Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.07 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC






TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG
GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Giảng viên hướng dẫn
TS. BÙI VĂN MƯA
Người thực hiện
STT: 112
Họ tên: VÕ PHẠM THÀNH NHÂN
Lớp: Cao học kinh tế
Khóa: K21 đêm 5
TP. HCM, năm 2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC 2
I . NGUYÊN LÝ NHÂN BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHOIƠBẮC 2
II . QUAN ĐIỂM CỦA PHOIƠBẮC VỀ CON NGƯỜI 3
1. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên (quan niệm về thế giới) 3
2. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại 4
3. Mối quan hệ giữa con người với con người (quan niệm về xã hội) 4


III . QUAN NIỆM CỦA PHOIƠBẮC VỀ TÔN GIÁO 6
IV . QUAN NIỆM CỦA PHOIƠBẮC VỀ NHẬN THỨC 7
CHƯƠNG II 9
NHẬN XÉT CHUNG VỀ HỆ THỐNG TRIẾT HỌC PHOIƠBẮC 9
I. GIÁ TRỊ 9
1. Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII 9
2. Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ đốc giáo 9
3. Nâng tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học 9
4. Triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác 10
II. HẠN CHẾ 10
1. Phủ nhận phép biện chứng 10
2. Phủ nhận vai trò thực tiễn và sa vào chủ nghĩa duy tâm 10
3. Đề cao con người nhưng quan niệm con người của ông rất hời hợt 11
4. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông còn mang nặng tính siêu hình 12
KẾT LUẬN 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
LỜI MỞ ĐẦU
LUTVICH PHOIƠBĂC là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất
thời kỳ trước C.Mác, là đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức, đã đem đến
sự kết thúc đầy ý nghĩa cho toàn bộ nền triết học phương tây cổ điển nói chung
và triết học cổ điển Đức nói riêng. Công lao vĩ đại của ông là khôi chục lại địa vị
xứng đáng của chủ nghĩa duy vật, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo trong hòan cảnh chủ nghĩa duy tâm đang thống trị đời sống tin thần ở
phương tây thế kỷ XVIII.
Năm 1839, sau khi Hêgen mất tám năm, Phoiơbắc công bố tác phẩm góp
phần phê phán triết học của Hêghen, qua đó đoạn tuyệt với thế giới quan duy
tâm, trở thành nhà triết học duy vật duy nhất trong nền triết học cổ điển Đức. Các
tác phẩm gồm: ”Phê phán triết học Hêghen”, ”Bản chất của đạo cơ đốc” (1841),
”Luận cương sơ bộ về cải cách triết học” (1842), ”Cơ sở của triết học tương lai”

(1843), ”Bản chất của tôn giáo” của ông đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật thế
kỹ XVII – XVIII, làm sinh động thế giới quan duy vật khoa học.
Chống lại hệ thống duy tâm của Hêghen - hệ thống duy vật của Phoiơbắc
coi giới tự nhiên là sự tồn tại khác của tinh thần. Ông chỉ ra rằng triết học mới
phải có tính chất nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên. Mặc tích cực
trong triết học nhân bản của Phoiơbắc còn ở chỗ ông đấu tranh chống các quan
niệm tôn giáo. Tuy nhiên, hệ thống triết học của Phoiơbắc còn hời hợt, không sâu
và cũng có những hạn chế, trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, ông vứt
bỏ phép biện chứng của Hêghen nhưng những cống hiến của ông có ý nghĩa lịch
sử to lớn.
Triết học mới mà Phoiơbắc đã xây dựng là triết học duy vật nhân bản mà nội
dung, giá trị và hạn chế của nó được thể hiện qua những quan niệm chủ yếu sau.
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 1
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG I
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
LUTVICH PHOIƠBĂC (1804 - 1872)
I . NGUYÊN LÝ NHÂN BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHOIƠBẮC
Thể hiện trước hết trong việc giải quyết một cách duy vật vấn đề cơ bản
của triết học - mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất, tư duy và tồn tại. “Theo
ông, chỉ khi nào xuất phát từ con người thì vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn
tại mới được giải quyết một cách đúng đắn và có ý nghĩa thật sự”
[1, Trang 209]
. Trong
khi giải quyết vấn đề này, Phoiơbắc đã đưa thuyết nhân bản đến gần chủ nghĩa
duy vật, có sứ mạng mang lại cho con ngừơi một cuộc sống hạnh phúc thật sự
trên trần gian.
Nguyên tắc nhân bản nằm ở tính thống nhất của bản chất con người, tinh
thần và thể xác, trong đó thể xác là bộ phận của thế giới khách quan, và ở chừng

mực nào đó nó bao hàm cả tồn tại của thế giới ấy. "Triết học mới Phoiơbắc viết,
biến con người, gồm cả tự nhiên với tư cách cơ sở của con người, thành đối
tượng duy nhất, phổ quát và cao nhất của triết học và do đó, biến thuyết nhân
bản, trong đó có triết học, thành khoa học phổ quát".
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 2
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
II .QUAN ĐIỂM CỦA PHOIƠBẮC VỀ CON NGƯỜI.
Điểm xuất phát của triết học Phoiơbắc là từ con người, đi sâu vào việc
nghiên cứu bản chất con người với những vấn đề cụ thể như: “Mối quan hệ giữa
con người và giới tự nhiên”; “Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”; “Mối quan hệ
giữa người và người”; Điều này được thể hiện như sau:
1. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên (quan niệm về thế giới)
Phoiơbắc chứng minh rằng, thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai
sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không phụ thuộc vào bất
cứ thứ triết học nào, do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong giới tự
nhiên.
Sự phân tích về phương thức tồn tại của toàn bộ thực tại vật chất gắn liền với
quan niệm của Phoiơbắc về vận động, không gian, thời gian và sự sống. Có thể
nhận thấy một Phoiơbắc hết sức triệt để trong cuộc tranh luận với các bậc tiền bối
của triết học Đức, cũng như triết học thế kỷ XVII - XVIII. Giới tự nhiên, theo
Phoiơbắc, có tính chất vật chất, vật thể, tính cảm giác được. Vật chất không do ai
sáng tạo ra, luôn luôn đã và sẽ tồn tại, nghĩa là vĩnh viễn, nó không có khởi điểm
và kết thúc, nghĩa là vô hạn. Cần tìm hiểu nguyên nhân của tự nhiên từ chính tự
nhiên.
Nếu Hêghen cho rằng khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là
"ý niệm tuyệt đối". Tính phong phú, đa dạng của thế giới là kết quả của sự vận
động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối hay tinh thần hoá đá, chết cứng, thiếu sáng
tạo, thì Phoiơbắc lại nhấn mạnh yếu tố sản sinh và phát triển của nó. Giới tự
nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại và vận động nhờ những cơ sở bên trong
nó. Sự hình thành thế giới nói chung, Trái đất, Mặt trời là quá trình tự nhiên.

"Cú hích ban đầu của Chúa" mà Galilê và Niutơn hình dung, đối với
Phoiơbắc, là sản phẩm của trí tưởng tượng khôi hài. Nếu Hêghen xác lập ranh
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 3
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
giới không thể vượt qua giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, tự nhiên và tinh
thần, thì Phoiơbắc lại từ lập trường của chủ nghĩa duy vật mà khẳng định rằng,
không có cái gì, kể cả sự sống, lại không hình thành từ vật chất. Bên cạnh đó
những dữ liệu do hoá học, sinh vật học và sinh lý học đem đến đều được
Phoiơbắc sử dụng thành công trong việc phê phán cả chủ nghĩa duy tâm sinh lý
học lẫn chủ nghĩa duy vật tầm thường.
2. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Phoiơbắc cho rằng, bản chất con người là một cái gì đó thống nhất toàn
vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và tinh thần (tư duy).
- Sai lầm của chủ nghĩa duy tâm là sự toan tính thủ tiêu sự thống nhất
toàn vẹn của con người, tách tư duy con người khỏi tồn tại của nó, biến
tư duy con người thành một thực thể siêu tự nhiên có khả năng sáng
tạo nên thế giới vật chất.
- Còn sai lầm của chủ nghĩa nhị nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại,
coi chúng như những thực thể tồn tại độc lập bên cạnh nhau, đó là một
sự khẳng định vòng vo, nửa vời, trái ngược.
Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
nhị nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Phoiơbắc
đã thừa nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy
là tồn tại – chủ thể, tư duy – thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không
phải tồn tại xuất phát từ tư duy. Tại sao tồn tại là chủ thể, còn tư duy là thuộc
tính? Theo Phoiơbắc, chúng ta cần đến từ đâu, bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể
từ đâu đến, thì tinh thần cũng đến từ đấy, ngay cả hoạt động tinh thần cũng là
việc làm của cơ thể, của đầu óc con người.
3. Mối quan hệ giữa con người với con người (quan niệm về xã hội).
Phoiơbắc cho rằng không thể tách con người ra khỏi giới tự nhiên vì “con

người là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên”
[1, trang 210]
còn giới tự nhiên
là cơ sở không thể thiếu của đời sống con người. Ông viết: “con người là một tồn
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 4
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
tại của tự do, tồn tại có nhân cách, tồn tại của luật pháp”
[8]
, ở đây ông chưa thấy
được vấn đề quan trọng là bản chất đích thực của con người, tức là những yếu tố
quy định sự tồn tại của nó với tư cách là một sinh thể có tính loài hay nói theo
cách của Mác là tính xã hội của con người. Bởi vì “khi con người sinh ra từ giới
tự nhiên, nó mới chỉ là một sinh vật tự nhiên đơn thuần chứ không phải là
người… con người là sản phẩm của văn hoá và của lịch sử”
[8]
. Theo Phoiơbắc,
con người dựa vào giới tự nhiên để được thỏa mản nhu cầu, đam mê, khát vọng,
và điều này làm cho người này không gióng người kia. Như vậy, con người vừa
mang bản tính cá nhân vừa mang tính cộng đồng, có bản chất nằm trong tình yêu.
- Mang bản tính cá nhân
[1, trang 211],
mỗi con người là một cá thể
sinh học đặc biệt có ý chí, có trái tim, có nhận thức, có khát vọng, có
đam mê, có cảm xúc của riêng mình. Mỗi con người đang tồn tại bằng
xương bằng thịt, đang sống, đang yêu vì thế nó tiềm tàng một năng lực
sáng tạo kỳ vĩ bắt nguồn từ bản tính của mỗi người chứ không phải từ
Thuợng đế.
- Mang bản tính cộng đồng
[1, trang 211]
, mỗi cá nhân bị ràng buộc

với người khác, hạnh phúc của mỗi cá nhân là hạnh phúc được tìm
trong sự hòa hợp với mọi người trong cộng đồng. Tình yêu bắt nguồn
từ bản tính cộng đồng của con nguời chứ không phải bắt nguồn từ
Thượng đế.
Phoiơbắc có những quan điểm hoàn toàn mới so với lịch sử đương thời,
ông cho rằng tính ích kỷ không mang tính cá nhân như các nhà đạo đức học trước
ông, mà nó còn mang tính xã hội, “coi tính ích kỷ của con người như là một động
lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội.”
[8]
Lênin cho rằng đây là “phôi thai
của chủ nghĩa duy vật lịch sử”
[8]
. Phoiơbắc coi tính ích kỷ của con người như là
một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội. "Trong lịch sử, một thời
đại mới bắt đầu từ đâu?bắt đầu từ chỗ đông đảo quần chúng bị áp bức đưa ra
tính ích kỷ chính đáng của mình chống lại tính ích kỷ cực đoan của thiểu số
người khác… tính ích kỷ của đa số nhân loại đang bị áp bức phải và sẽ thực hiện
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 5
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
quyền của mình và mở ra một thời đại lịch sử mới… không thể để cho thiểu số
người là cao thượng, có tài sản, còn số khác là thấp hèn, là chẳng có gì. Tài sản
phải có ở tất cả mọi người”
[8]
Phoiobắc quan niệm rằng: “chúng ta sẽ không thể
là con người nếu không biết yêu; và một đứa trẽ chỉ trở thảnh người lớn khi nó
biết yêu; tình yêu phụ nữ là tình yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ người đó
không yêu con người.”
[1, trang 211]
. Đạo đức học của Phoiơbắc, theo Ph.Ăngghen, tỏ
ra nghèo nàn hơn Hêgen do tính dung tục hoá, tính đơn giản và tính ảo tưởng của


[2]
. Đối với Phoiơbắc, con người và tình yêu chỉ là một, chúng không thể tách
rời nhau. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì năm 27 tuổi, giáo sư Phoiơbắc bị cách
chức đuổi về quê. ông sống trong thời đại xã hội tư bản chủ nghĩa, cá lớn nuốt cá
bé, con nguời chèn ép con người. Ví thế, ông luôn kêu gọi con người hãy yêu con
người, xóa bỏ hận thù con người cho con nguời. Ông cho rằng “Yêu mà còn hận
thù thì không phải là yêu”. Ông đã thực hiện đơn đặt hàng của lịch sữ “Thời đại
hận thù phải chữa trị bằng tình yêu”.
III .QUAN NIỆM CỦA PHOIƠBẮC VỀ TÔN GIÁO.
Phoiobắc cho rằng “sự bất lực trong nhân thức, sự sợ hãi, đau khổ, khó
khăn triền miên, niềm mơ ước khao khát vươn lên trong cuộc sống đầy đau khổ
bất hạnh, đầy bế tắt buồn thương của con người đã sản sinh ra các tôn giáo…
Thượng đế chỉ là tập hợp những giá trị, mơ ước, khác vọng mà con người muốn
có”
[1, trang 213].
Phoiobắc viết "Tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con người nhưng
trong giấc mơ đó chúng ta không phải ở trên bầu trời mà ở trên mặt đất trong
vương quốc của hiện thực, chúng ta nhìn thấy các đối tượng của hiện thực không
phải trong thế giới thực tế của tính tất yếu mà là trong thế giới say mê của trí
tưởng tượng và sự kỳ quặc. Nhiệm vụ của tôi là bóc trần bản chất đích thực của
tôn giáo và triết học tư biện hay thần học, chuyển thế giới nội tâm ra thế giới bên
ngoài, nghĩa là biến đối tượng tưởng tượng thành đối tượng hiện thực". Trên tinh
thần như vậy, ông phê phán các quan điểm cho rằng, tôn giáo là hiện tượng có
tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh. Nếu Hêgen dệt thêu nên cả một huyền
thoại về lý trí, duy lý hoá niềm tin vào Thượng đế thậm chí xem lịch sử tôn giáo
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 6
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
là lịch sử vận động của ý thức phản tỉnh. Ngược lại, Phoiơbắc đưa bản chất tôn
giáo về bản chất con người, loại Thượng đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu của

triết học, đưa hình ảnh đó về đúng vị trí của nó - thần học. Tôn giáo là sản phẩm
tất yếu của tâm lý và nhận thức của con người “Nếu con bò có tay để vẽ, thì nó sẽ
vẽ ra Thương đế gióng y như nó để nó thờ”. Ông khẳng định rằng chính con
người đã sinh ra Thương đế chứ không phải Thương đế sinh ra con người. C.Mác
nhận ra sự "nổi loạn" này, mở ra con đường cho triết học thực tiễn đúng nghĩa,
triết học cải tạo thế giới, gắn với tên tuổi của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Ông đòi hỏi phải lựa chọn: “hoặc là tôn giáo – tín ngưuỡng – thượng đế,
hoặc là “khoa học nhân bản – tình yêu – con người”. Phoiơbắc đã chỉ ra rằng,
con người đã sinh ra Thượng đế, niềm tin vào thượng đế, thế giới thiên đường
nhằm dễ dàng thống trị thế giới trần tục. Tôn giáo đã kìm hãm sự sáng tạo, sự tự
do, sự phán xét của con người.
Dù rằng ông đã phê phán tôn giáo mạnh mẽ như thế, nhưng càng phê phán
ông nhận ra rẳng, nếu thiếu tôn giáo, con người không thể sống trên trần gian đầy
bất hạnh, đau khổ này. Con người cần có niềm tin để an ủi mình cho dù nó là giả
tạo, không bao giờ thành hiện thực. Vỉ vậy ông ra sức xây dựng tôn giáo mới, tôn
giáo của tình yêu vĩnh cữu phổ quát giữa con người. Con người đảm nhận vai trò
của Thượng đế. Và như thế, ông sa vào chủ nghĩa duy tâm khi xét về tôn giáo.
IV .QUAN NIỆM CỦA PHOIƠBẮC VỀ NHẬN THỨC.
Phoiơbắc đã phê phán chủ nghĩa duy tâm Hêgen trong nhận thức, Phoiơbắc
cho rằng, không phải cuộc sống diễn ra theo đồ thức luận tư duy sẵn có, mà
ngược lại, đồ thức luận ấy cần được làm mới, điều chỉnh thường xuyên bằng chất
liệu của cuộc sống, chịu sự phán quyết của những điều kiện sống. "Chân lý -
Phoiơbắc viết, không nằm trong tư duy và trong tri thức như cái tự thân tự tại.
Chân lý ở ngay trong cuộc sống và trong bản chất con người". Do đó, Phoiơbắc
vạch ra nhiệm vụ của triết học là, từ sự "nhận thức cái đang có", nhận thức bản
chất sự vật như nó thể hiện ra cho chủ thể, cần suy nghĩ về cái cần có trong tương
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 7
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
lai. Khi triết học hướng đến thực tiễn (Phoiơbắc hiểu thực tiễn từ góc độ những
nhu cầu của cuộc sống con người), nó thể hiện mình như triết học của con người

và vì con người, đồng thời đặt con người trong sự thống nhất hài hoà với tự
nhiên. Phoiơbắc nhấn mạnh: "Triết học là khoa học về thực tiễn trong tính đầy
đủ và trọn vẹn của nó, song tổng thể thực tiễn là tự nhiên, hiểu theo nghĩa phổ
quát của từ này. Sự hoang tưởng đối lập với tự do tự nhiên, nhưng tự nhiên
không đối lập với tự do hợp lý trí".
Phoiơbắc nhất trí với Cantơ trong quan niệm về tính phức tạp, "nghịch lý"
của nhận thức, nhưng phê phán Cantơ trong học thuyết về sự không thể nhận
thức được "vật tự nó". Đương nhiên, mỗi thời đại chỉ có thể giải quyết những
nhiệm vụ phù hợp với khá năng hiện có, song không vì thế mà đào hố sâu ngăn
cách giữa khả năng thực tế và khát vọng của con người. Con người có khả năng
để nhận thức đầy đủ giới tự nhiên
[1, trang 213]
. Phoiơbắc khẳng định:"Những gì
chúng ta còn chưa nhận thức được, con cháu chúng ta sẽ nhận thức". Con người
có thể nhận thức được thế giới khách quan vô tận. Lý luận nhận thức của
Phoiơbắc chịu ảnh hưởng của duy cảm luận duy vật thế kỷ XVII - XVIII. Theo
ông, con người cần bắt đầu từ tính cảm giác như từ cái đơn giản, rõ ràng và dễ
bộc lộ nhất. Cảm giác là điểm khởi đầu của nhận thức, liên kết con người với thế
giới xung quanh. Cảm giác mang tính chủ quan, nhưng cơ sở và nguyên nhân của
nó lại mang tính khách quan. Tuy nhiên ông chưa thấy vai trò của thực tiễn đối
với họat động nhận thức và đối với đời sống xã hội.
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 8
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG II
NHẬN XÉT CHUNG VỀ HỆ THỐNG TRIẾT HỌC
PHOIƠBẮC
I. GIÁ TRỊ
1. Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII.
Trong hòan cảnh chủ nghĩa duy tâm đang thống trị đời sống tin thần ở
phương tây thế kỷ XVIII, triết học Phoiơbắc đã trình bày sáng tỏ nhiều quan

điểm duy vật. Ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của chủ nghĩa duy vật, đã
giáng một đòn rất nặng vào chủ nghĩa duy tâm nói chung và chủ nghĩa duy tâm
của Hêghen nói riêng. Triết học của ông chất chứa đầy tính duy vật khả tri và
nhân bản.
2. Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ đốc giáo
Triết học nhân bản Phoiơbắc đã đấu tranh chống các quan niệm về tôn
giáo, đặc biệt là quan niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm của tôn giáo và
thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con người
tạo ra Thượng đế. Khác với Hêghen nói về sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối.
Phoiơbắc nói về sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận
rằng bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa
là hướng tới một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái
đó không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng
Thượng đế. Từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng
đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.
3. Nâng tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học.
Phoiơbắc cho rằng triết học phải là nhân bản học, nhân bản học mới là
khoa học của mọi khoa học. Nhân bản học là chìa khóa đề tìm hiểu thế giới. Vì
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 9
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
vậy ông đề cao học thuyết về con người, lấy con nguời làm trung tâm, làm mục
đích. Con nguời phải là chủ nhân của thế giới này.
4. Triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác.
Hệ thống triết học Phoiơbắc có sức thu hút lớn đối với Mác thời trẻ bởi
tính kiên định, phân minh về thế giới quan và thiên hướng chính trị dân chủ, nhân
văn của chúng.
II. HẠN CHẾ.
Triết học của Phoiơbắc không sâu, ông hiểu về phép biện chứng, đối
tượng triết học, bản chất con nguời, vai trò của thực triển còn hời hợt siêu hình,
quan điểm của ông còn đầy tính duy tâm, thái độ đối với tôn giáo không nhất

quán. Điều này thể hiện như sau:
1. Phủ nhận phép biện chứng.
Trong quan hệ đối với triết học của Hêghen, ông có thái độ phủ định sạch
trơn, không thấy được thành tựu quý giá của Hêghen là phép biện chúng để kế
thừa và phát triển. Phoiơbắc đã không đánh giá đúng mức "hạt nhân hợp lý" của
phép biện chứng, vì vậy sự phê phán của ông đôi chỗ tỏ ra thiếu sâu sắc, thiếu
sức thuyết phục.
2. Phủ nhận vai trò thực tiễn và sa vào chủ nghĩa duy tâm.
Mặc dù triết học nhân bản của Phoiơbắc phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa
duy tâm và đạo Cơ đốc giáo nhưng cũng chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa
duy tâm. Ông nói răng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình
yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo tôn sùng một vị Thượng đế siêu nhiên
cần xây dựng một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho
rằng càn phải biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối mọi
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 10
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư sản
Đức thời đó, với sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo về tình yêu thương
con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
Đề cao sức mạnh tin thần, không thấy đuơc nguồn gốc động lực, phương
tiện cải tạo xã hội, kêu gọi mọi nguời yêu nhau, lấy tình yêu xóa hận thù. Ông
không nhận thấy khoa học cũng là hoat động thực tiễn, không thấy vai trò của
thực tiễn trong quá trình nhân thức thức đẩy sản xuất. Ông cho rằng thực tiễn
là cái gì đó tầm thường, không có dấu vết của thực tiễn. Trong khi đó, hệ thống
triết học của Mac luôn bắt ngụồn từ thực tiễn.
3. Đề cao con người nhưng quan niệm con người của ông rất hời hợt.
Triết học nhân bản Phoiơbắc nhấn mạnh giá trị con người, "tố chất
người" nói chung, tuyệt đối hóa và coi bản chất con ngươi là tình yêu, song chưa
nêu ra được những tính quy định xã hội thực sự làm nên bản chất con người. Ông
đề cao tình yêu phổ quát, lấy con người làm điểm xuất phát, nhưng đó không

phải là con người sống trong một thế giới hiện thực với những quan hệ phức tạp,
mà là con người trừu tượng, phi lịch sử, mang những đặc tính sinh học bẩm sinh,
không nhìn con nguời từ gốc độ giai cấp, thời đại, dân tộc, con người là con
người. Mặc dù đôi khi ông cũng đưa ra hình ảnh tương phản: "trong một cung
điện người ta suy nghĩ khác trong một túp lều tranh". Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng, tư
tưởng đạo đức của Phoiơbắc đầy ắp những giấc mơ đẹp, nhưng ông lại không
vạch ra từ đâu và bằng cách nào đề biến chúng thành hiện thực. Đối với
Phoiơbắc, Ph.Ăngghen viết: “tình yêu ở đâu và bao giờ cũng là một ông thần
lắm phép lạ có thể giúp vượt mọi khó khăn của đời sống thực tiễn và điều đó
diễn ra trong một xã hội chia thành những giai cấp có những lợi ích đối lập hẳn
với nhau! hãy yêu nhau đi, hãy ôm hôn nhau đi, không cần phân biệt nam nữ
và đẳng cấp, thật là giấc mơ thiên hạ thuận hoài". Quan niệm thiện - ác, hạnh
phúc - đau khổ, tình yêu - thù địch ở Phoiơbắc bị chia cắt một cách siêu hình,
thiếu hẳn yếu tố tác động và chuyển hoá. Đây là bước thụt lùi so với Hêgen.
Ngay cả đem so sánh với Cantơ, Phoiơbắc vẫn quá đơn điệu. Ph.Ăngghen viết:
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 11
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
"Học thuyết của Phoiơbắc về đạo đức được gọt dũa cho thích hợp với mọi thời
kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh và chính vì thế mà không bao giờ nó có thể đem
áp dụng được ở đâu cả”.
4. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông còn mang nặng tính siêu hình
Phoiơbắc xuất phát từ những khiếm khuyết của chủ nghĩa duy vật ở những
thế kỷ trước, chống lại thuyết không thể biết và lối tư biện trừu tượng, "thấy cây
mà không thấy rừng". Ông không phủ nhận vai trò của tư duy trong nhận thức,
nhưng ông không thấy được vai trò của thực tiễn trong nhận thức. Ông không thể
lý giải một cách đúng đắn động lực của phát triển, không làm sáng tỏ tính biến
đổi, tính quy luật, tính tất yếu khách quan và tính lịch sử.
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 12
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
KẾT LUẬN

Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp vĩ đại vào lịch sử đấu tranh của
chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo trong thời kỳ mà chủ
nghĩa duy tâm đang thống trị đời sống tin thần, làm sống lại chủ nghĩa duy vật.
Phoiơbắc đề cao học thuyết về con người, lấy con người làm trung tâm, công
nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới, là chủ nhân của thế giới.
Ông đã kịch liệt phê phán những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không
thể biết, đã vạch trần bộ mặt xấu sa của tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu
tranh loại bỏ tôn giáo hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con người.
Tuy nhiên chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc không sâu, còn nhiều
mặc hạn chế, đã phủ nhận phép biện chứng của Hêghen, quan niệm bản chất con
người còn hời hợt, không thấy được khoa học cũng là hoạt động thực tiễn, không
thấy vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức, rơi vào chủ nghĩa duy tâm
khi giải quyết các vấn đề xã hội cũng gióng như các nhà triết học giai đoạn trước
Mác. Mặc dù còn những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của ông chống lại chủ
nghĩa duy tâm và tôn giáo có ý nghĩa lịch sử to lớn. Vì vậy, triết học của Phoiơbắc
trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa duy
vật của Phoiơbắc được Mác cải biến cùng với việc phát triển phép biện chứng của
Hêghen, đã xây dựng nên học thuyết duy vật biện chứng và hiện nay mục tiêu
của Đảng ta là nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
làm cho học thuyết này chiếm vị trí thống trị trong đời sống văn hoá, tinh thần
của xã hội ta.
SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 13
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT, tác giả, tên tài liệu, năm xuất bản.
* Sách tham khảo :
[1]. TS Bùi Văn Mưa, Triết học (phần I) “Đại cương về lịch sử Triết học” -
Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên
ngành Triết học – trang 209, xuất bản năm 2011.
[2]. Ph.Ăngghen, Lút vích phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển

Đức, 1888.
[3]. Hệ tư tưởng Đức – Nhà xuất bản sự thật - năm 1977.
[4]. C.Mác, Luận cương về Phoiơbắc, 1845.
[5]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Triết học (tập 1, 2, 3) - Dùng cho Nghiên cứu
sinh và Học viên cao học không thuộc chuyên ngành Triết học. NXB
Chính trị Quốc gia – năm 2001.
* Trang web tham khảo:
[6]. TS Nguyễn Huy Hòang, Quan điểm của L.PHOIƠBẮC về văn hóa và
con người, Tap chí Triết học số 5 (180) năm 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=543&cat=48&pcat=
[7]. TS Lê Công Sự, Đánh giá của C.Mác và ph.Ăngghen về vấn đề con
người trong triết học L.Phoiơbắc qua “hệ tư tưởng Đức”, Tạp chí Triết
học số 11 (186) năm 2006 />vientriet=articles_deltails&id=364&cat=48&pcat=
[8]. TS Lê Công Sự, ”Quan niệm về con người trong triết học
L.Feuerbach”,ĐH Sư Phạm Hà Nội, khoa giáo dục chính trị.
/>SVTH: Võ Phạm Thành Nhân, STT: 112, Lớp: K21 – đêm5 Trang 14

×