Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

MỘT số vấn đề lí LUẬN về QUẢN lý NHÀ nước về THƯƠNG mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.82 KB, 34 trang )

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ QLNN VỀ THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm và sự cần thiết của quản lý nhà nước (QLNN) về thương mại
1.1.1 Khái niệm:
QLNN về thương mại là một bộ phận hợp thành của quản lý nhà nước về kinh tế, đó là sự
tác động có hướng đích, có tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý về thương mại các cấp đến hệ
thống bị quản lý thông qua việc sử dụng các công cụ và chính sách quản lý nhằm đạt mục tiêu
đã đặt ra trong điều kiện môi trường xác định.
- QLNN về thương mại bao giờ cũng là một quá trình thực hiện và phối hợp bốn loại chức
năng cơ bản: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát của các cơ quan quản lý vĩ mô về
thương mại các cấp.
- Thực chất của QLNN về thương mại là nhà nước sử dụng quyền lực của mình trong điều
hành và quản lý thương mại thông qua việc ban hành và sử dụng các công cụ kế hoạch hóa,
chính sách, luật pháp và các quy định khác về thương mại để tác động tới các chủ thể người bán,
người mua và các hoạt động, quan hệ trao đổi trên thị trường. Sự tác động của hệ thống QLNN
về thương mại đến đối tượng trao đổi luôn đặt trong mối quan hệ với môi trường cụ thể, nhằm
đạt mục tiêu đã xác định trong từng thời kỳ.
1.1.2 Đặc điểm của QLNN về thương mại
QLNN về thương mại vừa tuân thủ những đặc điểm chung của QLNN về kinh tế là:
Bao gồm 2 hệ thống, trung tâm của quản lý là con người, trao đổi thông tin và liên hệ
ngược, tác động với môi trường và quản lý đều hướng tới mục tiêu cụ thể
Ngoài ra, nú cũn thể hiện những đặc điểm đặc thù của lĩnh vực thương mại (thể hiện ở hệ
thống quản lý và bị quản lý, mục tiêu và phương tiện, phương pháp để đạt mục tiêu, quan hệ lợi
ích kinh tế và công nghệ kỹ thuật kinh doanh, tính định hướng về thị trường và người tiêu dùng,
tính đa phương diện và liên ngành, liên quốc gia).
1.1.3 Sự cần thiết của QLNN về thương mại
QLNN về thương mại trong nền kinh tế thị trường là cần thiết khách quan, do:
- Nhà nước phải thể hiện vai trò, trách nhiệm trong việc giảm thiểu những khuyết tật của
kinh tế và cơ chế thị trường gây nên. Mặt khác, do Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc
định hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung, cũng như kinh tế thương mại nói riêng trong
từng thời kỳ. Nhà nước phải là người điều tiết kinh tế và thị trường, các quan hệ thương mại
bằng các cơ chế chính sách khác nhau nhằm đảm bảo sự ổn định và tăng trưởng kinh tế vĩ mô


- 1 -
theo mục tiêu đã xác định, ổn định thị trường và giá cả, cải thiện, nâng cao mức sống dân cư,
thúc đẩy công bằng và tiến bộ xã hội.
- Do trong nền kinh tế thị trường, bản thân nó có nhiều mâu thuẫn mà tự nó không thể giải
quyết hay tự điều chỉnh được (chăng hạn, mâu thuẫn giữa mua và bán, xuất khẩu và nhập khẩu,
giữa kinh doanh theo pháp luật và buôn bán, kinh doanh trái phép, hàng giả hàng nhái, trốn lậu
thuế,…). Do đó cần thiết phải có vai trò quản lý của Nhà nước băng các công cụ chính sách và
pháp luật về kinh tế, thương mại mới giải quyết được.
- QLNN về thương mại tạo ra sự thống nhất về thị trường nội địa và quốc tế, bảo đảm các
điều kiện và yếu tố về môi trường cần thiết, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, cho
sự thông suốt của lưu thông hàng hóa, đảm bảo tính liên tục của hoạt động trao đổi dịch vụ.
Đồng thời, chỉ có sự quản lý thống nhất của Nhà nước về kinh tế, thương mại mới giúp cho việc
khai thác thế mạnh của từng vùng, từng địa phương và phát huy lợi thế so sánh của quốc gia
trong phát triển thương mại quốc tế.
- Ngày nay, trong quá trình mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đều
tìm mọi cách để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Do vậy, vai trò của QLNN về thương mại
cần phải được tăng cường. Các quốc gia có xu hướng liên kết, hợp tác trong QLNN về kinh tế
thương mại thể hiện ở việc xây dựng các chính sách, luật pháp theo khuôn khổ hợp tác song
phương hoặc đa phương, tôn trọng và thực thi các điều ước quốc tế, phối hợp, hỗ trợ nhau trong
quản lý và kiểm soát buôn bán để thúc đẩy thương mại phát triển, hạn chế và ngăn chặn những
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường gây nên.
1.2 Chức năng của QLNN về thương mại
1.2.1 Kế hoạch hóa thương mại.
Kế hoạch hoá thương mại là toàn bộ quá trình hoạch định và triển khai thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển thương mại của quốc gia trên phạm vi
của cả nước, của từng địa phương, từng vùng và theo từng ngành hàng, ngành dịch vụ phù hợp
với yêu cầu, mục tiêu của kế hoạch hóa kinh tế quốc dân, của quá trình CNH, HĐH đất nước và
hội nhập quốc tế.
Nhà nước thực hiện chức năng kế hoạch hoá để định hướng, hướng dẫn hoạt động kinh
doanh của các chủ thể tham gia thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Giúp các

doanh nghiệp có sự lựa chọn và quyết định đúng đắn về chiến lược, chính sách và kế hoạch đầu
tư, sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển.
- 2 -
Trong những năm qua, công tác kế hoạch hóa thương mại ở nước ta đã có nhiều thay đổi
tích cực đáp ứng yêu cầu của đổi mới QLNN theo kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thể
hiện ở chỗ, nhà nước đã xây dựng nhiều văn bản kế hoạch hóa thương mại như:
Chiến lược phát triển thương mại Việt Nam và Chiến lược XNK giai đoạn 2001-2010 và
tầm nhìn 2020
Quy hoạch tổng thể phát triển mạng lưới chợ trên phạm vi toàn quốc đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020
Đề án phát triển thương mại trong nước giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020.
Đề án xây dung và phát triển thương hiệu quốc gia đến năm 2010.
Đề án tiếp tục tổ chức thị trường trong nước và tập trung phát triển thương mại nông thôn
đến năm 2010.
Chiến lược phát triển xuất khẩu dịch vụ Việt Nam giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến
2015.
Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch
vụ thời kỳ 2001-2010.
Các chương trình xúc tiến thương mại xuất khẩu hàng năm, …
Đổi mới công tác kế hoạch hóa trong QLNN về thương mại, cần phải đổi mới cả về nhận
thức và tổ chức công tác kế hoạch hoá thương mại (không phải chỉ dừng lại ở việc hoạch định,
mà cần phải tổ chức thực hiện phù hợp với cơ chế thị trường để hiện thực hóa các mục tiêu của
kế hoạch hóa); cải tiến nội dung, phương pháp và hoàn thiện bộ máy kế hoạch hoá thương mại;
tăng cường các phương tiện kỹ thuật và nâng cao trình độ nguồn nhân lực làm công tác chiến
lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển thương mại, nhất là trong bối cảnh hội nhập và cạnh
tranh quốc tế hiện nay.
1.2.2 Ban hành các văn bản pháp luật và chính sách về quản lý thương mại.
Nhà nước thiết lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý, sử dụng bộ máy này để soạn
thảo và ban hành các văn bản pháp quy về quản lý thương mại.
Các văn bản QLNN về thương mại được soạn thảo và ban hành bao gồm các bộ Luật, các

luật chung và chuyên ngành, các pháp lệnh, các nghị định, quyết định, chỉ thị của chính phủ
hoặc thủ tướng chính phủ để cụ thể hoá văn bản luật, pháp lệnh, các thông tư hướng dẫn thực thi
chính sách luật pháp của các bộ ngành, các quyết định của UBND các cấp cụ thể hoá trong
phạm vi QLNN trong phạm vi phân cấp cho địa phương.
1.2.3 Tổ chức và phối hợp hoạt động QLNN về thương mại.
- 3 -
Nhà nước thiết lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý, sử dụng bộ máy này để hoạch
định các chiến lược, qui hoạch, chính sách, các văn bản pháp quy khác về quản lý thương mại .
Đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ máy tổ chức để triển khai thực hiện những công việc thuộc
về chức năng quản lý nhà nước, nhằm đưa chính sách, pháp luật vào thực tiễn kinh doanh của
doanh nghiệp, biến chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển thương mại thành hiện thực.
Hoạt động thương mại rất đa dạng, diễn ra trên phạm vi cả nước và từng địa phương, từng
vùng, ở cả thị trường trong và ngoài nước, liên quan tới nhiều bộ, ngành. Do vậy, nhà nước phải
có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý về thương mại các cấp Trung ương và tỉnh (Thành
phố), giữa các ngành thương mại, dịch vụ với các ngành sản xuất trong nền kinh tế, giữa chính
phủ, quốc hội, tòa án. và cơ quan khác. Trong thương mại quốc tế, chức năng này được thể hiện
ở sự phối hợp giữa các quốc gia có quan hệ thương mại song phương hoặc trong quan hệ thương
mại của từng khối kinh tế nhằm đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực hiện các cam kết đã ký kết
Để thực hiện hiện chức năng này, nhà nước phải tạo lập cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
thương mại thích hợp, phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các cơ quan, bộ ngành ở trung ương
cũng như các sở, ngành ở địa phương, quy định phân cấp quản lý và sự phối hợp chặt chẽ giữa
các tổ chức đó. Chức năng này còn bao gồm việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực đủ khả
năng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của công tác quản lý nhà nước về thương mại đặt ra và sử
dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đó trong từng thời kỳ phát triển.
1.2.4 Thanh tra, kiểm soát các hoạt động thương mại, xử lý vi phạm và các tranh chấp
thương mại.
Các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải tuân thủ các quy
định chính sách và luật pháp của nhà nước về thương mại. Nhà nước kiểm soát các quan hệ trao
đổi buôn bán trên thị trường giữa các bên thông qua bộ máy tổ chức và bằng việc sử dụng các
phương pháp, công cụ quản lý khác nhau. Nhà nước giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh

doanh cũng như việc chấp hành các chế độ quản lý của các chủ thể đó (như đăng ký kinh doanh,
chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm, quyền sở hữu trí tuệ, tình trạng môi trường, nghĩa vụ nộp
thuế và chấp hành các quy định khác trong kinh doanh, ). Nhà nước kiểm soát trực tiếp hoạt
động sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước để đảm bảo
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tài sản của quốc gia cho các mục tiêu phát triển kinh tế – xã
hội trong từng thời kỳ.
Công tác thanh tra phải phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp
luật và các qui định chính sách của Nhà nước như buôn bán hàng cấm, kinh doanh các dịch vụ
- 4 -
không được phép, gian lận thương mại, buôn lậu, làm hàng giả, cạnh tranh không lành mạnh, lập
các báo cáo về tài chính sai sự thật, các hoạt động lừa đảo, các tranh chấp thương mại trên thị
trường trong vfa ngoài nước, Từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh (hoặc giải pháp phòng
ngừa, ngăn chặn hoặc xử phạt theo các quy định hành chính, luật pháp) thích hợp nhằm tăng
cường hiệu quả của quản lý nhà nước về thương mại. Đây chính là 2 mục tiêu cơ bản của chức
năng kiểm soát và nội dung quan trọng của hoạt động thực thi pháp luật trong quản lý nhà nước
về thương mại
1.3 Vai trò của QLNN về thương mại
1.3.1 Định hướng, hướng đẫn đối với các chủ thể thương mại (doanh nghiệp)
Vai trò định hướng, hướng dẫn của nhà nước trong lĩnh vực thương mại được thể hiện
thông qua các chiến lược, quy hoạch, các chương trình mục tiêu, các dự án, kế hoạch và chính
sách. Nhờ vậy, các doanh nghiệp mới có cơ sở để tính toán, lựa chọn các quyết định đầu tư và
kinh doanh theo các ngành hàng, các nhóm sản phẩm dịch vụ, theo phạm vi thị trường và theo
độ dài thời gian cũng như liên kết, liên doanh với các đối tác một cách hợp lý.
Để giúp doanh nghiệp có định hướng đầu tư và kinh doanh đúng đắn, các văn bản kế hoạch
hoá và chính sách thương mại cũng như pháp luật của nhà nước cần phải minh bạch, rõ ràng,
thống nhất và đồng bộ. Cần có sự hướng dẫn cụ thể của các cơ quan quan lý nhà nước để doanh
nghiệp dễ dàng tiếp cận các thông tin về chiến lược, chính sách, quy hoạch, dự án , và thông
hiểu các quyết định của nhà nước. Chất lượng của công cụ kế hoạch hoá, chính sách và bộ máy
tổ chức trong quản lý nhà nước về thương mại được tăng cường mới tạo niềm tin, sự yên tâm
cho các doanh nghiệp trong tính toán, quyết định phương án đầu tư, sản xuất kinh doanh.

1.3.2 Tạo lập môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Môi trường thương mại và cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, luật pháp và thủ
tục hành chính. Các thông tin về kế hoạch hoá thương mại nếu bị thiên lệch trong quá trình phổ
biến cho các doanh nghiệp, các quy định chính sách nếu phân biệt đối xử sẽ bóp méo cạnh tranh,
thủ tục hành chính rườm rà, khung khổ pháp lý nếu không đầy dủ, đồng bộ, nhất quán và minh
bạch sẽ gây trở ngại cho thương mại trên nhiều mặt, dẫn đến cả tổn thất về vật chất, tài chính và
tinh thần, văn hoá. Do vậy quản lý Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập, cải
thiện môi trường kinh doanh, nhất là trong điều kiện môi trường kinh doanh luôn có sự vận động
biến đổi không ngừng.
Nhà nước tạo lập và cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp thông qua khai
thông các quan hệ thương mại, làm thông thoáng sự giao lưu hàng hoá trong nước và quốc tế,
- 5 -
nhờ thiết lập khung khổ pháp lý đầy đủ hơn, đồng bộ hơn, tiến bộ hơn và thuận lợi hơn trong
lĩnh vực thương mại bao gồm các quy định pháp luật, các chính sách, ký kết các hiệp định, thực
hiện các cam kết mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế.
Nhà nước vừa là người ban hành các chính sách, các quy định, vừa là người chịu trách
nhiệm tổ chức thực hiện nhằm đưa chúng vào thực tiễn cuộc sống của các doanh nghiệp. Trong
quá trình đó, nhà nước đã sử dụng quyền lực, sứ mạng và khả năng của mình để kiến tạo môi
trường kinh doanh. Nếu môi trường kinh doanh phù hợp, nghĩa là có sự đồng thuận, thống nhất
giữa nhà nước và doanh nghiệp, chính phủ trong trường hợp này đã ủng hộ thị trường, tôn trọng
và phát huy tính hiệu quả của thị trường.
Để tạo ra môi trường kinh doanh trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh ở mức độ cao hiện
nay, nhất là mục tiêu của doanh nghiệp là có nhiều di động, đòi hỏi các nhà quản lý vĩ mô cũng
phải đổi mới nhận thức và tư duy về các công cụ, chính sách quản lý, nâng cao trình độ, năng
lực và phẩm chất trong việc ra quyết định cũng như phối hợp lãnh đạo, điều hành hoạt động kinh
tế, thương mại.
1.3.3 Điều tiết các hoạt động thương mại và thị trường.
Nhà nước một mặt hướng dẫn, khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động theo định hướng
thông qua chiến lược, quy hoạch, các chương trình dự án và kế hoạch vĩ mô đã vạch ra. Mặt
khác, nhà nước phải điều tiết thị trường khi cần thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì

sức mạnh nền tài chính quốc gia, giữ vững sức mua của tiền tệ, bảo đảm lợi ích của người sản
xuất và người tiêu dùng.
Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết thị trường và
thương mại, xử lý đúng đắn mâu thuẫn của các quan hệ trao đổi. Những biện pháp khuyến khích
hay hạn chế thương mại thường được sử dụng là thuế quan và các biện pháp phi thuế. Để điều
tiết thị trường, trong nhiều trường hợp nhà nước phải sử dụng thực lực kinh tế nhà nước để điều
hoà cung cầu, ổn định giá cả thị trường, nâng cao sức mua xã hội. Nhà nước còn sử dụng các
biện pháp hành chính, các công cụ mang tính kỹ thuật khác để tác động vào thị trường và các
quan hệ trao đổi.
Xu hướng Nhà nước sẽ dần thoát ly khỏi hoạt động kinh doanh, nhưng vai trò quản lý
thương mại của Nhà nước phải được tăng cường để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường,
đồng thời sử dụng thị trường và kinh tế thị trường phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, khu vực tư nhân cũng sẽ được sử dụng nhiều
- 6 -
hơn trong các biện pháp điều tiết thị trường, kể cả tham gia vào cung cấp các dịch vụ hạ tầng
thương mại, các dịch vụ công và các dịch vụ xã hội khác.
1.3.4 Hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp trong quá trình hình thành và phát triển.
Hoạt động thương mại đòi hỏi doanh gia phải có nhiều tố chất, điều kiện nhưng có những
vấn đề chỉ nhà nước mới có thể giải quyết được cho nhà kinh doanh như an ninh thương mại
hoặc phần lớn do nhà nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh doanh. Nhà nước là chỗ dựa tin cậy và
tốt nhất cho các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh và đầu tư, cạnh tranh cùng tồn tại và
phát triển.
Các doanh nghiệp đều là “một thực thế sống” trong nền kinh tế, họ cũng cần những sự trợ
giúp nhất định. Nhà nước bằng quyền lực, trách nhiệm và khả năng của mình hỗ trợ cho các
doanh nghiệp phù hợp với thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ. Nhà nước có thể hỗ trợ cho
mọi người dân và doanh nghiệp về ý chí làm giàu, hỗ trợ về tri thức, về vốn, cơ sở vật chất
phương tiện kỹ thuật và thông tin, các hỗ trợ về xúc tiến thương mại, các thủ tục hành chính để
giúp doanh nghiệp ở những giai đoạn, những hoàn cảnh và những trường hợp khác nhau trong
quá trình họat động. Đặc biệt, khi đối mặt với thách thức của môi trường kinh doanh luôn biến
động. Tuy nhiên, những hỗ trợ mang tính trợ cấp bóp méo thương mại và cạnh tranh sẽ bị loại

bỏ trong xu hướng hội nhập và phát triển.
1.4 Các nguyên tắc và phương pháp QLNN về thương mại.
1.4.1 Các nguyên tắc QLNN về thương mại
a/ Thống nhất lãnh đạo về chính trị và kinh tế
b/ Tập trung và dân chủ
c/ Phân cấp và phân quyền
d/ Kết hợp quản lý theo ngành, địa phương và vùng
e/ Tính hiệu lực và hiệu quả
g/ Khác (phối hợp liên ngành, liên quốc gia, quản lý theo pháp luật và thông lệ quốc tế, )
1.4.2 Các phương pháp QLNN về thương mại
a/ Giáo dục, tuyên truyền
b/ Kinh tế
c/ Hành chính
d/ Kết hợp các phương pháp
- 7 -
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
ĐỐI VỚI MẶT HÀNG GẠO XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM
Việt Nam vẫn đang là nước dẫn đầu trong hoạt động xuất khẩu gạo. Với những lợi thế
tuyệt đối về địa lý, lao động và thời tiết phù hợp cho cây lúa nước, nước ta đang ngày càng
nâng cao giá trị của hạt gạo, từ đó nâng cao đời sống người nông dân. Tuy nhiên, nguồn cung
của hoạt động xuất khẩu và thương mại mặt hàng gạo lại chịu tác động từ hoạt động sản xuất ra
chúng. Việc trồng lúa gạo phụ thuộc vào tác động của thời tiết, thiên tai, do đó hoạt động
thương mại mặt hàng gạo cũng bị ảnh hưởng theo. Cụ thể năm 2008, thị trường lương thực thế
giới biến động mạnh mẽ do thời tiết xấu, gây mất mùa lúa gạo trên thế giới. Đẩy giá lúa gạo
tăng cao gấp 2 tới 3 lần trong thời điểm đó. Do vấn đề an ninh lương thực, nên các ban ngành
đã ra quyết định hạn chế xuất khẩu gạo để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Tuy nhiên vụ
sau đó nông dân lại được mùa lớn, chính sách xuất khẩu không thay đổi kịp thời đã dẫn đến giá
gạo giảm nhanh chóng, mất thị trường xuất khẩu gạo dẫn đến thiệt hại kinh tế lớn cho đất nước
và người dân lao động.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là châu Á (chiếm khoảng gần 50%

tổng
xuấ
t
khẩu),
và châu Phi chiếm khoảng trên 40%, còn lại là châu Mỹ và châu Âu chiếm
khoảng dưới 10%. Hiện nay gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm 14,3% thị trường châu Á,
17,5% thị trường châu Phi, 16,03% thị trường Mỹ Latinh và Caribê. Mặc dù đến nay gạo Việt
Nam có mặt trên 80 quốc gia thuộc các châu lục khác nhau, nhưng phần gạo xuất khẩu qua
khâu trung gian vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Trong đó Pháp chiếm 30-40%, Hồng Kông chiếm 10
- 15%, Thái Lan 9%, Malaixia 10%, Indonesia 3 - 4% tổng lượng gạo xuất khẩu. Hoặc xuất
sang Singapore để tái xuất vì không tìm được thị trường trực tiếp.
Thực tế Việt Nam chưa xây dựng được hệ thống bạn hàng trực tiếp tin cậy, doanh thu
xuất khẩu giảm do phải chi khoản hoa hồng môi giới. Để tăng cường xuất khẩu gạo trực tiếp
được nhanh chóng, cùng với sự chủ động của bản thân doanh nghiệp trong việc tìm kiếm
bạn hàng, Nhà nước cần hỗ trợ hoạt động xúc tiến
thương mại, mở rộng quan hệ cấp Chính
phủ xung quanh việc buôn bán gạo.
Sản lượng gạo xuất khẩu tăng mạnh, từ năm 1989 chỉ đạt 1,425 triệu tấn, năm 2000 là
3,476 triệu tấn thì đến năm 2011 sản lượng gạo xuất khẩu của nước ta đã là trên 7,5 triệu tấn.
- 8 -
Đem về gần 4 tỷ USD cho quốc gia. Trong đó tỷ lệ tấm gạo ngày càng giảm với chủ yếu gạo
xuất khẩu là gạo 5%, 10% và 15% tấm. Từ đó gia tăng giá trị gạo thương phẩm, thâm nhập
được thị trường khó tính và tăng tính cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường.
Tuy chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, không còn bao cấp của Nhà nước,
nhưng vai trò của Nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế ở tầm vĩ mô lại càng cần thiết
hơn. Bởi nếu để nền kinh tế vận hành theo quy luật cung-cầu dễ dẫn đến sự mất cân đối lớn
trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động xuất khẩu gạo nói riêng. Chúng ta đều biết
không phải lúc nào quan hệ cung cầu cũng vận hành theo quy luật thực tế của thị trường, đôi
khi nó lại tác động xấu đến nền kinh tế. Lúc này cần có tác động kịp thời của con người, cụ thể
Nhà nước, vào nền kinh tế nhằm mục đích hướng nó có lợi cho nền kinh tế.

Trong những năm gần đây xảy ra tình trạng mất cân đối trong sản xuất và xuất khẩu lúa
gạo. Nguyên nhân do thiếu sự chỉ dẫn, và quy hoạch cụ thể từ Trung ương đến địa phương, cứ
mạnh ai nấy làm. Lúc này Nhà nước đã có những quy hoạch tổng thể để hướng dẫn nông dân
căn cứ vào điều kiện về đất đai, khí hậu, và thời vụ nên phát triển giống cây nào là phù hợp
nhằm phát huy tối đa lợi thế của từng vùng. Chẳng hạn, đối với các tỉnh Nam Định, Thái
Bình, Hải Dương nên phát triển giống lúa thơm đặc sản, giảm giống lúa đại trà, trong khi các
vùng khác lại phát triển những giống lúa lai đại trà sẽ cho năng suất và chất lượng cao hơn.
Bằng cách này, chúng ta sẽ nâng dần tỷ trọng xuất khẩu loại gạo thơm đặc sản, mà vẫn không
giảm những chủng loại gạo khác, đa dạng hoá xuất khẩu gạo hiện nay.
Ngoài ra, cứ sắp đến vụ sản xuất mới hay vào dịp cuối năm, người nông dân đa số cần
tiền để mua sắm, lúc này số lượng lúa gạo bán ra rất lớn, dẫn đến cung vượt cầu. Đây là cơ hội
tốt để tư thương chèn ép giá người nông dân càng nhiều càng tốt, gây thiệt hại lớn cho họ -
những người một nắng hai sương làm ra hạt thóc để rồi bị tư thương bắt chẹn mà không biết
kêu ai. Trong trường hợp này, Nhà nước đã có chính sách bỏ tiền ra để mua tạm trữ cho vào
kho quốc gia hoặc các đơn vị, nhằm tạo điều kiện ổn định giá cả tránh thua lỗ quá lớn cho
người nông dân. Bên cạnh đó chính phủ cũng chủ chương hỗ trợ người nông dân thông qua
các chương trình về hỗ trợ kỹ thuật trồng trọt, miễn thuế sử dụng đất với người trồng lúa…
Hoặc cho người nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi đề đầu tư và sẽ thanh toán vào vụ thu
hoạch.
Thực tế cho thấy nếu Nhà nước càng đầu tư lớn vào lĩnh vực này thì hiệu quả xuất khẩu
càng cao. Vì với sự cải tiến giống mới sẽ cho năng suất cao, phòng chống sâu bệnh, tăng chất
lượng gạo xuất khẩu. Ví dụ, giai đoạn 1991 - 1995, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
- 9 -
đã công nhận 44 giống mới và cho áp dụng vào canh tác trên diện tích 440.000 ha. Do năng
suất tăng tối thiểu 0,50 tạ/ha, nên tổng sản lượng tăng là 220.000 tấn, với giá thóc 1.500
đồng/kg, giá trị do sản lượng lúa mang lại là 1,5 triệu x 220.000 = 330.000 triệu đồng trong khi
kinh phí đầu tư cho chương trình tạo giống lúa hàng năm chỉ khoảng 1 tỷ đồng.
Hơn nữa, Nhà nước có thể đầu tư đồng bộ từ khâu sản xuất - thu hoạch - chế biến - vận
chuyển – bảo quản, vừa nâng cao chất lượng gạo vừa tránh tình trạng “tổn thất trong nhà” như
hiện nay, tăng về lãi suất thấp để họ kịp tiến hành sản xuất vụ mới. Như vậy, cả người nông

dân cũng có lợi và Nhà nước cũng góp phần nâng cao đời sống của người dân, giúp xoá đói
giảm nghèo.
Hoặc sự quan tâm đầu tư của Nhà nước vào khoa học kỹ thuật, đặc biệt khâu lai tạo
giống mới mặt sản lượng. Năng suất lúa tăng từ khoảng 3 tấn/hecta nay là 6,2 – 6,3 tấn/hecta.
Cũng theo theo kết quả điều tra của Viện Công nghệ sau thu hoạch và Tổng cục Thống kê, tỷ
lệ tổn thất bình quân sau thu hoạch lúa của Việt Nam như sau:
- Khâu thu hoạch: 1,2 - 1,7%
- Khâu vận chuyển: 1,2 - 1,5%
- Khâu đập (tuốt): 1,4 – 1,8%
- Khâu phơi (sấy): 1,9 – 21,%
- Khâu bảo quản: 3,2 –3,9%
- Khâu xay xát chế biến: 4,1 – 5,0%
- Tổng số: 13,0 – 16,0%
Mức tổn thất trong 3 khâu phơi, bảo quản, và xay xát chế biến chiếm 68 – 70%, trong khi
ở các nước tiên tiến chỉ chiếm 3,9 – 5,6%. Như vậy, khi giảm được 30% tổn thất sau thu hoạch,
chúng ta có thể tận thu thêm được một lượng thóc đáng kể, lên tới 850.000 tấn và tương đương
với 135.000 ha canh tác lúa. Do đó việc đầu tư vào chất lượng gạo, máy móc và quy trình hợp
lý sẽ thúc đẩy không chỉ sản lượng lúa gạo tăng mà chất lượng lúa gạo cũng tăng theo.
Trái ngược với khoảng 10 năm trước đây, những người nông dân với những công cụ thô
sơ, thiếu thốn máy móc, khoa học công nghệ khi làm ruộng thì nay với chương trình hỗ trợ của
chính phủ: hệ thống thủy lợi đã được xây dựng tương đối rộng khắp, cung cấp nước cho đồng
ruộng, máy gặt, máy cày giúp gia tăng năng suất, tiết kiệm thời gian và tăng hiệu quả cho người
nông…Những chính sách của nhà nước hỗ trợ hoạt động sản xuất lúa gạo là thực sự cần thiết,
đã đem lại những tác động tích cực. Chỉ khi có nguồn cung đảm bảo về chất lượng và số lượng
- 10 -
thì khi đó lúa gạo của Việt Nam mới thực sự chiếm lĩnh thị trường thế giới, góp phần vào xóa
đói giảm nghèo và thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.
Đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng như cảng biển, hệ thống thông tin phục vụ hoạt
động xuất khẩu nhằm giảm chi phí vận chuyển, chi phí lưu thông gạo, góp phần hạ giá thành
xuất khẩu. Về cảng xuất khẩu yêu cầu cơ bản là phải có cảng chuyên dùng cho hoạt động

xuất khẩu gạo với trang thiết bị hiện đại, có thể bốc xếp cả hàng rời và hàng đóng bao, năng
lực bốc dỡ cao (từ 2000 tấn/ngày trở lên); khả năng tiếp nhận tàu lớn (tải trọng từ 20.000 –
30.000 tấn); và phải có hệ thống trung chuyển quy mô lớn, kỹ thuật bảo quản hiện đại và đóng
gói ngay tại kho cảng trước khi giao hàng lên tàu. Trên thực tế, chúng ta chưa có cảng chuyên
dùng xuất khẩu gạo.
Các năm qua, phần lớn gạo xuất khẩu (khoảng 80%) đều thông qua cảng Sài Gòn, một
cảng xuất nhập hàng hoá tổng hợp, có năng lực thông quan hàng hoá hiện nay của cảng hơn
7,3 triệu tấn/năm. Trong đó riêng mặt hàng gạo xuất khẩu chiếm hơn 30%. Tuy nhiên, năng
suất bốc xếp gạo của cảng chỉ đạt bình quân 800 – 1000 tấn/ngày. Trong những năm đây,
Ngành Giao thông Vận tải cũng đã cố gắng rất nhiều để đưa thêm cảng Cần Thơ vào hoạt động
xuất khẩu gạo, nhưng khả năng của cảng Cần Thơ chỉ tiếp nhận an toàn các tàu tải trọng từ
3000 – 5000 tấn (đối với tàu cỡ 10.000 tấn cập cảng không an toàn). Điều này chưa phù hợp
với tính hiệu quả trong vận tải hàng hải, nên cảng này mới đang trong giai đoạn thử nghiệm.
Dự kiến trong vòng 10 - 20 năm tới, cảng Sài Gòn vẫn giữ vị trí quan trọng hàng đầu.
Do vậy nếu giải quyết tốt các hoạt động phụ trợ nêu trên sẽ góp phần nâng cao đáng kể
giá bán sản phẩm. Qua đó nâng cao hiệu quả và thu nhập ngoại tệ trong kinh doanh xuất khẩu
gạo.
Hiện tại để đảm bảo hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp, Nghị định 109 quy
định về điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo đi vào thực thi. Tính đến ngày 20/12/2011 đã cấp
phép cho 150 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu gạo, ngoài ra có 4 doanh nghiệp FDI cũng
được cấp phép. Kỳ vọng ban đầu của những nhà hoạch định chính sách và cả các doanh nghiệp
lớn ngành gạo duy trì khoảng 80 doanh nghiệp xuất khẩu, tuy nhiên số lượng đăng ký được
cấp phép đã vượt xa dự kiến. Nghị định 109 và quyết định 560 của Bộ Nông Nghiệp cũng nêu
rõ về các điều kiện tiên quyết để một doanh nghiệp được phép tham gia xuất khẩu gạo. Việc
quy định chặt chẽ như vậy nhằm đảm bảo sự quản lý của nhà nước về thị trường gạo, tránh
hoạt động gian lận thương mại của các tiểu thương, con buôn, gây lũng loạn thị trường và thiệt
hại cho nền kinh tế. Bên cạnh đó với những tiêu chuẩn như vậy sẽ đảm bảo cho hoạt động xuất
- 11 -
khẩu thực sự hiệu quả với sản lượng, quy mô và chất lượng của gạo xuất khẩu.
Có thể thấy rằng sự phối hợp giữa các bộ ban ngành trong quản lý thương mại mặt hàng

gạo ngày đạt được hiệu quả. Cụ thể trước thông tin xuất hiện gạo giả trên địa bàn Hà Nội: Chiều
ngày 5-4, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP), Bộ Y tế đã có văn bản chính thức thông
báo kết quả xác minh về thông tin xuất hiện “gạo giả” trên thị trường Hà Nội. Qua xác minh
các mẫu nghi là gạo giả thì kết quả cho thấy rằng các tiêu chí về thành phần và dinh dưỡng đều
đảm bảo đây là gạo thật, và khẳng định là chưa phát hiện gạo giả trên thị trường. Từ đó tạo sự
an tâm nơi người tiêu dùng và các thị trường xuất khẩu gạo của nước ta.
- 12 -
Bên cạnh đó, Bộ Công thương vừa ban hành Thông tư số 37/2010/TT- BCT hướng dẫn
về việc nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan năm 2010 và 2011 với thuế suất thuế nhập
khẩu (NK) 0% đối với thóc gạo và lá thuốc lá có xuất xứ từ Campuchia. và Trong năm
2012 sẽ có 3.000 tấn lá thuốc lá và 70.000 tấn gạo từ Lào nhập khẩu vào Việt Nam được
hưởng thuế suất 0%. Đây là những yếu tố thúc đẩy phát triển thương mại hai bên.
Việc nhập khẩu gạo từ Lào và Campuchia sẽ làm phong phú thị trường trong nước.
Đảm bảo sự cạnh tranh và cũng làm tăng sức mạnh xuất khẩu. Song song với đó, đây
cũng là chính sách chung trong phát triển kinh tế đất nước. Đảm bảo hoạt động
thương mại hai chiều và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Việc xây dựng chính sách quốc gia với quản lý thương mại mặt hàng gạo không chỉ
dựa trên hoạt động trong nước mà còn dựa trên những cam kết chung với các tổ thức
kinh tế, hiệp hội và chính sách mà các nước nhập khẩu đưa ra. Ví dụ như các tiêu chí
về tỷ lệ tấm gạo 5%, 10% hay các tiêu chí về gạo thơm, tỉ lệ chất bảo quản…Đây là
những tiêu chí quyết định đến việc gạo của Việt Nam có thâm nhập vào thị trường
nước bạn hay không. Như việc ra chính sách hạn chế nhập khẩu của 4 nước
Indonesia,

philippin, Bangladesh và Brazil sẽ buộc các nước xuất khẩu như Việt Nam phải tìm các thị
trường mới nếu muốn tiếp tục duy trì sản lượng và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gạo hằng
năm. Hay việc sự trở lại của Ấn Độ trong những nước xuất khẩu gạo làm giảm thị
phần của Việt Nam và tăng sự cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Với việc Ấn Độ
xuất khẩu gạo chủ yếu có tỷ lệ tấm cao trên 10%, thì thị trường mà cạnh tranh với
Việt Nam sẽ khác, đó là những thị trường ít đòi hỏi chất lượng hơn, dễ tính hơn như:

Philipin, Indonesia…Cùng với Nga và một số nước khác tiến hành đánh thuế cao với
gạo nhập khẩu cũng gây khó khăn trong xây dựng chính sách xuất khẩu gạo của
nước ta.
Trước tình hình đó, Chính phủ vẫn tiếp tục hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo
dựa trên hoạt động trong quá trình xuất khẩu: miễn thuế, thủ tục, kèm theo đó cũng có chính
sách đảm bảo nguồn cung gạo. Quản lý thị trường, tránh lũng loạn của gian thương, đầu cơ tích
trữ, đẩy giá cả lên cao. Đảm bảo kho bãi, đảm bảo chất lượng gạo nhằm tạo thương hiệu cho gạo
Việt Nam. Việc lên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và đối tác nước ngoài thông qua về kỹ
thuật, ngôn ngữ, văn bản, các hội chợ, mời đầu tư, giới thiệu tới bạn bè quốc tế về gạo Việt
Nam. Các Website, hội chợ ảo: Thitruongluagao.com, nongnghiep.vn…giúp liên kết giữa doanh
- 13 -
nghiệp xuất khẩu đối tác và người nông dân chặt chẽ hơn, nâng cao hiệu quả kinh tế và đời sống
cho người dân.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra đã có buổi
trao đổi tại Hà Nội: Tại cuộc hội đàm, hai bên đã nhất trí tiếp tục khuyến khích hợp tác trong các
lĩnh vực có nhiều tiềm năng như nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, phát triển nguồn nhân lực,
kết nối giao thông và hợp tác xuất khẩu gạo. Kết quả của cuộc đàm phán giữa hai nguyên thủ
tướng đã đi đến những hướng mới cho hợp tác xuất khẩu gạo của hai quốc gia xuất khẩu gạo
hàng đầu thế giới, nhằm đạt được lợi ích cao nhất, và đảm bảo sự ổn định trên thị trường gạo
quốc tế.
CHƯƠNG 3:CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GẠO
3.1.Định hướng và mục tiêu xuất khẩu gạo
- 14 -
3.1.1.Cơ chế mới
- Chính phủ quyết định chính thức bãi bỏ cơ chế giao hạn ngạch xuất khẩu gạo và
việc quy định doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuất khẩu. Doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế được xuất khẩu gạo nếu có đăng ký kinh doanh ngành hàng
lương thực hoặc nông sản.
- Những hợp đồng xuất khẩu gạo sang một số thị trường có sự thoả thuận của
Chính phủ ta với Chính phủ các nước (hợp đồng Chính phủ), sau khi trao đổi với

Hiệp hội lương thực Việt nam được giao cho Bộ Thương mại chỉ định và chỉ đạo
doanh nghiệp làm đại diện giao dịch, kí kết hợp đồng.
- Việc xuất khẩu theo kế hoạch, trả nợ, viện trợ của Chính phủ, thực hiện theo cơ
chế đấu thầu hoặc quyết định riêng của Thủ tướng chính phủ.
- Để đảm bảo lợi ích nông dân, ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trường trong
nước, giảm bớt khó khăn đối với hoạt động sản xuất, lưu thông lúa gạo và phân
bón khi thị trường trong ngoài nước có biến động, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem
xét, quyết định các biện pháp can thiệp có hiệu quả vào thị trường lúa gạo.
Quy định trên của Thủ tướng Chính phủ đã mở rộng hướng đi cho các nhà xuất khẩu.
Không còn các đầu mối nên mọi thành phần kinh tế đều có thể tự do ký kết hợp đồng với đối tác
nước ngoài sau khi đã đăng ký kinh doanh. Cơ chế mới đã thông thoáng hơn rất nhiều so với cơ
chế ban hành trước đây song cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, đòi hỏi một sự quản lý chặt chẽ,
thường xuyên của các ngành, các cấp, tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, ép giá của các
doanh nghiệp nhằm thao túng thị trường và thu lợi cao nhất.
3.1.2.Định hướng mục tiêu xuất khẩu gạo
Cơ chế mới ban hành trong thời điểm chúng ta bước sang thế kỷ mới với những cơ hội và
thách thức mới là một công cụ để thực hiện các mục tiêu đặt ra với sản xuất gạo, tăng lượng gạo
xuất khẩu, mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng đảm bảo hiệu quả hơn trong xuất khẩu.
Thực chất mục tiêu này hướng vào tăng số lượng, cải thiện chất lượng có nghĩa là tăng tổng kim
ngạch gạo xuất khẩu. Bên cạnh đó việc mở rộng thị trường cũng được các nhà hoạch định chiến
lược coi trọng vì thị trường là cái đích mà các nhà xuất khẩu hướng đến. Ba mục tiêu trên được
tiến hành song song đảm bảo cho gạo sản xuất ra có thể xuất khẩu tạo thành một quá trình thông
suốt đồng thời phù hợp với các mục tiêu của sản xuất lúa và xu thế phát triển chung của nền
kinh tế thị trường trong giai đoạn mới.
- 15 -
Cũng như trong sản xuất lúa gạo, trong xuất khẩu để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra cần
có các định hướng. Cụ thể là:
- Thứ nhất: đa dạng hoá chủng loại gạo cấp cao xuất khẩu đáp ứng nhu cầu đa
dạng của thị trường thế giới.
- Thứ hai: đa phương hoá thị trường tiêu thụ gạo trong đó tập trung vào những thị

trường tương đối ổn định về số lượng và chất lượng.
- Thứ ba: đa dạng hoá hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu gạo để có thể đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao và phức tạp của khách hàng.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo
3.2.1.Về phía chính phủ
3.2.1.1.Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu
Những năm gần đây, gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước và Việt Nam là nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo xuất khẩu còn thiếu quy
hoạch, chưa đa dạng hoá chủng loại hàng, hệ thống chế biến, bảo quản phục vụ xuất khẩu còn
nhiều yếu kém, lại phân bổ không hợp lý. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng còn ít, tập trung
chủ yếu tại TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đầu mối xuất khẩu bó hẹp trong khu vực TP
Hồ Chí Minh, làm tăng chi phí vận chuyển và các chi phí trung gian. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn
chưa xác định được chiến lược về thị trường và chiến lược sản phẩm rõ ràng, chưa thiết lập được
hệ thống thị trường, bạn hàng lớn ổn định và vẫn còn tình trạng bán qua trung gian, tranh mua,
tranh bán ở thị trường nước ngoài. Khâu điều hành xuất khẩu tầm vĩ mô còn nhiều lúng túng,
không kịp thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu về nguồn hàng và ký kết hợp đồng.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới thì vấn đề đặt
ra hiện nay chính là hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo.
- Thứ nhất: đối với một số hợp đồng nhất là hợp đồng mua bán gạo cấp Chính
phủ nên duy trì trong cơ chế quy định khuyến khích doanh nghiệp tham gia đấu
thầu và chỉ định tham gia đấu thầu khi cần thiết. Đối với các trường hợp doanh
nghiệp phải dừng hoặc hủy hợp đồng để đảm bảo lợi ích của quốc gia thì nên có
các hỗ trợ về tài chính khi có thiệt hại.
- Thứ hai: Chính phủ cần quản lý chặt chẽ các gian lận trong xuất khẩu gạo bằng
cách phối hợp các ngành có liên quan. Hiện nay, gian lận thương mại được giấu
dưới các hình thức tinh vi có sự phối hợp giữa các bên đối tác nhằm mục đích
- 16 -
kiếm lời. Việc hạn chế này sẽ đảm bảo chênh lệch giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
và thế giới.
- Thứ ba: tích cực xúc tiến hình thành các trung tâm giao dịch và xuất khẩu gạo để

hỗ trợ cho việc điều hành xuất khẩu không theo đầu mối tạo điều kiện nâng cao
trình độ xuất khẩu gạo, là cơ sở để Nhà nước điều tiết các hoạt động này.
Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức trên mới chỉ bao quát được tình hình quản lý
xuất khẩu của Chính phủ ta trong giai đoạn mới. Thực hiện các giải pháp trên đòi hỏi sự cố gắng
nỗ lực của các ngành các cấp đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ nhằm đạt được
hiệu quả tối ưu nhất.
3.2.1.2.Các giải pháp về luật pháp, chính sách
Để hướng tới một ngành gạo xuất khẩu đồng bộ, ổn định trong tương lai gần, chúng ta
cần có một hệ thống luật pháp với các quy định được ban hành cụ thể rõ ràng tạo một môi
trường kinh doanh lành mạnh với khả năng cạnh tranh cao của mặt hàng. Cụ thể là:
- Thứ nhất: thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu như xin giấy phép
xuất khẩu, các thủ tục hải quan, thuế cần được cải cách triệt để, tránh phiền hà
sách nhiễu, tạo sự thông thoáng trong hoạt động và các bước đi của các doanh
nghiệp, giảm thiểu thời gian, chi phí không cần thiết và các hiện tượng tiêu cực
khác. Cần quy định rõ chức năng, quyền hạn của các cán bộ quản lý các cấp từ
Trung ương tới địa phương, nâng cao chất lượng làm việc trong các cơ quan nhà
nước, xoá bỏ tệ hách dịch, cửa quyền trong xuất nhập khẩu, đồng thời đẩy mạnh
công tác trau dồi trình độ chuyên môn và ngoại ngữ cho cán bộ công chức hành
chính Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng như đạo đức và trách nhiệm
trong công việc.
- Thứ hai: hướng dẫn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới tham
gia xuất khẩu gạo tham gia ký kết các hợp đồng kinh doanh gạo, tránh tình trạng bị
giá quy định quá cao hoặc quá thấp.
- Thứ ba: tích cực có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp
xuất khẩu gạo mà hỗ trợ tín dụng xuất khẩu là biện pháp hữu ích nhất. Hiện nay,
Nhà nước đã có quy định về quy chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu qua quyết định số
- 17 -
133/TTG của Thủ tướng Chính phủ. Các hoạt động cho vay vốn lưu động, bảo
lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng của Quỹ về mặt nghiệp vụ giống như
các Ngân hàng thương mại nhưng với lãi suất cho vay là lãi suất ưu đãi (lãi cho

vay vốn lưu động bằng 80% lãi suất tín dụng đầu tư phát triển) trong thời gian 720
ngày. Gạo xuất khẩu là mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt trong trường
hợp xuất sang thị trường mới hoặc để duy trì thị trường truyền thống theo quy định
của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ cho vay vốn dưới hai hình thức là cho vay trước
khi giao hàng và cho vay sau khi giao hàng. Đối với cho vay trước khi giao hàng,
các doanh nghiệp được vay vốn ngắn hạn mua gạo để thực hiện hợp đồng xuất
khẩu với mức vay không quá 80% giá trị L/C hoặc không quá 70% giá trị hợp
đồng xuất khẩu. Việc cho vay sau khi giao hàng được thực hiện sau khi đơn vị đã
có hối phiếu hợp lệ với mức cho vay tối đa bằng 90% trị giá. Để cho vay trước khi
giao hàng, các doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố, thế chấp trị giá tối thiểu 30%
số vốn vay. Đối với cho vay hối phiếu hợp lệ, đơn vị phải xuất trình hối phiếu kèm
theo bộ chứng từ hàng xuất. Trên tổng thể, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ để đảm bảo
cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị trường trong và
ngoài nước.
- Thứ tư: Nhà nước cần hoàn thành luật thuế về kinh doanh lương thực đảm bảo
bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp kinh doanh trên thị
trường phải tuân thủ, tránh trốn thuế và đầu cơ gây các cơn sốt lương thực trên thị
trường. Khi trong nước ta đã đảm bảo được an ninh lương thực thì có thể cho rằng
xuất khẩu càng nhiều gạo càng tốt. Chúng ta chấp nhận giá gạo trong nước tăng
lên một chút để khuyến khích sản xuất lúa gạo, giảm bớt được phần nào chênh
lệch giữa thu nhập của nông dân và thành thị vì chi tiêu về lương thực chỉ chiếm tỷ
trọng nhỏ trong chi tiêu đời sống hàng ngày của dân thành thị. Trong tương lai
không xa, chúng ta có thể bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo vì cho dù thuế có làm tăng thu
ngân sách nhưng vẫn cản trở thương mại tự do.
- Thứ năm: Nhà nước tích cực áp dụng các quy chế thưởng xuất khẩu cho các
doanh nghiệp làm tốt công tác này nhằm mục đích động viên khuyến khích những
thành tích xuất sắc và hiệu quả cao. Căn cứ theo tiêu chuẩn của Quy chế quản lý
và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thể được
khen thưởng theo hai tiêu chuẩn: mở rộng thị trường xuất khẩu đã có hoặc mở
- 18 -

thêm thị trường mới có hiệu quả với mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm
sau so với năm trước là 20% và mức tăng trưởng tuyệt đối từ 500.000 USD trở lên
(tiêu chuẩn 5.2); mặt hàng gạo xuất khẩu đạt chất lượng quốc tế (tiêu chuẩn 5.3).
Đây là những tiêu chuẩn khá cao, để đạt được cần sự nỗ lực của doanh nghiệp.
Việc tổ chức khen thưởng hàng năm được thực hiện một cách công khai, công
bằng và đúng với những quy định tại các quyết định, quy chế đã ban hành. Việc
lấy ý kiến của công luận trên các phương tiện thông tin đại chúng phối hợp với cơ
quan hải quan của hội đồng xét thưởng khi kiểm tra hồ sơ phải đảm bảo không để
xảy ra sai sót đáng tiếc. Có những doanh nghiệp xuất khẩu gạo vẫn chưa hiểu
đúng, thậm chí chưa biết những nội dung cơ bản trong Quy chế do việc hướng dẫn
thông tin còn chưa thật đầy đủ. Chính vì vậy, Quy chế thưởng xuất khẩu thời gian
tới vẫn cần có sự bổ sung, hoàn thiện để phát huy mạnh mẽ hơn nữa, tác dụng
động viên khuyến khích doanh nghiệp, phù hợp với cơ chế mới về xuất nhập khẩu
gạo đã có sự thay đổi.
Nhìn chung, Nhà nước nên nhất quán chính sách, có biện pháp khuyến khích mọi thành
phần kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu gạo, tăng cường khả năng cạnh tranh, khả năng thích
ứng linh hoạt với thị trường gạo thế giới của doanh nghiệp Việt Nam.
3.2.1.3. Các giải pháp về đầu tư
Cũng như tất cả các ngành nghề khác trong nền kinh tế, ngành sản xuất và xuất khẩu gạo
Việt Nam muốn phát triển cần có chính sách đầu tư thoả mãn, hợp lý. Hơn nữa, gạo là mặt hàng
xuất khẩu quan trọng, vì vậy cần được đầu tư xứng đáng với vị trí chiến lược của nó trong nền
kinh tế hiện nay của đất nước ta.
Để tăng cường đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm tới, Nhà nước cần
tập trung đầu tư trong các lĩnh vực sau:
- Thứ nhất, đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất. Đây là điều
kiện tiên quyết để sản xuất có thể hiệu quả. Hệ thống này cần phải được trang bị
hiện đại, đồng bộ, phù hợp với môi trường môi sinh, đảm bảo cho sức cạnh tranh
của lúa gạo. Cơ sở hạ tầng cần được chú trọng nhất ở các khâu sản xuất, chế biến
- 19 -
bằng việc lắp đặt, sử dụng các máy móc mới, công suất cao, cải tiến hệ thống điện

nước, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý chất lượng gạo.
- Thứ hai, đầu tư phát triển nguồn nhân lực phục vụ sản xuất lúa gạo. Các nhà
khoa học, kỹ sư nông nghiệp và nông dân trực tiếp sản xuất chính là những người
quyết định sự phát triển ngành lúa gạo của nước ta nên cần có chính sách đầu tư
một cách hợp lý đội ngũ này về cả chất lượng và số lượng. Nhà nước cũng cần hỗ
trợ giáo dục đào tạo trong ngành nông nghiệp để có được những cán bộ có trình
độ, tâm huyết với nghề, đem kiến thức của mình vận dụng trong nghiên cứu khoa
học, cung cấp thường xuyên cho họ những sách báo, tạp chí khoa học, những
thông tin cập nhật về các thành tựu khoa học mới ở trong và ngoài nước, tạo điều
kiện cho họ nâng cao kiến thức, tiếp cận với nền sản xuất lúa gạo của các nước có
kỹ thuật tiên tiến.
Với người nông dân, cần chuyển giao đến từng hộ những thông tin về kỹ thuật, kinh tế,
tạo điều kiện cho họ học hỏi, nâng cao dân trí. Các cấp huyện, xã cần tổ chức giới thiệu giông
lúa mới, cách gieo cấy, chăm sóc có hiệu quả, tránh tình trạng chỉ áp dụng kinh nghiệm lâu năm
trong nghề trồng lúa mà coi nhẹ những ứng dụng khoa học công nghệ mới. Bên cạnh đó, Nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho nông dân vì để sản xuất lúa gạo xuất khẩu có chất lượng
cao cần tuân thủ quy trình kỹ thuật ngặt nghèo và tốn kém. Hỗ trợ vốn dưới hình thức tín dụng
sẽ bắt người nông dân phải hoàn lại vốn dưới hình thức lãi suất ưu đãi nên buộc họ phải năng
động sáng tạo, tìm cách để kinh doanh có hiệu quả cao để hoàn trả lại số vốn đi vay, xoá bỏ thói
quen ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước như khi hỗ trợ cho họ dưới hình thức trợ cấp.
- Thứ ba, đầu tư vào nghiên cứu các ứng dụng khoa học công nghệ. Cũng như tất
cả các ngành khác, trong sản xuất lúa gạo, khoa học công nghệ là lĩnh vực cần ưu
tiên đầu tư để trở thành động lực mới cho sự phát triển, trong đó cần đầu tư cho
việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu về công nghệ sinh học gắn với nghiên
cứu chuyển giao để giúp nông dân tiếp cận và sử dụng được những thành tựu của
khoa học kỹ thuật hiện đại về giống, phân bón, thuốc trừ sâu nhằm có được
những sản phẩm có chất lượng cao, sức cạnh tranh với các loại gạo của Thái Lan,
Mỹ trên thị trường thế giới.
Chúng ta cần khắc phục những khó khăn về vấn đề kinh phí cho nghiên cứu khoa học để
phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so với các nước khác. Nhà nước cần phát huy vai trò chỉ

đạo của các cơ sở nghiên cứu chính là các viện, các trường đại học, đồng thời huy động mọi lực
- 20 -
lượng khác tham gia nghiên cứu trong đó có các doanh nghiệp, nông trường Mặt khác, Nhà
nước cần khuyến khích đầu tư xây dựng các hệ thống trang trại nghiên cứu - thực nghiệm triển
khai về giống, thuỷ nông, bảo vệ thực vật, cải tạo đất ở các khu vực sản xuất.
- Thứ tư, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng và các dịch vụ phục vụ xuất
khẩu gạo.
* Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng cho xuất khẩu.
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cung cấp nguồn gạo chủ yếu cho xuất khẩu của
nước ta hiện nay. Gạo được thu mua và xuất sang nước ngoài qua các cảng khẩu.
Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu ở vùng này nói riêng và cả nước
nói chung có rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy, chi phí vận chuyển gạo của nước ta
bị đẩy lên cao. Dù chi phí này thường do khách hàng trả vì giá gạo tính theo giá
FOB nhưng lại bị trừ trong giá sản phẩm nên người chịu thiệt thòi cuối cùng vẫn là
các doanh nghiệp xuất khẩu. Gạo xuất khẩu thường tập trung về Tp.HCM, nơi
diễn ra hoạt động xuất, nhập của rất nhiều loại hàng nên dễ dẫn đến sự ùn tắc. Vấn
đề đặt ra cần tạo sự thông suốt về vận tải, khâu cuối cùng của xuất khẩu gạo. Cảng
Sài Gòn là cảng quan trọng nhất nên cần được đầu tư, nâng cấp, cải tiến lại hệ
thống kho bãi, phương tiện bốc dỡ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển xuất khẩu gạo
đúng thời gian và tiến độ.
Một giải pháp nữa cho sự tắc nghẽn là Chính phủ nên tập trung đầu tư, xây dựng,
cải tạo lại một số cảng ở đồng bằng sông Cửu Long theo phương pháp dàn trải,
tránh tập trung vào một cảng như hiện nay. Cần có những sửa chữa, nâng cấp để
biến một số cảng như Long An, Mỹ Tho, Cần Thơ thành những cảng có chất
lượng tốt, có thể là cảng chuyên dùng cho xuất khẩu. Đặc biệt là cảng Cần Thơ,
một cảng khẩu có vị trí chiến lược, nếu được đầu tư xây dựng sẽ tác động tích cực
đến sản xuất lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long, đẩy nhanh tiến độ CNH - HĐH
khu vực này, tạo sự lưu thông lúa gạo thuận tiện cho vùng sản xuất lúa và cho xuất
khẩu, đồng thời chi phí vận chuyển từ đồng bằng lên cảng Sài Gòn sẽ giảm đáng
kể. Ngoài ra, cần nâng cấp các cảng khẩu ở khu vực miền Bắc nhằm phục vụ cho

gạo xuất khẩu ở đồng bằng sông Hồng, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào
khu vực phía Nam.
- 21 -
Song song với các cầu cảng, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần ký kết hợp đồng
với các cơ quan của bộ giao thông vận tải, bảo đảm đúng tiến độ vận chuyển từ nơi
sản xuất, dự trữ và xuất khẩu.
* Phát triển dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải phục vụ xuất khẩu gạo.
Hiện tại, giá gạo bán của ta cho các nhà nhập khẩu là giá FOB, tạo cho chúng ta
tâm lý an toàn khi xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra trên đường vận
chuyển. Tuy nhiên chúng ta không phát triển được đội hàng hải và bảo hiểm, giá
lại cao so với CIF. Vì vậy cần đưa ra giải pháp đẩy mạnh dịch vụ bảo hiểm và vận
tải hàng hải bằng cách liên doanh với các hãng bảo hiểm danh tiếng quốc tế tạo
tâm lý yên tâm, tín nhiệm với khách hàng, phát triển khả năng vận tải hàng hải.
Mục tiêu của Chính phủ năm 2010 là xây dựng một đội tàu quốc gia đủ sức chở
99% khối lượng hàng nội địa, 40% khối lượng hàng nhập khẩu và tham gia chở
thuê cho nước ngoài. Với những thế mạnh trên, nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam
có thể chào hàng theo giá CIF và thu được lợi nhuận từ những dịch vụ bảo hiểm,
hàng hải đồng thời tạo điều kiện phát triển ngành nghề, giải quyết công ăn việc
làm cho nhân công trong ngành trên.
3.2.1.4. Các giải pháp về thị trường
*Thứ nhất: Nghiên cứu và xây dựng thị trường.
Thị trường là yếu tố quyết định đầu ra của sản phẩm. Nghiên cứu thị trường là nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. Công tác nghiên cứu thị trường cần được tổ chức
tập trung, khách quan và khoa học. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu biết về các đặc tính, thói quen
tiêu dùng, thị hiếu của các khu vực thị trường cũng như nắm bắt thông tin về các biến động trên
thị trường, đồng thời cho phép đánh giá tiềm năng và quy mô thị trường. Từ đó thực hiện xâm
nhập và thích ứng với thị trường, tạo thế cạnh tranh để mở rộng thị phần của mình.
Để nghiên cứu thị trường gạo - mặt hàng có thị hiếu tiêu dùng đa dạng-Nhà nước cần
hình thành các trung tâm chuyên trách cho ngành gạo để khai thác, cung cấp thông tin về giá cả
thị trường, tình hình hoạt động của các thành viên trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời các

- 22 -
chính sách mới của Nhà nước cho các nhà xuất khẩu. Hệ thống thông tin phải thật chính xác, cập
nhật để có những phản ứng linh hoạt trước những biến động của thị trường.
Xây dựng thị trường xuất khẩu gạo là một đòi hỏi mang tính cấp thiết và chiến lược. Nhà
nước cần tạo lập và đặt mối quan hệ thương mại với các nước có nhu cầu lớn về xuất khẩu gạo,
tranh thủ khai thác các mối quan hệ để ký các hiệp định xuất khẩu gạo hoặc các bản thoả thuận
phối hợp, hợp tác với các nước để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đồng
thời có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường bên ngoài. Trong quá trình xuất
khẩu gạo, cần tranh thủ gây dựng uy tín thương mại quốc tế đối với các bạn hàng, từng bước tạo
thói quen ưa chuộng, tiêu dùng gạo Việt Nam, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường.
*Thứ hai: các thị trường mục tiêu.
Việc lựa chọn các thị trường mục tiêu cho xuất khẩu gạo trong những năm tới là vấn đề
khá nan giải. Điều quan trọng đối với Việt Nam hiện nay là sắp xếp các phân đoạn thị trường
xuất khẩu gạo theo thứ tự ưu tiên và hiệu quả kinh tế, đầu tư vốn cho sản xuất, chế biến, xây
dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, tạo tiền đề cho xuất khẩu gạo trong tương lai.
Những năm sắp tới, chúng ta tập trung xuất khẩu gạo vào những thị trường tiêu biểu sau:
* Một, thị trường gạo phẩm cấp thấp. Đây là thị trường tập trung những nước
nghèo tiêu thụ gạo chất lượng thấp (tấm 25-35%) như Ấn Độ, Philippin, các quốc
gia châu Phi
+ Thị trường ổn định gạo bao gồm các nước ASEAN như Philippin, Malayxia
Đây là một thị trường quan trọng cần hướng tới. Về cơ bản giữa nước ta và các
nước ASEAN, cơ cấu hàng xuất khẩu tương tự như nhau. Tuy nhiên ta cần khai
thác những ưu thế và giá nhân công rẻ so với nhiều nước trong khu vực địa lý, và
trong tương lai nằm trên hệ thống đường bộ và đường sắt xuyên Á và chế độ ưu
đãi thuế quan trọng nội bộ các nước ASEAN để tăng mức xuất khẩu hàng hoá và
dịch vụ vào thị trường này đặc biệt là các mặt hàng nông sản như gạo. Mặc dù
chúng ta gặp sự cạnh tranh gay gắt với Thái Lan về gạo nhưng chúng ta có chỗ
đứng tại các nước Inđônêxia, Singapo, Philippin Chúng ta đã có hướng đi đúng
khi liên doanh với các nước trồng lúa cao sản để cung cấp ổn định cho thị trường
thế giới với hiệu quả cao. Chúng ta nhận định rằng trong thời kỳ năm 2010 trở đi

thì ASEAN vẫn là thị trường tiêu thụ gạo chủ yếu của Việt Nam. Philippines mới
đây cũng đã thông báo gia hạn thoả thuận Chính phủ mua gạo của Việt Nam từ
- 23 -
2011-2013 với số lượng 1,5 triệu tấn mỗi năm, đồng thời mở rộng nhập khẩu tư
nhân.
+ Thị trường không ổn định là những thị trường nhập gạo của Việt Nam với số
lượng không đồng đều như Trung Quốc và các nước Châu Phi. Với số dân 1,3 tỉ
người và vị thế địa lý thuận lợi, Trung Quốc hứa hẹn là nước nhập khẩu gạo lớn
của Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất khẩu chính của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc tính đến tháng 3/2011 gồm có Vilexim, Lương thực Long An, Lương
thực Thực phẩm Vĩnh Long, Gentraco, Hiệp Lợi… với hơn 60 ngàn tấn.
Tương tự như Trung Quốc, thị trường các quốc gia châu Phi rất có triển vọng đối với gạo
xuất khẩu của Việt Nam nhưng cũng gặp nhiều khó khăn. Khu vực này luôn có những bất ổn
định về chính trị, khó có khả năng thanh toán nên lượng gạo nhập từ Việt Nam dù nhiều nhưng
không ổn định. Tuy nhiên khu vực vẫn là bạn hàng rất lớn của Việt Nam và chúng ta phải tập
trung khai thác trong những năm tới.
* Hai, thị trường gạo phẩm chất cao bao gồm các nước nhập khẩu gạo chất lượng cao của
Việt Nam bao gồm:
- Thị trường EU: hiện nay kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam vào thị
trường này chưa lớn do có sự cạnh tranh gay gắt của gạo Thái Lan. Tuy nhiên trong tương lai,
khi chúng ta nâng cao được chất lượng gạo thì đây là một thị trường rất có tiềm năng. Các chuẩn
mực kinh doanh của EU đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải thật sự năng động, đảm bảo
chất lượng gạo và giữ chữ tín trong giao dịch, buôn bán, từng bước xuất khẩu trực tiếp gạo Việt
Nam vào khu vực này.
- Thị trường Mỹ: là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nhưng Mỹ cũng có nhu cầu nhập
khẩu. Việt Nam có thể hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ nên gạo của ta có thể tiếp cận và
xâm nhập vào thị trường này dễ dàng hơn. Trong tương lai, chúng ta cần mở rộng quan hệ để có
mức xuất khẩu gạo ổn định vào thị trường Mỹ nói riêng cũng như các nước châu Mỹ nói chung.
- Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là nước tiêu thụ gạo đòi hỏi chất lượng cao. Do vậy, các
doanh nghiệp của ta cần nắm bắt xu thế này để đầu tư trang thiết bị nâng cao chất lượng sản

phẩm mới có thể có chỗ đứng trên thị trường, nhất là khi Nhật Bản giảm mức bảo hộ đối với mặt
hàng gạo theo quy định của WTO.
- Thị trường Trung Đông: đây là khu vực gồm những nước giàu có trên thế giới, có nhu
cầu cũng như khả năng thanh toán, giao dịch thương mại quốc tế Do chưa hiểu biết nhiều về
bạn hàng và thị trường ở khu vực này nên kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước này
không đáng kể. Bước đầu gạo Việt Nam đã có chỗ đứng và được ưa dùng tại Iran, Irac Trong
tương lai, khu vực này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam.
- 24 -
Nhìn chung, gạo chất lượng thấp của Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao với thị trường châu
Á và châu Phi rộng lớn nên cần khai thác mức độ tối đa. Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục thực
hiện chính sách thúc đẩy đầu tư vào sản xuất nâng cao chất lượng gạo, kết hợp với các chính
sách Marketing thị trường của Chính phủ để đưa mặt hàng cao cấp xâm nhập thị trường các
nước tiêu thụ loại hàng này với giá cao. Do vậy, chúng ta phải biết kết hợp giữa việc giữ vững
các thị phần đã xuất khẩu, chuyển dần sang sản xuất và xuất khẩu gạo cao cấp và đặc sản để đi
vào thị trường cao cấp, thu được giá trị xuất khẩu cao hơn.
Như vậy, thị trường xuất khẩu gạo còn rộng mở, khả năng tham gia vào thị trường gạo
của Việt Nam ngày càng tăng. Trong những năm tới, chúng ta cần thực hiện hoạt động xuất
khẩu gạo sao cho có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền kinh tế quốc dân.
3.2.2. Về phía doanh nghiệp
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả xuất khẩu
Sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Đối với sản phẩm
xuất khẩu, khách hàng nước ngoài có những đặc tính về văn hoá khác biệt nên yêu cầu càng khắt
khe hơn.
Cải tiến kỹ thuật công nghệ và hệ thống kho dự trữ bảo quản việc cất giữ, hạn chế những
ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khí hậu nước ta là những biện pháp để nâng cao chất lượng
gạo xuất khẩu. Cụ thể, chúng ta cần sắp xếp lại hệ thống kho chứa, bố trí một cách hợp lý và
khắc phục những kho chưa đạt tiêu chuẩn quy định, đặc biệt là các kho dự trữ xuất khẩu và xây
dựng thêm những kho mới, hiện đại ở một số trọng điểm, tạo điều kiện thuận lợi cho cất trữ, bảo
quản lúa gạo. Bên cạnh đó, chúng ta phải áp dụng các công nghệ bảo quản tiên tiến: bảo quản
kín gạo, sát trắng, gạo lật bằng cách sử dụng màng PVC trong khí CO

2
hoặc khí Nitơ trong các
kho dự trữ quốc gia và dự trữ kinh doanh, bảo quản mát thóc gạo ở một số cụm kho dự trữ quốc
gia hiện đại, đòi hỏi vốn đầu tư lớn để có thể cạnh tranh với các nước xuất khẩu gạo khác, sản
xuất và áp dụng một số chế phẩm vi sinh vật, các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn
trùng mà không gây độc hại cho người và gia súc, không làm nhiễm bẩn môi trường để bảo quản
lương thực trong kho tập trung và phương tiện cất trữ ở gia đình.
Với những đầu tư về sản xuất như trên, trong những năm tới, chất lượng gạo của Việt
Nam sẽ thay đổi, đạt được hiệu quả cao trong sản xuất và xuất khẩu. Đây là một yếu tố quan
trọng có thể quyết định được tương lai của ngành gạo Việt Nam vì một trong những nhược điểm
- 25 -

×