Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

BÀI THẢO LUẬN học PHẦN QUẢN TRỊ các tổ CHỨC tài CHÍNH PHI NGÂN HÀNG NÂNG CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.64 KB, 28 trang )


0
Website:

Website:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA SAU ĐẠI HỌC














BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN QUẢN TRỊ CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH
PHI NGÂN HÀNG NÂNG CAO


NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 1
Website:
LỚP: CAO HỌC 18B, TCNH, LỚP BAN NGÀY
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS,TS. LÊ THỊ KIM NHUNG


Chủ đề 1: Thực trạng hoạt động và triển vọng phát triển của các
quỹ hưu trí Việt Nam




HÀ NỘI, THÁNG 09/2013




1
Website:

Website:
DANH SÁCH NHÓM 1
Lớp: Cao học 18B, TCNH, Lớp ban ngày

STT
HỌ TÊN
Nhiệm vụ của thành viên
ĐIỂM

1
Trần Văn Tuấn
Tổng hợp bài, Làm Slide, Thuyết trình


2
Hoàng Thị Bích Ngọc

Làm phần 1.1; 1.2;


3
Nguyễn Thị Minh Ngọc
Làm phần 1.3; 1.4;


4
Phạm Thị Thuần
Làm phần 1.5; 1.6;


5
Vũ Thị Sáu
Làm phần 2.1; 2.2;


6
Phạm Thị Ngọc Mai
Làm phần 2.3; 2.4;


7
Thái Thị Bun My
Làm phần 2.5; 2.6;


8
Phạm Thị Thanh Loan

Làm phần 3.1


9
Bùi Thị Thu Huyền
Làm phần 3.2


10
Phí Lan Hương
Làm phần 3.3



Cách thành viên nhóm 1 tự cho điểm đánh giá bản thân:
- Điểm A là tích cực tham gia nhất;
- Điểm B là tích cực tham gia vừa phải;
- Điểm C là tích cực tham gia;













2
Website:

Website:
LỊCH LÀM VIỆC KHOA HỌC CỦA NHÓM 1
LỚP: CAO HỌC 18B,TCNH,LỚP BAN NGÀY
Website
E-mail:

STT
THỜI GIAN
HOÀN THÀNH
PHẦN VIỆC HOÀN THÀNH
1
Chủ nhật, 08/09/13
1. Họp nhóm;
2. Lập đề cương chi tiết;
3. Phân công nhiệm vụ làm việc và
hướng dẫn tìm kiếm tài liệu;
2
Thứ hai, 09/09/13
Các thành viên nhóm, làm phần việc của
mình, tìm kiếm tài liệu phù hợp; Và tiến
hành gửi về cho Đ/c Tuấn;
3
Thứ ba, 10/09/13
4
Thứ tư, 11/09/13
5
Thứ năm, 12/09/13

Đ/c Tuấn tiến hành tập hợp bài, chỉnh sửa
bài theo yêu cầu đạt; Tóm tắt chi tiết bài để
chuẩn bị làm Slide; Đóng quyển theo yêu
cầu đạt;
6
Thứ sáu, 13/09/13
Đ/c Tuấn thiết kế Slide thuyết trình theo
yêu cầu đạt;
7
Thứ bẩy, 14/09/13
Đ/c Tuấn Thuyết trình, các thành viên phối
hợp trả lời các câu hỏi, Cả nhóm đã hoàn
thành xong nhiệm vụ được giao;

Mọi thông tin, vui lòng các Đ/c liên hệ:
E-mail: ; Web

3
Website:

Website:
MỤC LỤC
Trang

Trang bìa chính, bìa phụ
Danh sách nhóm 1 01
Mục lục 02
Lời mở đầu 03
PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ QUỸ HƯU TRÍ 05
1.1 Khái niệm quỹ hưu trí 05

1.2 Quá trình hình thành và phát triển 06
1.3 Mục đích thành lập 08
1.4 Cách thức tạo lập 09
1.5 Hình thức hoạt động quỹ hưu trí 09
1.6 Quỹ hưu trí đối với thị trường tài chính phi ngân hàng 11
PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUỸ HƯU TRÍ VN 14
2.1 Nội dung hoạt động quỹ hưu trí Việt Nam 14
2.2 Kết quả hoạt động quỹ hưu trí Việt Nam 15
2.3 Thách thức đối với quỹ hưu trí Việt Nam 16
2.4 Nguy cơ mất cân đối quỹ hưu trí ở Việt Nam 16
2.5 Nguồn quỹ hưu trí sắp cạn kiệt 19
2.6 Vấn đề liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện 22
PHẦN III: TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CÁC QUỸ HƯU TRÍ 26
3.1 Triển vọng phát triển quỹ hưu trí trên thế giới 26
3.2 Triển vọng phát triển quỹ hưu trí ở Việt Nam 27
3.3 Kiến nghị 29




4
Website:

Website:
LỜI MỞ ĐẦU

Các quỹ hưu trí là một phần quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của
các quốc gia. Davis (1995a) trong một nghiên cứu của mình đã định nghĩa:
"Các Quỹ hưu trí là một dạng nhà đầu tư có tổ chức, tiến hành thu, tập hợp và
đầu tư các khoản đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động để

phục vụ cho các lợi ích khi nghỉ hưu của người lao động".
Quá trình lão hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra rất nhanh và một tỷ
trọng lớn dân số sẽ không còn được hưởng trợ cấp xã hội trong tương lai. Với
các điều kiện hiện tại, dự báo quỹ lương hưu sẽ cạn kiệt vào năm 2029.
Khuyến nghị trên là một phần báo cáo do ILO (tổ chức lao động Quốc
tế) công bố tại hội thảo “Đánh giá tài chính Quỹ Hưu trí ở Việt Nam - Kết quả
dự báo và những khuyến nghị” do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-
TB&XH) cùng ILO vừa tổ chức tại Hà Nội.
Theo báo cáo của ILO, chỉ khoảng 20% lực lượng lao động tham gia bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam (theo số liệu năm 2009, có 9,3 triệu người đóng góp
cho quỹ hưu trí và tử tuất trong tổng số 48,5 triệu người trong độ tuổi lao động).
Tỷ lệ này có thể tăng trong thời gian trước mắt khi Việt Nam đang bước vào
“thời kỳ dân số vàng” với số người trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên)
chiếm tới 58,5% cơ cấu dân số (số liệu năm 2010). Tuy nhiên, quá trình lão hóa
dân số ở Việt Nam đang diễn ra rất nhanh và một tỷ trọng lớn dân số sẽ không
còn được hưởng trợ cấp xã hội trong tương lai.
“Quỹ lương hưu sẽ bắt đầu thâm hụt từ năm 2020 và sẽ hoàn toàn cạn
kiệt vào năm 2029. Đây sẽ là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam”
- ông Carlos Galian, chuyên gia của ILO tại Việt Nam cho biết. Cũng theo
chuyên gia, chế độ hưu trí hiện tại được đánh giá còn nhiều bất cập, thể hiện ở
tuổi về hưu tương đối sớm, đặc biệt là đối với nữ giới, và một bộ phận người

5
Website:

Website:
lao động được phép về hưu trước tuổi quy định, trong bối cảnh tuổi thọ trung
bình được nâng cao và tỷ lệ sinh giảm rõ rệt.
Đứng trước thực trạng vấn đề trên nhóm 1 lựa chọn đề tài: “Thực trạng
hoạt động và triển vọng phát triển của các quỹ hưu trí ở Việt Nam hiện nay”.

Đây cũng là chủ đề đang rất nóng trên các trang báo thông tin truyền
thông và cũng là chủ để được thảo luận của nhân dân và các phiên họp thường
kỳ của quốc hội khi đưa ra chủ trương phát triển quỹ hưu trí tự nguyện ở nước
ta hiện nay.
Bố cục của đề tài này gồm 3 phần chính bao gồm:
Phần I: Lý thuyết chung về Quỹ hưu trí
Phần II: Thực trạng hoạt động Quỹ hưu trí ở Việt Nam
Phần III: Triển vọng phát triển Quỹ hưu trí Việt Nam
















6
Website:

Website:
PHẦN I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ QUỸ HƯU TRÍ


1.1 Khái niệm quỹ hưu trí
Các quỹ hưu trí cho phép các cá nhân tích lũy các khoản tiết kiệm của
mình trong suốt thời gian làm việc nhằm đảm bảo cho những nhu cầu tiêu dùng
khi về hưu dưới dạng chi trả một khoản tiền trọn gói, hoặc những khoản tiền cố
định hàng tháng. Ngoài ra, các quỹ hưu trí còn tạo nguồn vốn cho những
người/tổ chức có nhu cầu như các doanh nghiệp, các hộ gia đình và Chính phủ
dưới dạng các khoản đầu tư hoặc tiêu dùng.
Trong bản Hướng dẫn về cấp phép cho các quỹ hưu trí của Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 2008, quỹ hưu trí được định nghĩa là một
tập hợp tài sản được đóng góp vào quỹ nhằm mục đích tài trợ cho những lợi
ích hưu trí của người hưởng lợi (beneficiaries). Các thành viên của quỹ có
quyền lợi hợp pháp đối với các tài sản của quỹ.
Các quỹ hưu trí có thể được tổ chức dưới dạng một quỹ tín thác (một quỹ
độc lập có tư cách pháp nhân) hoặc một quỹ không có tư cách pháp nhân do
một Công ty quản lý quỹ (QLQ) hoặc một tổ chức tài chính thay mặt cho các
thành viên của quỹ quản lý. Các quỹ hưu trí thường được đóng góp bởi người
sử dụng lao động (các công ty, tập đoàn, hoặc công đoàn) và người lao động.
Tài sản của quỹ có thể được quản lý nội bộ hoặc được thuê quản lý. Các khoản
chi trả cho thành viên của quỹ hưu trí phụ thuộc vào tình hình thị trường tài
chính hoặc tỷ lệ sinh lời tùy thuộc vào mô hình của quỹ là đóng góp xác định
(DC) hay có mức hưởng xác định (DB).
Các quỹ hưu trí đã phát triển rất mạnh mẽ trong những năm gần đây ở
nhiều nước, cả về quy mô so với GDP và so với hệ thống ngân hàng. Do các

7
Website:

Website:
khoản đóng góp vào quỹ thường không được phép rút ra sớm, nên quỹ hưu trí

luôn có nguồn tài sản dài hạn để đầu tư và nắm giữ các tài sản tài chính, kể cả
những tài sản có độ rủi ro cao và tỷ lệ lợi nhuận cao. Thông thường, tài sản của
các quỹ hưu trí được dùng để đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu chính phủ (TPCP),
bất động sản (BĐS), tài sản nước ngoài, các công cụ trên thị trường tiền tệ và
các khoản tiền gửi.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển
Thời kỳ trước năm 1945
Việt Nam chưa có pháp luật về BHXH, do đất nước bị giặc ngoại xâm
đô hộ, đời sống nhân dân khổ cực, khi gặp rủi ro, hoạn nạn sự hỗ trợ giúp đỡ
chủ yếu dựa vào truyền thống tương thân, tương ái cưu mang của gia đình, dòng
họ, bản làng, “lá lành đùm lá rách” (có thể coi là một hình thức BHXH sơ khai).
Thời kỳ từ năm 1945 – 1954
Tháng 08/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Tháng
12/1946, Hiến pháp đầu tiên đã xác định quyền được trợ cấp của người tàn tật
và người già. Ngày 12/03/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29/SL
quy định chế độ trợ cấp cho công nhân. Ngày 20/05/1950, Người tiếp tục ký 02
Sắc lệnh số 76, 77 quy định về chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu
trí cho cán bộ, công nhân viên chức. Do trong hoàn cảnh kháng chiến nên việc
thực hiện chế độ BHXH còn hạn chế, tuy nhiên đó là cơ sở cho sự phát triển
của BHXH sau này.
Giai đoạn miền Bắc được giải phóng, xây dựng CNXH, pháp luật BHXH
được hình thành và phát triển nhanh. Ngày 27/12/1961, Điều lệ BHXH tạm thời
được ban hành. Đây là văn bản gốc về BHXH đối với cán bộ, công nhân viên
chức Nhà nước, gồm có 06 chế độ và quy định Quỹ BHXH nằm trong ngân
sách nhà nước, do các cơ quan, đơn vị đóng góp. Đến năm 1964, Điều lệ đãi
ngộ đối với quân nhân được ban hành. Trong khi đó tại miền Nam, BHXH cũng

8
Website:


Website:
được thực hiện đối với người làm công, ăn lương và binh lính làm việc cho
chính thể chính quyền cũ.
Thời kỳ từ 1975 – đến trước 1995
BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Các chế độ, chính sách
BHXH trong thời kỳ này được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc điểm của BHXH giai đoạn này, là gắn với
nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp; đối tượng chủ yếu là cán bộ, công
nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang; nguồn chi trả các chế độ từ
ngân sách nhà nước thường chậm, thiếu chủ động, tổ chức bộ máy thực hiện
phân tán. Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các
chế độ BHXH, cũng như mô hình quản lý BHXH, không còn phù hợp nên cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, chính sách BHXH trong thời kỳ này đã
góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh
giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Thời kỳ từ năm 1995 – 2006
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách BHXH đổi mới, phát
triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bộ
Luật Lao động được ban hành, có hiệu lực thực hiện từ 01/01/1995, dành 01
chương về BHXH, quy định về đối tượng được mở rộng; hình thành Quỹ
BHXH độc lập với ngân sách nhà nước, do sự đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước; thành lập cơ quan chuyên
trách để quản lý Quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH. Ngày 16/02/1995,
chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt Nam, trên cơ sở
thống nhất chức năng, nhiệm vụ về BHXH của Bộ LĐ-TB&XH và Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam. Về chính sách BHXH, Chính phủ ban hành Nghị
định số 12/CP kèm theo Điều lệ BHXH áp dụng cho cán bộ, công nhân viên
chức và người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế. Ngày

9

Website:

Website:
15/07/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/CP kèm theo Điều lệ BHXH
đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân
dân và công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu.
Thời kỳ từ năm 2007 đến nay
Ngày 29/06/2006, Quốc hội thông qua Luật BHXH, có hiệu lực thi hành
từ 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc; từ ngày 01/01/2008 đối với BHXH tự
nguyện; từ 01/01/2009 đối với BHTN. Các quy định của Luật BHXH về chế
độ hưu trí được kế thừa từ các quy định trước đây; có phát triển, mở rộng về
đối tượng, loại hình BHXH tự nguyện… Các chế độ BHXH được quy định cụ
thể có lợi hơn cho người lao động như quy định chặt chẽ về quản lý, sử dụng,
đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH, trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, quản
lý, giám sát việc quản lý và Quỹ BHXH công khai, minh bạch, góp phần bảo
đảm An sinh xã hội.
1.3 Mục đích thành lập
Giúp cho người lao động khi về hưu có được những khoản thu nhập ổn
định thông qua cung cấp các chương trình lương hưu (pension plans). Các
chương trình lương hưu này quy định những khoản đóng góp định kỳ của những
người tham gia vào chương trình trong thời gian những người này còn đang
làm việc để khi về hưu họ sẽ được nhận tiền trợ cấp hưu trí (hay lương hưu)
được trả một lần khi về hưu hoặc trả định kỳ đều đặn cho tới khi chết.
Các chương trình lương hưu không chỉ được đóng góp bởi những người
lao động mà cả các chủ thuê lao động và thậm chí là chính phủ.
Các khoản tiền quỹ trợ cấp hưu trí thu được dùng để đầu tư nhằm đạt
được mức sinh lời nhất định trong khi vẫn đảm bảo an toàn cho khoản vốn. Do
số tiền mà các quỹ phải chi trả hàng năm có thể dự đoán với độ chính xác cao
nên quỹ thường đầu tư số tiền nhàn rỗi của mình vào các công cụ đầu tư dài
hạn như: cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay mua trả góp bất động sản… Ngoài


10
Website:

Website:
ra, các quỹ này còn đầu tư vào các tài sản tài chính có độ rủi ro thấp như: tiền
gửi ngân hàng, các loại kỳ phiếu do ngân hàng phát hành.
=> Do vậy hoạt động của các quỹ hưu trí không chỉ đảm bảo khoản thu
nhập thường xuyên ổn định cho những người hưu mà còn góp phần lưu chuyển
vốn nhàn rỗi đến những nơi có nhu cầu về vốn.
1.4 Cách thức tạo lập <PHẦN ĐÃ SỬA>
Các chương trình lương hưu được chia làm hai cách thức tạo lập sau:
Loại căn cứ vào mức độ đóng góp (A defined – contribution plan): là
chương trình lương hưu trong đó số tiền nhận được của những người tham gia
phụ thuộc vào số tiền đã đóng góp và khoản tiền lời từ việc đầu tư các khoản
đóng góp đó.
Loại căn cứ vào mức độ trợ cấp (A defined – benefit plan): là chương
trình lương hưu trong đó số tiền người tham gia được hưởng khi về hưu được
xác định không căn cứ vào mức độ đóng góp, mà vào thời gian làm việc và
mức lương của người đó. Loại chương trình này có hạn chế là có thể xảy ra
trường hợp số tiền mà người tham gia đóng góp không đủ để trả cho số tiền mà
họ sẽ nhận được sau khi về hưu.
Ngoài ra các chương trình lương hưu còn quy định thời gian tối thiểu
phải tham gia đóng góp hoặc số năm tối thiểu phải làm việc tại một công ty để
được nhận lương hưu từ quỹ trợ cấp hưu trí của công ty đó.
Sự phát triển của các quỹ trợ cấp hưu trí nhận được sự hổ trợ tích cực từ
phía chính phủ thông qua các chính sách ưu đãi về thuế. Ví dụ: Các khoản đóng
góp vào chương trình lương hưu của cả người lao động và chủ thuê lao động
đều được miễn trừ thuế thu nhập. Ở nhiều nước như Đức, Nhật, Mỹ Chính phủ
còn cam kết tài trợ để số tiền lương tối thiểu lên tới một mức nhất định.

1.5 Hình thức hoạt động Quỹ hưu trí <PHẦN ĐÃ SỬA>
Các quỹ trợ cấp lương hưu hoạt động dưới 2 hình thứ:

11
Website:

Website:
Thứ nhất: Là các chương trình trợ cấp hưu trí tư nhân:
Các chương trình này do các công ty thành lập nhằm mục đích hỗ trợ cho
những người lao động trong công ty, sẽ do một ban quản lý quỹ chịu trách
nhiệm điều hành bao gồm: các hoạt động thu tiền đóng góp, chi trả lương hưu
và thực hiện việc đầu tư bằng nguồn vốn quỹ. Các chương trình này cũng có
thể được ủy thác cho các ngân hàng hoặc công ty bảo hiểm nhân thọ quản lý.
Hoạt động của các chương trình này luôn gặp rủi ro không đủ tiền để trả
lương do khoản đóng góp không đủ để tài trợ cho việc chi trả (với trường hợp
lương hưu được xác định không căn cứ vào mức độ đóng góp) hoặc do yếu kém
trong việc đầu tư gây thất thoát tiền quỹ. Chính vì vậy, Luật các nước thường
quy định việc báo cáo định kỳ theo những tiêu chuẩn nhất định về hoạt động
của các quỹ, đưa ra những quy định về số năm tối thiểu phải tham gia chương
trình, những giới hạn về phạm vi được đầu tư của quỹ, cũng như giao trách
nhiệm giám sát cho một cơ quan chức năng (ví dụ Bộ Lao động). Thậm chí ở
nhiều nước còn thành lập các tổ chức trực thuộc Chính phủ (ví dụ ở Mỹ là
Pension Benefit Guarantee Corporation hoặc gọi là “Penny Benny”) hoạt động
như một công ty bảo hiểm cho cấp quỹ trợ cấp hưu trí. Các tổ chức này thu phí
bảo hiểm từ các chương trình trợ cấp hưu trí tối thiểu cho một người lao động
(ví dụ ở Mỹ là 30000USD mỗi năm) trong trường hợp các quỹ trợ cấp nói trên
phá sản hoặc không thể thực hiện di chuyển đủ tiền vì những lí do khác.
Thứ hai: Các chương trình trợ cấp hưu trí công cộng:
Hầu hết tất cả những người lao động và chủ thuê lao động bị bắt buộc
phải tham gia chương trình này. Phần đóng góp được xác định trên cơ sở mức

lương của người lao động. Người lao động và chủ thuê lao động sẽ chia nhau
đóng góp.
Bảo hiểm xã hội không chỉ chi trả lương hưu mà còn chi phí khám chữa
bệnh và trợ cấp mất sức lao động.

12
Website:

Website:
Cũng như các chương trình trợ cấp hưu trí tư, các chương trình trợ cấp
công đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt tiền để chi trả cho những khoản
chi trả Bảo hiểm xã hội, không hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ đóng góp trước
đây của người hưởng lợi cũng như do tỉ lệ người già tăng nhanh trong xã hội.
Thực tế này đòi hỏi nhiều nước phải cải cách các chương trình Bảo hiểm xã hội
theo hướng đầu tư hóa và đa dạng hóa hình thức đầu tư vào lĩnh vực rủi ro hơn
nhưng mức sinh lời cao hơn như cổ phiếu và trái phiếu của công ty.
1.6 Quỹ hưu trí đối với thị trường tài chính phi ngân hàng
Có thể thấy, theo định nghĩa, quỹ hưu trí có đầy đủ các đặc điểm của nhà
đầu tư có tổ chức, bao gồm: (1) Tập hợp rủi ro và cung cấp các giải pháp phòng
ngừa rủi ro tốt hơn cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ; (2) Lợi thế về đa dạng hóa đầu
tư bằng cách nắm giữ nhiều loại tài sản khác nhau (cả cố phiếu, trái phiếu và
các tài sản khác), cả trong nước và nước ngoài; (3) Thanh khoản tốt hơn, đồng
thời giúp tăng cưởng thanh khoản cho thị trưởng; (4) Khả năng thu nhận và xử
lý thông tin tốt hơn so với các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ trên thị trưởng; (5)
Lợi thế quy mô nhở lượng vốn lớn, giao dịch lớn, do đó, chi phí cho mỗi nhà
đầu tư thấp hơn.
Với tư cách là nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ hưu trí đang đóng vai trò
ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính. Các quỹ
hưu trí góp phần thúc đẩy tính hiệu quả của thị trường bằng cách tác động vào
cấu trúc của thị trường chứng khoán (TTCK) do quỹ luôn có nhu cầu về thanh

khoản và những giao dịch quy mô lớn. Ngược lại, quỹ hưu trí cũng tạo thanh
khoản cho thị trường thông qua các hoạt động giao dịch thường xuyên với khối
lượng lớn và bản chất phòng ngừa rủi ro của quỹ. Do đó, quỹ hưu trí giúp tăng
cường tính hiệu quả của thị trường, giảm chi phí vốn và giảm phụ thuộc vào hệ
thống ngân hàng trong việc tạo thanh khoản cho thị trường tài chính. Với việc
tích lũy tài sản dài hạn, các quỹ hưu trí có xu hướng đầu tư vào các tài sản kém

13
Website:

Website:
thanh khoản và dài hạn để có lợi nhuận cao hơn, do đó, góp phần tăng nguồn
cung vốn dài hạn cho thị trưởng (Davis, 1995).
Do đặc tính tập hợp vốn từ nhiều cá nhân trong thời gian dài, tài sản của
các quỹ hưu trí trên phạm vi toàn cầu đã gia tăng đáng kể trong những năm gần
đây. Theo thống kê của quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tổng tài sản của các nhà đầu
tư tổ chức năm 2003 so với năm 1990 đã tăng gần gấp 3 lần, trong đó, tài sản
của các quỹ hưu trí toàn cầu tăng hơn 4 lần, và có giá trị lớn nhất so với các
nhà đầu tư tổ chức khác (công ty bảo hiểm, công ty đầu tư và quỹ phòng ngừa
rủi ro). Nếu so với GDP của các nước thuộc khối OECD, tổng tài sản của các
quỹ hưu trí chiếm hơn 50% GDP năm 2003 và gần 50% năm 2004, chỉ đứng
sau các công ty đầu tư. Đối với các nước phát triển, quỹ hưu trí là nhà đầu tư
tổ chức năm giữ lượng tài sản rất lớn. Tại Mỹ, Pháp, các quỹ hưu trí là nhà đầu
tư tổ chức có lượng tài sản lớn thứ nhì, chỉ đứng sau các công ty đầu tư (quỹ
đầu tư). Công cụ tài chính mà các quỹ hưu trí nắm giữ chủ yếu là TPCP (33%
giá trị danh mục năm 1997 và 27% năm 2003), và cổ phiếu của các doanh
nghiệp trong nước (44% giá trị danh mục năm 1997 và 37% năm 2003). Ngoài
ra, quỹ hưu trí còn nắm giữ cổ phiếu của các doanh nghiệp nước ngoài, trái
phiếu nước ngoài, BĐS và tiền mặt, tuy nhiên, tỷ lệ không cao. Tính đến năm
2011, trong số các nước công nghiệp phát triển, Hà Lan và Thụy Sỹ là hai nước

có tổng giá trị tài sản của các quỹ hưu trí chiếm 133% và 115% GDP, so với
Anh (101% GDP) và Mỹ (107% GDP).







14
Website:

Website:
PHẦN II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUỸ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM

2.1 Nội dung hoạt động quỹ hưu trí ở Việt Nam
Về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Người lao động là công dân Việt Nam, làm việc theo chế độ HĐLĐ từ
đủ 03 tháng trở lên; cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước; lực lượng vũ trang;
các cơ quan, đơn vị thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
Về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
Công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động (nam từ 15 - 60 tuổi, nữ từ
15 - 55 tuổi), không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Mức đóng vào Quỹ hưu trí, tử tuất
Đối với BHXH bắt buộc, người lao động đóng 7% (từ năm 2014 là 8%);
người sử dụng lao động đóng 13% (từ năm 2014 là 14%), mức tiền lương đóng
BHXH cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
Đối với BHXH tự nguyện, người tham gia đóng 20% mức thu nhập lựa
chọn (từ năm 2014 là 22%), mức thu nhập lựa chọn thấp nhất bằng mức lương

tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
Điều kiện, mức hưởng chế độ hưu trí
Đóng BHXH đủ 20 năm trở lên; nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; một số
trường hợp được nghỉ hưu sớm hơn theo quy định của Luật BHXH hoặc quy
định của Chính phủ. Lực lượng vũ trang có quy định riêng.
Mức hưởng lương hưu
Mức lương hưu hàng tháng bằng tỷ lệ % hưởng lương hưu nhân với mức
bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. Cách tính tỉ lệ % như sau: 15 năm đầu
đóng BHXH tính bằng 45%; từ năm thứ 16 trở đi, mỗi năm đóng BHXH thì
tính thêm 2% đối với nam, 3% đối với nữ, tối đa bằng 75%. Trường hợp nghỉ

15
Website:

Website:
hưu trước tuổi thì mỗi năm bị trừ 1%. Mức bình quân tiền lương, tiền công
tháng đóng BHXH quy định cho 03 nhóm đối tượng.
Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt
và tăng trưởng kinh tế, được bù bằng mức lương tối thiểu chung. Trường hợp
mức lương hưu thấp hơn mức lương tối thiểu chung mà có đủ 20 năm đóng
BHXH bắt buộc, được hưởng trợ cấp 01 lần đối với thời gian đóng BHXH từ
năm thứ 31 trở đi đối với nam, từ năm thứ 26 trở đi đối với nữ.
Lương hưu không phải nộp thuế. Người hưởng lương hưu được hưởng
BHYT. Không đủ điều kiện nghỉ hưu thì được hưởng chế độ trợ cấp BHXH
một lần theo quy định, mức trợ cấp BHXH một lần được tính theo số năm đã
đóng BHXH, mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công
hoặc thu nhập tháng đóng BHXH. Người đang hưởng lương hưu nếu bị chết
thân nhân được hưởng chế độ tử tuất theo quy định của Luật BHXH.
Tổ chức thực hiện chính sách BHXH theo Luật BHXH
BHXH Việt Nam được thành lập từ năm 1995, tổ chức theo ngành dọc

gồm 03 cấp, mỗi cấp đều có tư cách pháp nhân và trụ sở riêng, gồm: cấp Trung
ương; cấp tỉnh, cấp xã. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng, Công an và Ban Cơ yếu
Chính phủ có cơ quan BHXH trực thuộc. Nhiệm vụ của BHXH Việt Nam là
thu, chi, thực hiện các chế độ BHXH, quản lý, sử dụng, bảo toàn và tăng trưởng
Quỹ BHXH, theo quy định của pháp luật về BHXH.
2.2 Kết quả hoạt động Quỹ hưu trí ở Việt Nam
Năm 2012, có 10.437.000 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 40,6%,
tương ứng tăng hơn 03 triệu người so với năm 2007 (là năm đầu thực hiện Luật
BHXH); gần 140.000 người tham gia BHXH tự nguyện; thu BHXH bắt buộc
đạt hơn 89.612 tỷ đồng; chi trả cho 101.200 người hưởng lương hưu, 601.020
người hưởng BHXH một lần. Hiện, hằng tháng BHXH Việt Nam quản lý, tổ
chức chi trả kịp thời cho hơn 2,3 triệu người hưởng lương hưu thuộc 02 nhóm

16
Website:

Website:
đối tượng do ngân sách nhà nước và Quỹ BHXH đảm bảo. Hình thức chi trả
lương hưu là bằng tiền mặt hoặc thông qua tài khoản thẻ ATM. Ngoài ra, đã tổ
chức thí điểm chi trả lương hưu bằng tiền mặt thông qua hệ thống Bưu điện cấp
xã đã triển khai trên phạm vi toàn quốc bắt đầu từ năm 2013.
Tuy nhiên, có thể thấy diện bao phủ BHXH còn thấp hơn so với yêu cầu;
tình trạng trốn đóng, nợ đọng tiền BHXH còn xảy ra khá phổ biến và chưa được
xử lý triệt để; Quỹ Hưu trí, tử tuất tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối trong dài hạn;
tình trạng lạm dụng quỹ còn phức tạp, chưa được kiểm soát một cách hiệu quả;
ứng dụng CNTT vào quản lý BHXH còn chậm, chất lượng dịch vụ còn hạn chế;
công tác thanh, kiểm tra, phối hợp trong quản lý, giải quyết, xử lý vi phạm về
BHXH chưa đáp ứng nhu cầu.
2.3 Thách thức đối với quỹ hưu trí Việt Nam
Theo Nghị quyết số 21-NQ/TW, Bộ Chính trị đặt ra mục tiêu phấn đấu

đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH (tương ứng khoảng
28,4 - 29 triệu lao động). Tính đến ngày 31/12/2012, số người tham gia BHXH
là trên 10,5 triệu người; tốc độ phát triển đối tượng tham gia BHXH bình quân
các năm vừa qua vào khoảng 5-7%; để đạt được mục tiêu trên là một thách thức
lớn đối với Ngành BHXH và hệ thống chính trị.
2.4 Nguy cơ mất cân đối quỹ hưu trí Việt Nam
Theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam, từ năm 2007 – 2012, mỗi
năm có trên 100.000 người nghỉ hưởng lương hưu hàng tháng; tuổi nghỉ hưu
bình quân là 53,2 tuổi (nam 55,1 tuổi, nữ 51,6 tuổi); số người nghỉ hưu đúng
tuổi chiếm tỷ lệ thấp (40,5%), do suy giảm khả năng lao động 61% trở lên
chiếm tỷ lệ trên 52%; thời gian tham gia BHXH bình quân là 30,8 năm (nam
32,4 năm, nữ 29,5 năm); tỷ lệ hưởng lương hưu bình quân là 70% (nam 68,5%,
nữ 71,4%).

17
Website:

Website:
Từ năm 1995 - 2012, hàng năm số thu vào Quỹ Hưu trí, tử tuất đều lớn
hơn số chi. Tuy nhiên, trong tương lai, số người nghỉ hưu hưởng từ Quỹ BHXH
càng nhiều. Dự báo đến năm 2023, Quỹ Hưu trí, tử tuất sẽ có số thu bằng số
chi. Từ năm 2024 trở đi, ngoài số thu trong năm, phải trích sử dụng thêm tiền
cân đối dương của các năm trước mới đảm bảo đủ chi. Đến năm 2037, số thu
BHXH trong năm và số tồn tích bắt đầu không đảm bảo khả năng chi trả. Các
năm sau đó, số chi sẽ lớn hơn nhiều so với số thu trong năm. Do đó, Quỹ Hưu
trí, tử tuất tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.
Nguyên nhân chủ yếu do:
Quy định về tuổi nghỉ hưu hiện hành còn thấp. Theo số liệu thống kê
năm 2012, tuổi thọ bình quân của người nghỉ hưu là 73,04 tuổi (nam 73,95 tuổi,
nữ 71,2 tuổi) và thời gian trả lương hưu bình quân là gần 20 năm (nam 19 năm,

nữ 20 năm);
Quy định trần tuổi được nghỉ hưu sớm quá thấp (nam 50 tuổi, nữ 45 tuổi,
nếu có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc thì không
phụ thuộc tuổi đời), nên thời gian trả lương hưu cho đối tượng này dài, trong
khi thời gian đóng góp ít. Cụ thể là đóng khoảng 20 năm, thì hưởng tới 30 - 40
năm;
Mức đóng góp theo quy định hiện hành chưa tương xứng với mức hưởng,
đặc biệt là phần đóng góp từ phía người lao động;
Cách tính lương hưu còn chưa phù hợp, việc trừ tỷ lệ % hưởng đối với
người nghỉ hưu sớm, cũng như việc bù bằng mức lương tối thiểu chung đối với
các trường hợp có mức lương hưu thấp còn chưa hợp lý;
Quy định về hưởng BHXH một lần quá rộng không đảm bảo mục đích
An sinh xã hội;
Đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH, trong đó có Quỹ Hưu trí, tử tuất, tuy
đảm bảo chặt chẽ, an toàn nhưng hiệu quả đầu tư chưa cao.

18
Website:

Website:
2.5 Nguồn quỹ hưu trí ở Việt Nam sắp cạn kiệt
*. Nguyên nhân:
Báo động của ILO Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, rằng nguồn quĩ hưu trí
của Việt Nam sẽ bị thâm hụt và cạn kiệt trong thời gian tới, là một nhận định
xác đáng.
Giám đốc Bảo Hiểm Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh, ông Cao Văn Sang,
cho rằng cảnh báo này có cơ sở vì theo dự kiến đến năm 2023, số thu Bảo Hiểm
Xã Hội dành cho hưu trí sẽ ngang bằng số chi, và những năm sau đó muốn trả
lương hưu thì phải sử dụng số dư từ nguồn thu Bảo Hiểm Xã Hội của những
năm trước. Hậu quả là, ông Cao Văn Sang nói tiếp, một thập niên nữa tức vào

năm 2034 thì nguồn quĩ hưu trí bị cạn kiệt và không còn tiền để thanh toán.
Tiến sĩ Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế trong nước, nói rằng điều này
hoàn toàn chính xác vào khi Việt Nam đang tìm hướng cải tiến:
Với tình trạng hiện nay thì chắc chắn nguồn quĩ bảo hiểm sẽ thâm hụt
và không đủ khả năng để trang trải. Cho nên hiện đang có phương án, cũng
như các tổ chức quốc tế đề nghị, phải chăng là nên nâng tuổi lao động lên và
tăng tuổi nghỉ hưu cho nó dài ra. Đây là vấn đề đang hiện hữu và sẽ xảy ra trong
tương lai nếu không có biện pháp xử lý ngay từ bây giờ.
Những nguyên nhân chính khiến nguồn quĩ Bảo Hiểm Xã Hội gặp nguy
cơ cạn kiệt, tiến sĩ Ngô Trí Long giải thích, thứ nhất là do độ tuổi nghỉ hưu
thấp:
Thứ nhất hiện nay với lực lượng lao động rất lớn mà tuổi về hưu như thế
này, mà chi khoản Bảo Hiểm Xã Hội lại lớn như thế, nếu cứ tiếp tục kéo dài thì
chắc chắn nó sẽ là âm và nó sẽ thâm hụt.
Vấn đề thứ hai, ông nói, năng suất tức hiệu quả hoạt động đối với các
khu vực nhà nước cũng như đối với người nghỉ hưu xem ra rất thấp:

19
Website:

Website:
Đấy là hai nguyên nhân chính và nếu hiện trạng này tiếp tục kéo dài thì
chắc chắn đến 2023-2025 coi như quĩ bị vỡ và hầu như không có khả năng để
chi trả.
Trong bối cảnh hiện nay, lực lượng lao động trong lãnh vực nhà nước
thừa rất lớn, thừa rất nhiều. Người ta đã đánh giá trong 10 người thì 3 người
làm được việc, 3 người chỉ là cầm chừng, còn lại 4 thì coi như làm không có
hiệu quả.
Hiện chính phủ đang có dự án tiến tới việc tinh giảm biên chế, áp dụng
từ 2014 đến 2020. Thế nhưng theo tiến sĩ Ngô Trí Long thì:

Sẽ thực thi có nghĩa là đầu vào không có mà chỉ có đầu ra thôi. Tại vì
thực tế hiện nay là lương lao động quá dư thừa mà cái tổ chức lực lượng lao
động làm ăn không có hiệu quả cho nên nó dẫn đến hiện tượng như vậy. Đây
là bài toán xử lý rất khó. Ngay bây giờ nói tinh giảm biên chế thì tinh giảm
như thế nào, tinh giảm ai thì cũng là vấn đề cần bàn, mà phương án đưa ra liệu
có khả năng thực thi hay không .
Vấn đề này tôi nghĩ Việt Nam đã nhiều năm trước đưa ra rồi nhưng làm
không có hiểu quả, làm không được, phải nói thẳng như vậy.
Trong lúc 65 là tuổi nghỉ hưu ở các quốc gia phát triển, tại Việt Nam độ
tuổi nghỉ hưu là 60 đối với nam và 55 đối với nữ. Tính theo thực tế, tuổi hưu
bình quân của Việt Nam là 53. Với tình trạng tuổi hưu thấp như vậy thì suy ra
thời gian đóng không bao nhiêu mà thời gian hưởng lương hưu thỉ lại nhiều.
*. Cách khắc phục:
Dưới mắt tiến sĩ Trịnh Hòa Bình, viện trưởng kiêm giám đốc Trung Tâm
Dư Luận Xã Hội thuộc Viện Xã Hội Học, quĩ Bảo Hiểm Xã Hội sẽ cạn trong
thời gian tới là một cảnh báo quan trọng và đáng lưu ý.
Rõ ràng vấn đề ở đây, ông phân tích, là một nền tảng sản xuất chưa cao
trong lúc phải vác cái gánh nặng chi trả, đặc biệt trong lãnh vực chính sách xã

20
Website:

Website:
hội, hệ thống tiền lương cho đội ngũ công chức viên chức là bộ máy khổng lồ
mà hiệu năng hoạt động có hạn và không có yếu tố kích thích người sản xuất:
Thành thủ của cải vật chất xã hội không nhiều, nguồn dự trữ quốc gia
không lớn, độ tuổi lao động quay trở về cuộc sống không phải làm người nhà
nước nữa là 60 cho nam và 55 cho nữ, là đội quân sẽ hưởng bảo hiểm xã hội
thì mỗi ngày một phình ra, cho thấy báo động quĩ bảo hiểm thiếu hụt là nhãn
tiền.

Tình trạng thiếu hụt quĩ hưu trí không phải là vấn đề chỉ xảy ra cho Việt
Nam mà cả những quốc gia phát triển. Đó là lý do luật được sửa đổi nhằm điều
chỉnh tuổi hưu hoặc giảm lương hưu. Vẫn lời tiến sĩ Trịnh Hòa Bình:
Đó không phải là vấn đề của một nước, ở Việt Nam thì tôi không dùng
chữ trầm trọng mà nói là đáng kể hơn bởi vì đội ngũ làm công ăn lương quá
đông mà cái tham gia để làm ra của cải vật chất nó rất có hạn. Đương nhiên khi
cái vòng quay của lao động nhảy việc nó lớn quá, nó càng đông thì nó càng đe
dọa cái bảo trợ của Bảo Hiểm Xã Hội trong tương lai. Ví dụ cho rằng cỡ 25
năm thì được hưởng thì lực lượng lao động người ta chỉ làm 25 năm rồi người
ta quay trở về, khác với một số quốc gia phát triển thậm chí bây giờ làm đến 34
năm hoặc 40 năm chẳng hạn, thì nó đóng góp được vào cho nguồn quĩ nhiều
hơn.
Theo viện trưởng Viện Xã Hội Học Trịnh Hòa Bình, để có thể bảo đảm
cho sự an toàn của Bảo Hiểm Xã Hội thì phải tính toán lại từ đầu theo nguyên
tắc thị trường dù như Bảo Hiểm Xã Hội không được nhìn nhận như Bảo Hiểm
Thương Mại:
Nhưng rõ ràng muốn cho nó tồn tại được trong điều kiện bức tranh sản
xuất và hiệu quả kinh tế xã hội của đội ngũ lao động chưa đủ sức đảm bảo cái
tương lai cái hậu kỳ của quĩ đó, thì buộc lòng phải quay trở về với sự tính đúng
tình đủ thôi.

21
Website:

Website:
Tương tự như ý kiến mà chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long đưa ra ở trên,
chuyên gia xã hội Trịnh Hòa Bình đề cập đến chiêu thức giảm mức lương hưu
xuống.
Chiêu thức thứ hai quan trọng hơn, ông trình bày tiếp, là rà soát lại đội
ngũ lao động sản xuất trực tiếp hay gián tiếp:

Làm công ăn lương là làm ra làm chơi ra chơi cho đích đáng, chứ không
phải dàn hàng ngang mà tiến bình quân chủ nghĩa. Tức là một xu hướng bình
quân chủ nghĩa mà mọi người đều bám đều dựa vào nguồn quĩ chung và lao
động sản xuất không hiệu quả.
Những biện pháp khác, tiến sĩ Trịnh Hòa Bình nhấn mạnh, là độ tuổi về
hưu phải được tính toán lại, làm sao huy động được tối đa lực lượng lao động
nằm trong độ tuổi lao động tham gia vào sản xuất, làm ra của cải vật chất ngày
càng nhiều hơn để đóng góp hữu hiệu vào quĩ phúc lợi xã hội.
2.6 Vấn đề liên quan đến Quỹ hưu trí tự nguyện
Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 115/2013/TT-BTC hướng dẫn
bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện, có hiệu lực thi hành từ 15/10/2013.
Có rất nhiều luồng thông tin về thông tư này của Bộ như:
“Quỹ hưu trí tự nguyên là ích nước, lợi người lao động” hay
“Bắt buộc chưa xong, mong gì tự nguyện”
Nói chung: Các quy định về Quỹ hưu trí tự nguyện còn nhiều mập mờ
(!)
Góp ý cho dự thảo Thông tư hướng dẫn thiết lập quỹ hưu trí tự nguyện
và triển khai bảo hiểm hưu trí mà Bộ Tài chính vừa công bố lấy ý kiến, nhiều
ý kiến nhìn nhận, khá nhiều nội dung còn khó hiểu, mập mờ. Doanh nghiệp bảo
hiểm phải “vẽ” lợi nhuận trong 5 năm
Dự thảo quy định, hồ sơ xin phép triển khai sản phẩm bảo hiểm hưu trí
trình Bộ Tài chính phê duyệt, DN bảo hiểm phải dự kiến kết quả kinh doanh

22
Website:

Website:
sản phẩm bảo hiểm hưu trí trong vòng năm 5 năm tới, trong đó có các nội dung
về doanh thu, chi phí, lợi nhuận… Quy định này, theo nhiều ý kiến là… không
tưởng. Việc buộc DN “vẽ” ra kịch bản lợi nhuận trong vòng 5 năm, chẳng

những không phục vụ gì cho quản lý nhà nước, mà còn tạo cơ hội cho DN bảo
hiểm “lòe” khách hàng.
Theo dự thảo Thông tư, cơ cấu danh mục đầu tư của nguồn vốn nhàn rỗi
từ dự phòng nghiệp vụ của quỹ hưu trí tự nguyện và phần vốn đầu tư của quỹ
chủ sở hữu vào quỹ hưu trí tự nguyện gồm: mua trái phiếu chính phủ không
hạn chế, nhưng không thấp hơn 40% tổng giá trị tài sản đầu tư của quỹ; đầu tư
vào trái phiếu DN, trái phiếu chính quyền địa phương có bảo lãnh không vượt
quá 20% giá trị tài sản đầu tư của quỹ… Tổng giám đốc một công ty quản lý
quỹ đặt câu hỏi, sau một thời gian, do giá thị trường thay đổi, thì tỷ trọng các
loại tài sản thay đổi so với thời điểm mua, khi đó có cần phải điều chỉnh mua,
bán để thỏa mãn các tỷ lệ đầu tư vào các tài sản hay không? Trên thực tế, một
số quỹ đầu tư quy định hạn chế đầu tư chỉ áp dụng tại thời điểm mua.
Đối với quy định, quỹ hưu trí tự nguyện được mua trái phiếu chính phủ
không hạn chế, nhưng không thấp hơn 40% tổng giá trị tài sản đầu tư của quỹ,
vị tổng giám đốc trên cho rằng, ở giai đoạn đầu, tỷ lệ này sẽ thấp, vì công ty
quản lý quỹ, công ty bảo hiểm phải mất thời gian tìm trái phiếu chính phủ phù
hợp với tiêu chí đầu tư. Bởi vậy, để đảm bảo tính khả thi, dự thảo nên điều
chỉnh theo hướng quy định rõ sau thời gian bao lâu thì mới phải đáp ứng tỷ lệ
trên. Nếu có thể thì quy định mức tối đa thay vì mức tối thiểu để tránh gây khó
dễ cho công ty bảo hiểm, cũng như công ty quản lý quỹ.
Các quy định gây khó cho công ty quản lý quỹ
Có khá nhiều quy định chưa rõ, thậm chí được cho là bất hợp lý trong dự
thảo Thông tư, khiến công ty quản lý quỹ dễ gặp khó khi được thuê quản lý quỹ
bảo hiểm hưu trí tự nguyện.

23
Website:

Website:
Cụ thể, dự thảo quy định, để quản lý danh mục đầu tư các tài sản của quỹ

hưu trí tự nguyện, công ty quản lý quỹ phải có tối thiểu ba 3 cán bộ có kinh
nghiệm quản lý quỹ đầu tư dài hạn, trong số đó phải có tối thiểu 1 cán bộ có
năm 5 năm kinh nghiệm quản lý quỹ đầu tư dài hạn. Ở đây, phải hiểu kinh
nghiệm quản lý quỹ đầu tư dài hạn thế nào cho đúng? Quy định không rõ ràng
này có thể tạo ra ngáng trở cho công ty quản lý quỹ khi tham gia quản lý danh
mục của quỹ hưu trí tự nguyện.
Mặt khác, dự thảo quy định, DN bảo hiểm phải uỷ thác cho công ty quản
lý quỹ đầu tư tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện, hoặc thuê công ty quản lý quỹ
để quản lý danh mục đầu tư các tài sản của quỹ theo đúng hạn mức, mục tiêu,
chiến lược đầu tư của quỹ. Trên thực tế, mỗi công ty quản lý quỹ có thế mạnh
riêng. Liệu có thể cho phép DN bảo hiểm ký hợp đồng thuê quản lý đầu tư với
nhiều công ty quản lý quỹ khác nhau cho từng loại tài sản đầu tư vào trái phiếu
chính phủ, trái phiếu DN, cổ phiếu? Dự thảo chưa thể hiện rõ DN bảo hiểm có
thể làm việc này hay không.
Một quy định khó hiểu khác tại Điều 3 của dự thảo Thông tư là tài khoản
bảo hiểm hưu trí được tích luỹ với tỷ suất đầu tư do DN bảo hiểm công bố vào
cuối mỗi năm tài chính, nhưng không thấp hơn tỷ suất đầu tư tối thiểu được DN
bảo hiểm cam kết trong suốt thời hạn hợp đồng bảo hiểm hưu trí. Theo một
thành viên Câu lạc bộ Quản lý quỹ Việt Nam, quy định này là cứng nhắc, bởi
tình hình thị trường tài chính luôn biến động, nếu căn cứ vào tỷ suất đầu tư tối
thiểu được DN bảo hiểm cam kết trong suốt thời hạn hợp đồng bảo hiểm hưu
trí kéo dài hàng chục năm, để đưa ra tỷ suất đầu tư vào cuối mỗi năm tài chính,
sẽ gây khó khăn cho DN bảo hiểm trong quá trình thiết kế sản phẩm, đồng thời
khó tạo sự linh hoạt trong triển khai hoạt động đầu tư cho quỹ hưu trí tự nguyện.



24
Website:


Website:
PHẦN III
TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CÁC QUỸ HƯU TRÍ VIỆT NAM

3.1 Sự phát triển Quỹ hưu trí trên thế giới
Quỹ hưu trí, trong cả hai thị trường các nước phát triển và đang phát
triển, đã phát triển nhanh chóng trong thập kỷ qua . Ví dụ, các quỹ hưu trí trong
nhóm của Bảy (G-7) quốc gia này chiếm 45 phần trăm của GDP của các nước
này vào năm 2001, tăng so với 29 phần trăm trong năm 1991. Trong cùng thời
gian, tài sản quỹ hưu trí đã tăng lên 20 phần trăm của GDP.
Ở các nước phát triển , thay đổi nhân khẩu học là yếu tố chính thúc đẩy
sự tốc độ tăng trưởng tài sản quỹ lương hưu. Sự lão hóa nhanh chóng của dân
số ở các nước có tăng gánh nặng tài chính của hệ thống chi trả lương hưu quốc
gia kể từ khi tỷ lệ hỗ trợ, đó là tỷ lệ giữa những người đã nghỉ hưu và những
người vẫn còn làm việc, đã tăng lên đáng kể.
Walter (1999) ước tính rằng trong các tỷ lệ hỗ trợ Liên minh châu Âu
vào năm 2040 sẽ gấp đôi mức họ đã hỗ trợ trong năm 1990.
Nghi ngờ về tính bền vững của hệ thống chi trả lương hưu đã thúc đẩy
chính phủ tìm kiếm một cách tiếp cận khác nhau để cung cấp thu nhập hưu trí
chứ không phải là thực hiện bản sửa lỗi tạm thời như tăng tỷ lệ đóng góp, tăng
tuổi nghỉ hưu, hoặc cắt lợi cấp.
Sự mất cân bằng tài chính không bền vững ở các nước này buộc các
chính phủ để thực hiện trợ cấp cải cách ở một giai đoạn tương đối sớm. Về tài
sản thuộc quyền quản lý như phần trăm của GDP.
Mặc dù vậy, hệ thống hoàn toàn tài trợ ở Mỹ Latinh và Đông Âu vẫn còn
tụt hậu so với những người trong Canada , Vương quốc Anh, và Hoa Kỳ. Chile,
bắt đầu cải cách lương hưu trong năm 1981, là ngoại lệ duy nhất với tài sản của
quỹ lương hưu lên tới 50 phần trăm của GDP trong năm 2002. Cải cách lương

×