát triển, tỉ lệ lạm phát còn cao, thị
trường tài chính chưa phát triển, chưa có môi trường đầu tư và các công ty bảo
hiểm chưa được phép hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, chưa có văn bản pháp
luật điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và khách hàng, đội ngũ cán
bộ bảo hiểm lúc đó còn chưa được trang bị những kiến thức về nghiệp vụ
BHNT. Do đó Bảo Việt chỉ triển khai bảo hiểm sinh mạng có thời hạn 1 năm
(BHNT tử kì có thời hạn 1 năm). Đây là loại hình BHNT đơn giản nhất và có
nhiều đặc điểm tương đồng bảo hiểm con người phi nhân thọ.
Sau thời kì đổi mới kinh tế được 10 năm nền kinh tế Việt Nam đã có
những bước phát triển vượt bậc, lạm phát đã được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng
kinh tế luôn đạt mức cao từ 6-9% /năm, môi trường kinh tế - xã hội và môi
trường pháp lí có nhiều thuận lợi hơn. Đời sống người dân ngày càng được
nâng cao và ở một bộ phận quần chúng dân cư đã bắt đầu có tích luỹ. Đây là
những nhân tố thuận lợi cho BHNT ra đời và phát triển ở Việt Nam. Năm
1996, thực hiện chủ trương mở rộng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tới các
tầng lớp dân cư, Bảo Việt đã nghiên cứu và đưa ra thị trường dịch vụ BHNT
lần đầu tiên ở Việt Nam thể hiện vai trò tiên phong của Bảo Việt trên thị
trường BHNT Việt Nam. Ngày 20/3/1996, Bộ tài chính đã chính thức quyết
định cho phép Bảo Việt triển khai 2 sản phẩm BHNT hỗn hợp và bảo hiểm An
sinh giáo dục. Tháng 8/1996, Bảo Việt đã bán những sản phẩm BHNT đầu tiên
trên thị trường đánh dấu cho chặng đường phát triển đầy hứa hẹn của BHNT ở
Việt Nam.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Có thể nói, Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 là một bước ngoặt có tính
cách mạng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nghị định này đã thể hiện
chủ trương phát triển một ngành đa thành phần của Nhà nước ta. Tuy nhiên xét
về thực chất kể từ 6/1999 khi có sự ra đời của các công ty bảo hiểm 100%
vốn nước ngoài như Công ty BHNT Chinfon Manulife (nay là Manulife), công
ty BHNT Prudential, BHNT quốc tế Mỹ AIA, Bảo Minh-CMG (nay là Dai-
ichi life)… BHNT mới chấm dứt giai đoạn độc quyền của Bảo Việt nhân thọ
và bắt đầu đi vào phát triển có sự cạnh tranh.
Cho dù mới hình thành và phát triển trong một thời gian ngắn (từ năm
2000) nhưng thị trường BHNT đã và đang tỏ rõ là một thị trường rất tiềm
năng. Thị trường BHNT đã có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ về quy mô như
tăng số lượng các công ty, tăng doanh thu phí bảo hiểm, STBH và số lượng
HĐBH, bình quân phí thu hàng năm của thị trường tăng từ 30% đến 40%
/năm. Từ chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất kinh doanh BHNT thì
đến nay toàn thị trường đã có 11 công ty BHNT hoạt động, với doanh thu phí
bảo hiểm gốc cũng có sự tăng trưởng mạnh mẽ qua các năm.
Theo đánh giá của các chuyên gia thị trường BHNT Việt Nam là 1 thị
trường đầy hứa hẹn. Nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng, dân số Việt Nam
hiện nay trên 88 triệu dân, trong đó số dân ở độ tuổi dưới 30 chiếm 60%. Theo
thống kê doanh thu phí BHNT hiện nay chỉ chiếm khoảng 2.5% tổng GDP của
Việt Nam và Bộ Tài Chính hi vọng con số này sẽ ngày càng tăng lên trong
những năm tới. Ở các nước trong khu vực doanh thu phí BHNT đạt khoảng 5-
6% tổng GDP.
Những kết quả tăng trưởng đầy ấn tượng của dịch vụ BHNT cùng với thói
quen tiết kiệm của người dân Việt Nam đã góp phần tạo nên sự hấp dẫn cho
các công ty BHNT nước ngoài. Việc có mặt nhiều công ty kinh doanh bảo

hiểm lớn của thế giới là những tín hiệu tích cực báo hiệu sự phát triển mới, đặc
biệt trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới của đất nước. Có thể



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
nói thị trường BHNT Việt Nam đang từng bước hội nhập với thị trường BHNT
khu vực và thế giới.
1.1.3. Vai trò của BHNT
Cũng giống như các loại hình bảo hiểm khác BHNT ra đời nhằm khắc
phục những khó khăn về tài chính khi gặp rủi ro. Khi một người trụ cột trong
gia đình bị tai nạn dẫn đến thương tật hoặc chết, bản thân người đó hoặc những
người sống phụ thuộc sẽ rơi vào tình trạng khó khăn về mặt tài chính. Hơn lúc
nào hết họ sẽ cần đến nguồn tài chính kịp thời để bù đắp thiệt hại lấy lại sự cân
bằng ổn định tình hình tài chính. Hơn nữa vượt lên cả ý nghĩa “tiền bạc”
BHNT mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự lo âu trước rủi ro,
bất trắc cho người được bảo hiểm.
Hiện nay các nước đều quan tâm tới hệ thống an sinh xã hội. Tuy nhiên
để được nhận trợ cấp thì phải có một số tiêu chuẩn và sự trợ cấp này cũng chỉ
mang tính tạm thời trước mắt chưa đảm bảo được lâu dài về mặt tài chính.
Tham gia BHNT sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó. Vì bảo hiểm
vận hành giống như cơ chế chuyển giao rủi ro, cùng với việc đóng phí bảo
hiểm người được bảo hiểm đã chuyển giao rủi ro sang công ty bảo hiểm. Khi
không may gặp rủi ro dẫn đến tử vong thay vì bỏ tiền ra để lo các chi phí mai táng
gia đình anh ta sẽ được nhận tiền từ công ty bảo hiểm để trang trải các chi phí.
BHNT còn giúp cho những người tham gia có thể tích luỹ cho những kế
hoạch tài chính tương lai như để dành tiền cho con ăn học, cho con một số vốn
để vào đời hoặc có thể tiết kiệm tiền để mua xe, mua nhà, vui hưởng cuộc sống

an nhàn khi tuổi già.
Không chỉ có vậy BHNT còn góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh
doanh cho các doanh nghiệp, tạo dựng mối quan hệ gần gũi gắn bó giữa doanh
nghiệp và người làm công ngay cả những lúc doanh nghiệp gặp khó khăn. Khi
doanh nghiệp bỏ tiền ra mua BHNT cho các nhân viên của mình thì nhân viên
họ sẽ cảm thấy họ được quan tâm, được tôn trọng. Từ đó ý thức làm việc của



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
họ được tăng lên, có thể vì thế mà năng suất lao động của doanh nghiệp ngày
càng cao, lợi nhuận cũng ngày càng tăng. Lợi nhuận mà họ đem lại có thể lớn
hơn rất nhiều so với chi phí bỏ ra mua bảo hiểm cho nhân viên. Chính vì vậy
hiện nay có một số doanh nghiệp rất quan tâm đến việc mua BHNT cho nhân
viên của mình. Đặc biệt là những công việc mà độ rủi ro cao như khai thác
than, làm việc ở hầm mỏ…thì các doanh nghiệp thường mua bảo hiểm nhóm
cho nhân viên. Đối với một số nhân viên văn phòng có trình độ cao doanh
nghiệp mua BHNT cho nhân viên như là một cách để giữ chân họ ở lại làm
việc lâu dài cho doanh nghiệp.
Bên cạnh việc mang lại những lợi ích cho mỗi cá nhân gia đình và doanh
nghiệp thì BHNT còn mang lại nhiều lợi ích khác cho xã hội.
BHNT là một kênh huy động vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để
đầu tư cho những dự án trung dài hạn nhằm góp phần phát triển đất nước. Khi
nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng cao sẽ xuất hiện nhu cầu
tiết kiện hoặc đầu tư số tiền tạm thời nhàn rỗi. BHNT đã huy động được những
đồng tiền nhàn rỗi, nhỏ lẻ trong dân cư thành một quỹ tài chính tập trung khá
lớn. Quỹ này chủ yếu để chi trả cho người được bảo hiểm. Bên cạnh đó các
công ty BHNT còn phải lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ như: Dự phòng toán

học, dự phòng phí chưa được hưởng, dự phòng chi trả, dự phòng chia lãi….khi
nhàn rỗi đây sẽ là nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế.
Thông qua cơ chế chuyển giao rủi ro BHNT đã góp phần giảm gánh nặng
ngân sách quốc gia trong việc chăm lo người già và những người phụ thuộc khi
người trụ cột trong gia đình qua đời. Mặt khác khi kinh doanh bảo hiểm thì các
doanh nghiệp BHNT phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước như nộp
thuế…Vì vậy ngân sách nhà nước cũng được tăng lên một phần và có thể sử
dụng vào nhiều mục đích hữu ích khác.
Xét trên bình diện xã hội, BHNT đã góp phần tạo nên công ăn việc làm
cho nhiều người làm giảm tỉ lệ thất nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp BHNT



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
đều cần mạng lưới đại lý khai thác rộng, nhân viên rất lớn. Vì vậy dịch vụ này
phát triển đã tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người lao động. Ngoài ra thông
qua việc đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau như xây dựng cơ sở hạ tầng,
các lĩnh vực sản xuất thương mại, ngân hàng- tài chính….BHNT còn gián tiếp
tạo ra công ăn việc làm cho các ngành nghề khác.
Ở nước ta BHNT phát triển chỉ trong một thời gian ngắn số việc làm mà
lĩnh vực này tạo ra lên tới trên 74 494 người, trong đó trên 70 568 đại lí chuyên
nghiệp trong đó có hàng nghìn đại lý giỏi thu nhập cao trên 10 triệu đồng/
tháng. Đây là đóng góp hữu hiệu của ngành BHNT trong bối cảnh số lượng
người chưa có việc làm ở nước ta đang có xu hướng tăng lên. Với sự phát triển
đó nghề tư vấn bảo hiểm có tên trong danh mục nghề nghiệp ở nước ta.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của BHNT
1.2.1. Khái niệm
Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là sự cam kết giữa Người bảo hiểm và

Người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham
gia bảo hiểm (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định
khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm chết hoặc
sống đến một thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm
đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm cho các rủi ro
có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Theo luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam (2002) thì Bảo hiểm nhân thọ
là hình thức bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết.
Định nghĩa bảo hiểm trên phương diện kỹ thuật “ Bảo hiểm nhân thọ là
nghiệp vụ bao hàm những cam kết, mà sự thi hành những cam kết này phụ thuộc
vào tuổi thọ của con người” (Hồ Xuân Hương, Võ Thị Pha (1999, tr.167).
Các sự kiện được chi trả trong BHNT bao gồm:
* Hết hạn hợp đồng: khi hết thời hạn bảo hiểm người bảo hiểm sẽ trả
cho người tham gia một số tiền nhất định đã cam kết và lãi chia thêm (nếu có)



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
* Thương tật
* Tử vong
1.2.2. Đặc điểm cơ bản của Bảo hiểm nhân thọ
- Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ tài chính:
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa Bảo hiểm nhân
thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ. Thật vậy, mỗi người mua BHNT sẽ định kỳ nộp
một khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm) cho công ty Bảo hiểm, ngược lại
công ty Bảo hiểm có trách nhiệm trả một số tiền lớn (gọi là số tiền bảo hiểm)
cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm đã thoả thuận từ trước khi có các sự
kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm (STBH) được trả khi người được bảo

hiểm (NĐBH) đạt đến một độ tuổi nhất định và được ấn định trong hợp đồng.
Hoặc số tiền này được trả cho thân nhân và gia đình NĐBH khi NĐBH không
may bị chết sớm ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua
việc đóng phí bảo hiểm. Số tiền này giúp những người còn sống trang trải
những khoản chi phí cần thiết như thuốc men, mai táng, chi phí giáo dục con
cái,…vv. Chính vì vậy BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ
tài chính cho NĐBH. Tính chất tiết kiệm thể hiện ngay ở từng cá nhân, từng
gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Nội dung tiết kiệm
khi mua BHNT khác với các hình thức tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm
đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm (NTGBH) hay người thân của họ
một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ. Có
nghĩa là, khi người được bảo hiểm (NĐBH) không may gặp rủi ro trong thời
hạn bảo hiểm đã được ấn định, những người thân của họ sẽ nhận được những
khoản trợ cấp hay STBH từ Công ty bảo hiểm. Điều đó thể hiện rõ tính chất
bảo vệ tài chính cho NĐBH trước những rủi ro bất ngờ trong BHNT.
- Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau cho
người tham gia bảo hiểm:
Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một
mục đích là góp phần khắc phục hậu quả rủi ro từ đó góp phần ổn định tài



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
chính cho người tham gia, thì BHNT ngoài mục đích đó còn đáp ứng nhiều
mục đích khác. Mỗi một mục đích được thể hiện khá rõ trong từng loại hợp
đồng. Chẳng hạn, hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) hưu trí sẽ đáp ứng nhu cầu
cung cấp một khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng hoặc quý từ đó góp phần ổn
định cuộc sống cho NĐBH khi về già. HĐBH tử vong sẽ giúp NĐBH để lại

cho gia đình một STBH khi họ chết để trang trải chi phí ma chay, nợ nần,
phụng dưỡng bố mẹ già, chi phí cho con cái học hành,…vv. HĐBH nhân thọ
đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn hoặc BHNT tín dụng
thường được bán cho các đối tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình
hoặc dùng cho các mục đích cá nhân khác. Chính vì vậy loại hình bảo hiểm
này có thị trường ngày càng rộng và được rất nhiều người quan tâm.
- Thời hạn bảo hiểm nhân thọ thường rất dài, quan hệ giữa các bên trong
mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ lại rất đa dạng và phức tạp:
Thời hạn trong BHNT thường kéo dài từ 9 năm trở lên. Mỗi sản phẩm
BHNT cũng có nhiều loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có
các hợp đồng 9 năm, 10 năm, 12 năm. Mỗi hợp đồng lại có sự khác nhau về
STBH, phương thức đóng phí, độ tuổi của NĐBH, NTGBH. Mối quan hệ giữa
các bên trong hợp đồng cũng khá phức tạp. Khác với bảo hiểm phi nhân thọ,
bảo hiểm nhân thọ có thể có 4 người liên quan: Người bảo hiểm, người được
bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Người bảo hiểm: Chính là các công ty BHNT. Sau khi đã cam kết nhận
bảo hiểm, trách nhiệm nghĩa vụ chủ yếu của công ty là chi trả STBH khi có các
sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm không được thay đổi các điều khoản trong hợp đồng và
cũng không được khiếu nại đòi phí bảo hiểm khi người tham gia chưa đóng phí
bảo hiểm.
Người được bảo hiểm: Là người mà sinh mạng và cuộc sống của họ được
bảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng.Người được bảo hiểm có thể là



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
người đã trưởng thành, có đủ năng lực pháp lí để tự kí hợp đồng cho chính

mình và cũng có thể là những người chưa đủ tuổi thành niên phải giao tên của
mình cho người khác đứng ra ký kết HĐBH.
Người tham gia bảo hiểm: là người đứng ra yêu cầu bảo hiểm, thoả thuận
và kí kết HĐBH. Người tham gia bảo hiểm phải đảm bảo quy định về năng lực
pháp lí. Trong các HĐBH cá nhân người tham gia bảo hiểm và người được bảo
hiểm là 2 người khác nhau chỉ khi người được bảo hiểm chưa đến tuổi thành
niên. Bố mẹ, ông bà hay người đỡ đầu đứng ra viết giấy yêu cầu bảo hiểm, kí
kết HĐBH và nộp phí bảo hiểm. Hoặc trong các HĐBH theo nhóm người được
bảo hiểm và người tham gia cũng là 2 người khác nhau. Người tham gia bảo
hiểm có quyền yêu cầu huỷ HĐBH.
Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: là người được nhận STBH hoặc
các khoản trợ cấp do công ty bảo hiểm thanh toán như đã nêu rõ trong HĐBH.
Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm chỉ định.
Nếu việc chỉ định không rõ ràng, STBH được giải quyết theo luật thừa kế.
Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm thường là người được bảo hiểm, chỉ là
người khác khi người được bảo hiểm bị chết. Xác định rõ người được hưởng
quyền lợi bảo hiểm là vấn đề hết sức quan trọng tránh được những tranh chấp
khiếu nại…Trong nhiều trường hợp cần chỉ định người được hưởng quyền lợi
bảo hiểm thứ nhất và người tiếp theo sau để đề phòng trường hợp khi người
được hưởng quyền lợi bảo hiểm đầu tiên bị chết trước người được bảo hiểm.
Cũng vì có nhiều mối quan hệ khác nhau như vậy nên HĐBHNT phức tạp
hơn rất nhiều so với HĐBH phi nhân thọ.
- Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy
quá trình định phí rất phức tạp:
Theo tác giả Jean- Claude Harrari trong tác phẩm Insurance and
Marketing thì sản phẩm bảo hiểm nhân thọ không gì hơn chính là kết quả của
một tiến trình đầy đủ để đưa sản phẩm đến công chúng. Trong tiến trình này,




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
người bảo hiểm phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo nên sản phẩm như: chi phí
khai thác, chi phí quản lý hợp đồng…vv nhưng những chi phí đó mới chỉ là
một phần để cấu tạo nên giá cả sản phẩm BHNT, một phần chủ yếu khác lại
phụ thuộc vào:
 Độ tuổi của người được bảo hiểm;
 Tuổi thọ bình quân của con người;
 Số tiền bảo hiểm;
 Thời hạn tham gia;
 Phương thức thanh toán;
 Lãi suất đầu tư;
 Tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của đồng tiền…
Khi định giá phí BHNT một số yếu tố nêu trên phải giả định như tỷ lệ
chết, tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát…vv khiến quá trình
định phí rất phức tạp đòi hỏi phải nắm vững đặc trưng của mỗi loại sản phẩm,
phân tích dòng tiền tệ, phân tích được chiều hướng phát triển của mỗi sản
phẩm trên thị trường nói chung.
- Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định:
Ở các nước có nền kinh tế phát triển BHNT đã ra đời và phát triển hàng
trăm năm nay. Ngược lại một số quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn chưa triển
khai được BHNT, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Để lý
giải vấn đề này, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT
ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế - xã hội phát triển.
Những điều kiện về kinh tế như:
 Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP);
 Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân 1 đầu người dân;
 Mức thu nhập của dân cư;

 Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền;

×