Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.57 KB, 20 trang )

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC






TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ


Giảng viên hướng dẫn
TS. BÙI VĂN MƯA
Người thực hiện
STT: 113
Họ tên: PHẠM TẤN NHẬT
Lớp: Cao học QTKD, Đ5
Khóa: 21 (2011 – 2013)
TP. HCM, tháng 1, năm 2012.
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.

LỜI NHẬN XÉT








Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC 2
1.1. Cơ sở chủ nghĩa duy vật nhân bản 2
1.2. Nội dung triết học duy vật nhân bản 2
1.2.1. Quan niệm về con người 2
1.2.1.1. Con người với giới tự nhiên 3
1.2.1.2. Con người với con người 4
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại 5
1.2.2. Quan niệm về tôn giáo 6
CHƯƠNG 2. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN PHOIƠBẮC 8
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc 8
2.1.1. Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật 8
2.1.2. Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm, đạo Cơ đốc giáo và đặt con người vào
tâm điểm của phân tích triết học 9
2.1.3. Triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác 11
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc 11
2.2.1. Phủ nhận phép biện chứng và chưa khắc phục hạn chế duy vật siêu hình 11
2.2.2. Đề cao con người nhưng quan niệm con người của ông rất hời hợt 13
2.2.3. Phủ nhận vai trò thực tiển và sa vào chủ nghĩa duy tâm 14
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển triết học Tây Âu trung đại bị chi phối bởi chủ nghĩa duy tâm, triết
học chỉ đề cao vai trò Thượng đế coi thường lý trí khoa học, giới tự nhiên và con
người là công cụ của nhà thờ, nhà nước phong kiến hiện thời thống trị nhân dân. Tuy
nhiên, sang thời kỳ phục hưng vai trò của lý trí khoa học, con người và giới tự nhiên
đã được khẳng định, về cơ bản nó là ngọn cờ lý luận của các lực lượng tiến bộ đấu
tranh chống lại ý thức hệ phong kiến lỗi thời. Trong hoàn cảnh như vậy, đã tạo điều
kiện thuận lợi không thể tốt đẹp hơn cho công cuộc khôi phục chủ nghĩa duy vật
truyền thống vào thế kỷ 18. Và Phoiơbắc là một trong những đại biểu ưu tú nhất có
công lớn phát triển chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật nhân bản nói
riêng tiến thêm một bước mới. Vì vậy, việc nghiên cứu chủ nghĩa duy vật nhân bản
của ông là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với nghiên cứu chủ nghĩa duy vật và
lịch sử triết học. Sau khi nghiên cứu nhiều bài viết và những tài liệu liên quan đến
triết học Phoiơbắc: “Đại cương về lịch sử triết học”[1]; “L.Phoiơbắc và sự cáo chung
của triết học cổ điển Đức”[2]; “Quan niệm về con người trong triết học
L.Phoiơbắc”[3]; v.v…, tác giả đã rút ra những đóng góp quan trọng của triết học
Phoiơbắc đối với lịch sử triết học như: đóng vai trò quan trọng trong việc khôi phục
và phát triển chủ nghĩa duy vật truyền thống; phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm,
đạo Cơ đốc giáo và biết đặt con người vào tâm điểm của phân tích triết học; triết học
của Phoiơbắc cùng với Hêghen, là tiền đề lý luận của triết học Mác. Mặc dù có nhiều
đóng góp như vậy, nhưng triết học của ông vẫn còn nhiều hạn chế nhất định, triết học
của ông chưa thực sự sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến diện, phủ nhận phép
biện chứng; ông đề cao con người nhưng quan niệm về con người của ông rất hời hợt;
phủ nhận vai trò thực tiển sa vào chủ nghĩa duy tâm khi lý giải các vấn đề xã hội.
Nhằm tìm hiểu sâu hơn về nội dung, giá trị và hạn chế của triết học Phoiơbắc, tác giả
thực hiện tiểu luận “Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế
của nó”. Kết cấu tiểu luận bao gồm hai chương chính: chương 1, giới thiệu về tưởng
cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc; chương 2, giới thiệu về những giá

trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc.
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 1
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC
1.1. Cơ sở chủ nghĩa duy vật nhân bản
Lịch sử triết học phương Tây thời kỳ cận đại nói chung và triết học cổ điển Đức nói
riêng là các cuộc đấu tranh giữa các trào lưu, khuynh hướng, trường phái triết học
khác nhau trong bối cảnh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và nhanh
chóng được khẳng định. Giai đoạn này, một trong những yếu tố quan trọng trong
nghiên cứu triết học là đề cao vai trò của con người – chủ thể hoạt động cải tạo thế
giới. Xuất phát từ xu hướng đó, Phoiơbắc đã lấy con người làm đối tượng của nghiên
cứu triết học nhằm làm rõ bản chất của con người đang tồn tại để con người được
sống như chính mình, đồng thời giải quyết vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Với
ông thì quan hệ này thuộc về bản chất của con người vì chỉ con người đang sống
(đang tồn tại) mới có tư duy, vì vậy để giải quyết mối quan hệ trên một cách đúng đắn
phải xuất phát từ con người. Vì ông xem con người là đối tượng nghiên cứu triết học
nên triết học mới phải là triết học duy vật nhân bản hay triết học duy vật nhân bản là
khoa học của mọi khoa học. Nội dung chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc cũng
thể hiện rõ sứ mệnh cao cả là giúp con người nhận ra mình là một bộ phận của giới tự
nhiên. Với ông, giới tự nhiên là vật chất có trước ý thức, tồn tại vô cùng đa dạng và
chính nó vận động theo quy luật nhân quả làm xuất hiện con người và xã hội, vì vậy
con người là sản phẩm tất yếu của giới tự nhiên và bằng tư duy, cảm giác của mình thì
con người tìm hiểu bản thân mình và giới tự nhiên.
1.2. Nội dung triết học duy vật nhân bản
Nhằm tìm hiểu sâu hơn về nội dung triết học nhân bản của Phoiơbắc, tác giả đi sâu
nghiên cứu hai vấn đề cơ bản của triết học là: quan niệm về con người và tôn giáo.
1.2.1. Quan niệm về con người
Với Phoiơbắc, đối tượng nghiên cứu triết học của ông chính là con người, điều
này hoàn toàn mới so với nhiều nhà triết học trước đó. Vì vậy, nhằm nghiên cứu sâu

Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 2
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
hơn về bản chất con người tác giả đi tìm hiểu các vấn đề: mối quan hệ giữa con người
và giới tự nhiên; mối quan hệ giữa người và người; mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại.
1.2.1.1. Con người với giới tự nhiên
Tiếp thu những thành tựu của chủ nghĩa duy vật, Phoiơbắc cho rằng giới tự
nhiên vật chất có trước ý thức, nó tồn tại đa dạng và phong phú, bản thân nó bị chi
phối bởi mối liên hệ nhân quả nên không ngừng vận động và phát triển trong không
gian và thời gian theo quy luật khách quan nội tại. Đối với con người, theo ông con
người là một sinh vật có hình thể, vật chất, vì vậy nó mới có năng lực quan sát, tình
yêu, lý trí. Ông khẳng định: “Con người hoàn thiện có sức mạnh của tư duy, sức
mạnh của ý chí và sức mạnh của tình cảm. Sức mạnh của tư duy là ánh sáng của sự
nhận thức, sức mạnh của ý chí – năng lực của tính cách, sức mạnh của tình cảm –
tình yêu….” [4]. Như vậy ý chí, tư duy và tình cảm không chỉ là những năng lực cơ
bản của con người, mà còn là những sức mạnh bị chế định bởi chính bản chất của con
người, là mục tiêu và phương tiện tồn tại của con người. Vậy, mối quan hệ giữa giới
tự nhiên và con người là gì?. Theo ông, con người không phải là sản phẩm của thượng
đế như các nhà thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hoá của ý niệm
tuyệt đối như Hêghen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên do quá trình vận động và
phát triển của nó (giới tự nhiên) trong điều kiện nhất định dẫn đến sự ra đời đời sống
sinh học mà cao hơn là con người, ông viết: "Giới tự nhiên là ánh sáng, điện từ, từ
tính, không khí, nước, lửa, đất, động vật, thực vật, là con người, bởi vì con người là
một thực thể hoạt động thiếu tự chủ và vô thức" [3]. Như vậy rõ ràng, sự phát triển và
tồn tại của con người cũng giống như sự phát triển và tồn tại của các loài sinh vật
khác, tuy nhiên, con người là sản phẩm tiến hóa cao nhất của giới tự nhiên và là sinh
vật bậc cao có tính vượt trội so với các loài sinh vật khác ở đời sống tinh thần – đó là
khác nhau trong ý thức. Phoiơbắc cho rằng, con người và giới tự nhiên có mối liên hệ
khắng khít với nhau, theo ông, con người không thể tách rời khỏi giới tự nhiên và
ngược lại giới tự nhiên là cơ sở không thể thiếu của con người. Bởi vì con người chỉ

dựa vào giới tự nhiên để thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của cuộc sống và chính giới tự
nhiên là đối tượng cảm giác trực tiếp của con người.
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 3
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
Như vậy, mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ảnh mối quan hệ thế
giới vô cơ và hữu cơ. Theo Phoiơbắc, con người chỉ tồn tại và phát triển trong thế giới
tự nhiên, và chính giới tự nhiên tác động lại quá trình tồn tại và phát triển của con
người chứ không phải là thần thánh là chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
1.2.1.2. Con người với con người
Với Phoiơbắc, “ông luôn coi bản chất con người là tổng thể các nhu cầu, khả
năng, khát vọng, ham muốn… Những bản chất này thật sự sống động khi con người
thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên và chan hòa với cộng đồng xã hội” [1,212]. Tuy
nhiên, con người trong cộng đồng xã hội không phải ai cũng giống ai, họ có những
điểm giống nhau và khác nhau. Theo Phoiơbắc, chính giới tự nhiên đã ảnh hưởng tới
các nhu cầu của con người và chính các nhu cầu tự nhiên đó đã tác động tới tâm tư,
tình cảm, khả năng, khát vọng… hay gọi là bản tính cá nhân và cơ bản làm cho người
này không giống người kia. Nhưng bản tính cá nhân không thể sống động nếu họ
không có sự ràng buộc trong cộng đồng xã hội - đó là tình yêu của mỗi con người đối
với cộng đồng. Như vậy, suy cho cùng con người theo quan điểm của Phoiơbắc là con
người vừa mang bản tính cá nhân và bản tính cộng đồng có bản chất nằm trong tình
yêu. Do con người mang bản tính cộng đồng, nên “mỗi con người tiềm tàng một tình
yêu mênh mông dành cho con người và tình yêu này tuôn trào từ tính cộng đồng chứ
không phải bắt nguồn từ Thượng đế” [1,211]. Rõ ràng quan điểm của Phoiơbắc đã thể
hiện rõ sự khác biệt với quan đểm triết học của Hêghen - theo Hêghen mỗi con người
sinh ra đã là bất bình đẳng. Tuy nhiên, bản tính cá nhân và bản tính cộng đồng không
phải hoàn toàn độc lập nhau mà cái bản tính cá nhân của Phoiơbắc không tách khỏi sự
bó buộc, không nằm ngoài mối quan hệ mật thiết với cộng đồng xã hội. Đối với
Phoiơbắc bản tính cá nhân rất được ông nhấn mạnh, song quan điểm của ông chỉ ra
rằng trong quá trình sinh sống các hoạt động của cá nhân tiếp xúc với cộng đồng xã
hội và chính sự tiếp xúc đã làm cho con người không phải đơn thuần là một sinh vật

tự nhiên không có giống loài. Trong cách nhìn của Phoiơbắc thì con người có cái tôi,
cái đơn tử, cái tuyệt đối được miêu tả trong triết học của các nhà triết học trước đây
chỉ là xuất phát điểm là nền tảng vật lý – sinh lý của con người và bản chất đích thật
của con người là một sinh thể có tính loài hay là bản tính cộng đồng xã hội. Chính vì
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 4
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
con người có bản tính cá nhân và bản tính cộng động như đã phân tích ở trên nên nó
là cơ sở hình thành tính ích kỷ hợp lý. Đây là quan điểm hoàn toàn mới so với các nhà
triết học trước thời điểm đó và khi nghiên cứu triết học của Phoiơbắc, Lênin cho rằng
đây là phôi thai của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Suy cho cùng, tính ích kỷ đòi hỏi phải
có sự ràng buộc hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, với ông thì sự hài
hòa này được xây dựng trên cơ sở tình yêu giữa con người với nhau. Nhìn xa hơn
nữa, thì tính ích kỷ của con người là động lực thúc đẩy sự phát triển lịch sử xã hội.
Như vậy, Phoiơbắc cho rằng giữa con người với con người có mối quan hệ ràng
buộc lẫn nhau, giữa họ vừa mang bản tính cá nhân đồng thời vừa mang bản tính cộng
đồng. Hơn nữa, cái bản tính cá nhân không tách khỏi sự bó buộc, không nằm ngoài
mối quan hệ mật thiết với bản tính cộng đồng. Chính vì có mối ràng buộc như vậy là
cơ sở hình thành nên tính ích kỷ và tính ích kỷ đồng thời là động lực phát triển xã hội.
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại
Như tôi đã trình bày ở trên, mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại thuộc về bản
chất của con người. Trong quá trình quan sát mọi hoạt động lao động thực tiển của
con người, Phoiơbắc cho rằng con người là sinh vật cao nhất của giới tự nhiên và có
hình thể sinh lý, vật lý, nhờ vậy mà con người có thể quan sát và suy nghĩ vượt trội
các sinh vật khác. Bản chất con người là tổng hợp trên hai phương diện là thể xác (tồn
tại) và tinh thần (tư duy), sự thống nhất hai phương diện này đảm bảo cho con người
tồn tại và phát triển. Trong khi đó, ông phê phán chủ nghĩa duy tâm vấp phải sai lầm
là thủ tiêu sự thống nhất đó, đồng thời tách tư duy con người ra khỏi tồn tại, còn chủ
nghĩa nhị nguyên thì xem cái tồn tại và tư duy tồn tại độc lập với nhau. Sau khi phê
phán những trường phái triết học đó, Phoiơbắc khẳng định rằng quan hệ thực sự giữa
tư duy và tồn tại là tồn tại – chủ thể, tư duy – thuộc tính. Để giải thích vì sao tồn tại là

chủ thể còn tư duy là thuộc tính, theo Phoiơbắc, tất cả hoạt động các cơ quan trên cơ
thể con người và ngay cả tư duy đều đến từ việc làm của cơ thể, của đầu óc con
người, bản thân các hoạt động đó khác nhau ở chổ nó là hoạt động của đầu óc. Tư duy
xuất phát từ tồn tại chứ không phải xảy ra ngược lại. Cơ sở tồn tại nằm ngay trong tồn
tại chính là cảm tính, trí tuệ, tất yếu và chân lý. Bản chất tồn tại với tư cách là một tồn
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 5
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Theo Phoiơbắc, mỗi con người cụ thể đang
sống và hoạt động là những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và
tinh thần, giữa phương diện vật lý và phương diện tâm lý. Và cũng từ đó ông dễ dàng
rút ra một kết luận triết học duy vật rằng, tư duy, ý thức của con người không là cái gì
khác như là thuộc tính vốn có của một dạng vật chất có tổ chức cao – bộ óc con
người. Chính ở đây, ông đã phần nào phỏng đoán được nội dung vấn đề cơ bản của
triết học, những điều suy nghĩ này đã được Ăngghen phát biểu một cách rõ ràng hơn
trong tác phẩm: Lutvich Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức [2].
Như vậy, tư duy và tồn tại là thuộc bản chất con người và phải tìm hiểu chính
bản chất con người mới hiểu được nó. Tuy nhiên, tư duy và tồn tại không phải là hai
chủ thể độc lập mà nó có mối liên hệ thống nhất với nhau, tư duy xuất phát từ tồn tại
và chính sự thống nhất này có tác động lớn đến sự tồn tại và phát triển của con người.
1.2.2. Quan niệm về tôn giáo
Phoiơbắc cho rằng, “tôn giáo không đơn giản là những ảo tưởng phi lý, hoang
đường mà là những ước mơ, khát vọng đời thường của con người” [1,213]. Dựa trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật nhân bản, Phoiơbắc cho rằng yếu tố quan trọng
hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tôn giáo đó là trạng thái tâm lý của con người.
Ông viết "Thượng đế không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ mà là thực thể
tâm lý" [3]. Chính sự xúc cảm mạnh, sự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ, tức là
sự bất lực trong nhận thức, sợ hãi, khó khăn, bế tắt… trong cuộc sống của con người
là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. Nhưng sự xúc cảm hay trạng thái đau khổ không
phải là hiện tượng mang tính chủ quan như chủ nghĩa duy tâm, mà nó là sự khách
quan. Theo Phoiơbắc, tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con người nhưng giấc mơ đó

không viễn vông mà nó là của hiện thực. Trên tinh thần như vậy, ông phê phán các
quan điểm cho rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh.
Bởi theo ông, người nguyên thuỷ là con người cảm tính chứ không phải con người lý
tính. Đời sống của người nguyên thuỷ hàng ngày phải tiếp xúc với muôn vàn sự vật,
hiện thể tượng đa dạng của giới tự nhiên như: mặt trăng, mặt trời, bão lụt, giông tố,
và lẽ đó làm con người phải lệ thuộc vào chúng để tồn tại. Từ đó, phát sinh tâm lý hay
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 6
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
tình cảm trong con người đối với giới tự nhiên. Bởi vì, thứ nhất, tự nhiên là đối tượng
cảm giác trực tiếp của con người gây nên những ấn tượng mà giới tự nhiên tạo ra cho
con người thông qua các cảm giác đều có thể trở thành lý do của sự sùng bái tôn giáo.
Thứ hai, sự sùng bái giới tự nhiên còn bắt nguồn từ việc trong quá trình sống, do thể
chất yếu ớt của mình, con người thường có tâm lý sợ hãi các hiện tượng của giới tự
nhiên, dẫn đến tình trạng bất lực trước các hiện tượng tự nhiên. Chính vì vậy, họ xem
rằng việc tạo nên các hiện tượng đó đối với con người là một thực thể siêu nhân - thần
thánh. Thứ ba, như một hiện tượng tâm lý, tình cảm lệ thuộc vào giới tự nhiên của con
người gắn liền với quan niệm về đời sống tâm linh hay là quan niệm về cái chết. Theo
quan điểm hiện đại, con người là một thực thể tự nhiên - sinh học, nên phải tuân theo
quy luật sinh - lão, bệnh - tử. Nhưng người nguyên thuỷ thì chưa thể hiểu được điều
đó, họ cho rằng sự đau ốm, chết chóc chính là sự trừng phạt của Thánh thần. Vì vậy,
tín ngưỡng tôn là đời sống tinh thần không thể thiếu của con người, trong các hình
thức tín ngưỡng tôn giáo, nhà triết học cổ điển Đức rất quan tâm đến vấn đề cầu
nguyện, bởi đây là một hiện tượng tâm lý đặc biệt phản ánh thế giới nội tâm của con
người một cách sâu sắc nhất, toàn diện nhất, phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa con
người và thần thánh. Phoiơbắc viết: "Người tín ngưởng hướng tới Thượng đế cùng
với lời cầu nguyện sùng kính… Bản chất thầm kín của tôn giáo được bộc lộ trong lời
cầu nguyện trong cầu nguyện, con người hướng một cách trực tiếp tới Thượng đế,
cho nên Thượng đế đối với con người là nguyên nhân trực tiếp thực hiện lời cầu
nguyện" [5]. Trong nghiên cứu vấn đề tôn giáo của Phoiơbắc, Ăngghen cho rằng,
Phoiơbắc không đặt ra vấn đề xoá bỏ tôn giáo, mà muốn hoàn thiện nó triết học cũng

phải hoà vào tôn giáo. Ông còn coi các thời đại loài người chỉ khác nhau ở sự thay đổi
về phương diện tôn giáo. Tôn giáo theo ông là ở mối quan hệ thương yêu giữa người
với người và tình yêu nam nữ là hình thức cao nhất. Từ khi có loài người, mặc dù có
những quy định của nhà nước về hôn nhân, song tình yêu và tình bạn là không thay
đổi. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc, theo Ăngghen là ở chỗ ông coi mối
quan hệ thuần tuý giữa người với người là tôn giáo – đó là tôn giáo của tình yêu.
Từ những phân tích trên có thể hình dung được quan điểm của Phoiơbắc về tôn
giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức của con người. Chính con người chứ
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 7
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
không phải ai khác sinh ra Thượng đế chứ không phải Thượng đế sinh ra con người.
Ông tuyệt đối hóa tôn giáo, các thời đại khác nhau chỉ thay đổi trên phương diện tôn
giáo, ông ra sức xây dựng tôn giáo - đó chính là tôn giáo của tình yêu, vì tình yêu là
cơ sở là cứu cánh của con người giúp con người sống đúng với bản tính của mình.
CHƯƠNG 2. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc
Dựa trên cơ sở tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc tác giả đi
sâu vào phân tích các giá trị cơ bản của triết học Phoiơbắc như: triết học của Phoiơbắc
có vai trò khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật truyền thống; phê phán mạnh mẽ
chủ nghĩa duy tâm, đạo Cơ đốc giáo và biết đặt con người vào tâm điểm của phân tích
triết học; triết học của Phoiơbắc cùng với Hêghen, là tiền đề lý luận của triết học Mác.
2.1.1. Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật
Nền triết học của Tây Âu trong giai đoạn thời kỳ trung đại bị chi phối mạnh mẽ
bởi chủ nghĩa duy tâm, người ta coi trọng tôn giáo, coi Thượng đế là đấng tối cao tạo
ra con người, lý trí khoa học bị coi thường, vai trò của giới tự nhiên và con người bị
hạ thấp…. Chính vì vậy, khoa học không có cơ hội phát triển hay nói đúng hơn là bị
chôn vùi, thần học có cơ hội phát triển mạnh mẽ và bao trùm đời sống tinh thần con
người, nhà thờ và nhà nước phong kiến thống trị con người. Sang thời kỳ phục hưng,
lý trí, con người và giới tự nhiên đã được coi trọng hơn, tuy vẫn còn đó những nhà

triết học theo chủ nghĩa duy tâm nhưng chủ nghĩa duy vật đã bắt đầu khôi phục và
phát triển, trong đó có thể kể đến các nhà triết học như: Francis Becon người sáng lập
chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh, Charles de Montesquieu chủ nghĩa duy vật chiến
đấu Pháp thế kỉ 18, Phoiơbắc với chủ nghĩa duy vật nhân bản…. Tuy nhiên, Phoiơbắc
là người đã khôi phục được truyền thống chủ nghĩa duy vật một cách rõ ràng, ông
đánh giá rất cao vai trò của con người và giới tự nhiên, đồng thời ông đã phát triển
chủ nghĩa duy vật thêm một bước mới, đối với ông việc đi tìm triết học ngay trong
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 8
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
giới tự nhiên và con người là một hướng đi mới trong nghiên cứu triết học. Không
những thế, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người Phoiơbắc đã nêu lên
tính ích kỷ hợp lý của con người. Chính vì vậy, khi Ăngghen nghiên cứu triết học của
Phoiơbắc, Ăngghen đã đánh giá cao vai trò của Phoiơbắctrong cuộc đấu tranh chống
lại chủ nghĩa duy tâm, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật. Ăngghen coi tác
phẩm “Bản chất đạo Cơ đốc” có tác dụng giải phóng và đưa một cách không úp mở
chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua. Tác phẩm này đã giáng một đòn mạnh vào chủ
nghĩa duy tâm cho rằng thế giới là do đấng cao siêu tạo nên. Theo tác phẩm này, giới
tự nhiên tồn tại độc lập đối với mọi triết học. Nó là cơ sở mà con người chúng ta - bản
thân chúng ta cũng là sản phẩm của tự nhiên – là sinh vật cao nhất của tự nhiên.
Ngoài tự nhiên và con người ra, không còn có gì nữa cả, và những đấng cao siêu do
trí tưởng tượng tôn giáo của chúng ta nặn ra, chỉ là những phản ánh hư ảo của chính
thực thể của chúng ta thôi. Ngoài ra, vai trò quan trọng của chủ nghĩa duy vật được
thể hiện rõ trong quan điểm của ông khi cho rằng chủ nghĩa duy vật thuần túy khoa
học tự nhiên là “cơ sở của tòa kiến trúc tri thức con người, nhưng không phải là bản
thân tòa kiến trúc đó” [3]. Vì chúng ta không những chỉ sống trong giới tự nhiên, mà
còn sống trong xã hội loài người, mà xã hội loài người thì cũng có lịch sử phát triển
của nó và khoa học của nó, không kém gì tự nhiên. Do đó, vấn đề là làm cho khoa học
xã hội, nghĩa là toàn bộ khoa học được gọi là khoa học lịch sử và triết học, phù hợp
với cơ sở duy vật chủ nghĩa và xây dựng lại khoa học xã hội phù hợp với cơ sở đó.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc ra đời đã góp công lao to lớn

đánh thức chủ nghĩa duy vật trong thời gian dài bị chôn vùi trong đêm trường trung
cổ. Ông đã phát triển chủ nghĩa duy vật thêm một bước mới và định một hướng
nghiên cứu triết học mới, với ông nghiên cứu triết học phải xuất phát từ ngay trong
giới tự nhiên và con người.
2.1.2. Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm, đạo Cơ đốc giáo và đặt con
người vào tâm điểm của phân tích triết học
Như phân tích ở trên, chính Phoiơbắc là người khôi phục chủ nghĩa duy vật thời
kỳ phục hưng. Trong quá trình nghiên cứu tôn giáo, tôn giáo duy nhất mà ông nghiên
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 9
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
cứu nghiêm túc là đạo Cơ Đốc, với ông, Chúa của đạo Cơ Đốc chỉ là sự phản chiếu
hư ảo con người nhưng lại là sản phẩm của một quá trình trừu tượng hoá lâu dài. Vì
vậy, Chúa chỉ là một hình ảnh, cũng không phải là con người hiện thực mà là tinh hoa
của một số lớn những con người hiện thực, là con người trừu tượng, cũng chỉ là một
hình ảnh trong quan niệm mà thôi. Trái với các quan niệm tôn giáo và thần học cho
rằng Chúa tạo ra con người, ông khẳng định chính con người tạo ra Chúa. Khác với
Hêghen nói về sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Phoiơbắc nói về sự tha hoá của bản chất
con người vào Thượng đế tức là Chúa. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của con
người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới cái gì đẹp nhất trong
một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con người
không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Chúa, từ đó
ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Chúa siêu nhiên đứng ngoài chi
phối cuộc sống con người. Vậy, mặt tích cực trong triết học của Phoiơbắc ở chỗ ông
đấu tranh chống quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt là quan
niệm về Chúa.
Không chỉ ra sức phê phán mạnh mẽ tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm mà Phoiơbắc
còn xem con người là trung tâm của nghiên cứu triết học. Đối với Phoiơbắc, “con
người chính là một triết học mới, có sứ mạng mang lại cho con người cuộc sống thật
sự hạnh phúc trên trần gian và ông lấy con người là đối tượng nghiên cứu của triết
học” [1,209], như vậy, ưu điểm lớn của ông đã quan tâm nhiều đến vấn đề con người.

Quan điểm của Phoiơbắc về con người là một trong những thành tựu của triết học
trước Mác. Nhận xét về công lao của Phoiơbắc trong việc nghiên cứu vấn đề con
người, Mác và Ăngghen cho rằng, Phoiơbắc đã làm cho chủ nghĩa duy vật được đồng
nhất với chủ nghĩa nhân đạo. Nhà triết học duy vật Đức vĩ đại này đã xây dựng quan
điểm về con người trong trường văn hoá trên cơ sở suy ngẫm và phê phán các di sản
tư tưởng trước đó. Hơn ai hết, ông hiểu tính phiến diện và hạn chế của hàng loạt chủ
nghĩa khác nhau như: chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý.
Tóm lại, đóng góp của Phoiơbắc là ông tích cực phê phán mạnh mẽ và đấu tranh
đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt là
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 10
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
quan niệm về Thượng đế. Ông cũng có đóng góp to lớn với chủ nghĩa duy vật nhân
bản, ông luôn xem con người là trọng tâm của nghiên cứu triết học.
2.1.3. Với Hêghen, triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác
Tư tưởng duy vật của Phoiơbắccó ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan triết học
của Mác và Ăngghen lúc bấy giờ và “là khâu trung gian” giữa triết học của Hêghen và
triết học của hai ông. Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân
loại, chính Mác và Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân
loại. Kế thừa thành tựu của nền triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen
và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác. Mác và Ăngghen đã từng là
những người theo học triết học Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc, qua đó hai
ông đã nhận thấy triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng
nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Mác và Ăngghen đã kế thừa chủ nghĩa
duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó
để xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây
dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
thống nhất một cách hữu cơ.
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có nhiều giá trị đối với quá trình phát triển chủ nghĩa
duy vật, nhưng triết học của ông vẫn còn nhiều hạn chế nhất định như: triết học của

ông chưa thực sự sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến diện, phủ nhận phép biện
chứng; quan niệm về con người của ông rất hời hợt; phủ nhận vai trò thực tiển sa vào
chủ nghĩa duy tâm khi ông lý giải những vấn đề về xã hội.
2.2.1. Phủ nhận phép biện chứng, chưa khắc phục hạn chế duy vật siêu hình
Trong triết học của Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với phương
pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được Mác làm giàu bằng phương pháp biện
chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng
thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được Mác phát triển lên
một trình độ mới về chất. Trong khi đó ở thời kỳ phục hưng và cận đại, chủ nghĩa duy
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 11
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
vật đã có bước phát triển về chất so với chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Đỉnh
cao của chủ nghĩa duy vật trong giai đoạn này là chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc. Nhưng, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc lại là chủ nghĩa duy vật
siêu hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi phương pháp biện chứng. Mặc dù Hêghen là
người Thầy của Phoiơbắc nhưng ông luôn đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của
triết học Hêghen, Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như
các nhà triết học giai đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết các
vấn đề xã hội. Hơn nữa, “ông hiểu biện chứng rất hời hợt – phép biện chứng chứ
không phải là sự độc thoại của một nhà tư tưởng với bản thân mình mà là sự đối
thoại giữa Tôi và Anh” [1,214]. Với phép biện chứng thì lẽ ra Phoiơbắc phải nhìn
nhận sự vật trong mối liên hệ phổ biến, tìm ra các quy luật về sự vận động và phát
triển của giới tự nhiên, con người và tư duy. Ngược lại với phép biện chứng, ông
không xem con người trong mối liên hệ với xã hội, trong những điều kiện sinh hoạt
làm cho con người trở thành những con người đúng như họ đang tồn tại trong thực tế
nên ông vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu tượng, phi thực tiễn thậm chí là hời hợt, ông
tuyệt đối hóa tôn giáo tình yêu - các thời đại khác nhau chỉ trên phương diện thay đổi
tôn giáo, đạo đức nghèo nàn, bất lực… Nếu như Cantơ quan niệm không gian và thời
gian là hình thức "tiên nhiên" thì Phoiơbắc quan niệm, không gian và thời gian tồn tại
khách quan, không có vật chất tồn tại vận động bên ngoài không gian và thời gian.

Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ nhân quả;
thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách quan, từ
đó dẫn tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ, con người. Ở đây, Phoiơbắc chưa khắc
phục được hạn chế của duy vật siêu hình, coi vật chất như là một cái gì thuần nhất.
Tuy thừa nhận vật chất vận động nhưng chưa lý giải được nguồn gốc, động lực, hình
thức của vận động. Vì những yếu kém và hời hợt về phép biện chứng như vậy, nên để
đạt được cái triết học bay lượn trên tất cả khoa học riêng biệt và tổng hợp các khoa
học ấy lại thành khoa học của các khoa học đối với Phoiơbắc vẫn là một hàng rào
không thể vượt qua.
Như vậy, ngoài sự đóng góp to lớn trong việc đánh thức chủ nghĩa duy vật.
Nhưng nội dung triết học của Phoiơbắc vẫn mang nhiều hạn chế của duy vật siêu
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 12
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
hình, coi vật chất là cái thuần nhất không tồn tại bên ngoài không gian và thời gian,
chính vì vậy mà ông đã tách rời chủ nghĩa duy vật của mình ra khỏi phép biện chứng.
2.2.2. Đề cao con người nhưng quan niệm con người của ông rất hời hợt
Tuy Phoiơbắc được đánh giá cao trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy
vật nhân bản, nhưng trong quá trình nghiên cứu tư tưởng triết học của ông chúng ta có
thể nhận thấy hạn chế cơ bản của Phoiơbắc là do đứng trên quan điểm chủ nghĩa nhân
đạo trừu tượng mà quan niệm con người rất trừu tượng và phi lịch sử. Mác và
Ăngghen nhận xét về Phoiơbắc, là ông lấy con người làm xuất phát điểm, song ông
hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó con người ấy sống. Vì vậy, “con người mà
ông nói luôn là con người trừu tượng con người đó không ra đời từ trong bụng mẹ,
mà lại sinh ra từ ông thần của các tôn giáo độc thần con người đó cũng không sống
trong thế giới hiện thực” [4]. Phoiơbắc có ưu điểm lớn là ông thấy vai trò to lớn của
con người nhưng ông vẫn còn bám vào lý luận và không xem xét con người trong mối
quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh hoạt làm cho họ trở thành
những con người đúng như họ đang tồn tại trong thực tế nên ông vẫn cứ dừng lại ở
một sự trừu tượng. Vì vậy, khi phê phán Phoiơbắc về quan điểm con người Ăngghen
viết, “về hình thức ông là con người hiện thực chủ nghĩa, ông ấy lấy con người làm

xuất phát điểm, song ông không nói đến thế giới trong đó con người ông ấy sống, vì
vậy con người mà ông nói luôn là con người trừu tượng” [1,275]. Trong khi đó, trung
tâm thế giới quan mới do Mác và Ăngghen đặt nền móng là chủ nghĩa duy vật về lịch
sử, con người không phải bước ra từ sâu thẳm của giới tự nhiên thành một sinh thể tự
nhiên phổ quát như Phoiơbắc nhận định mà là tiến trình lịch sử. Theo hai ông, con
người khác với động vật trước hết không phải bởi nó có ý thức như Phoiơbắc nói, mà
bởi sự bắt buộc phải lao động sản xuất nhằm tạo ra cho mình các phương tiện sống.
Vì vậy, con người của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai cấp và cực kì
trừu tượng. Thực tế, thì ông không vượt xa hơn các nhà khai sáng Pháp trong quan
niệm về con người, kể cả xét theo khía cạnh cá thể được coi là điểm mạnh nhất ở ông,
cũng phải nhường bước cho một số nhà tâm sinh lý học đương thời và ở khía cạnh xã
hội, thì Phoiơbắc hầu như không đề cập đến, về sau được Mác nghiên cứu.
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 13
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
2.2.3. Phủ nhận vai trò thực tiển và sa vào chủ nghĩa duy tâm
Như đã phân tích ở trên, ông tuyệt đối hóa tôn giáo, theo ông thì các thời đại khác
nhau chỉ thay đổi trên phương diện tôn giáo và ông đã ra sức xây dựng tôn giáo đó là
thứ tôn giáo của tình yêu. Điều này chứng tỏ ông đã sai lầm khi sa vào chủ nghĩa duy
tâm, trong tác phẩm “L.Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”,
Ăngghen đã phê phán: "Chủ nghĩa duy tâm thực sự của Phoiơbắc là ở chỗ ông xét
các mối quan hệ giữa người và người dựa trên cảm tình đối với nhau… Phoiơbắc cho
rằng, những quan hệ ấy chỉ có giá trị đầy đủ, khi người ta đem lại cho chúng một sự
tôn phong tối cao bằng cái tên là tôn giáo" [2]. Và Mác nhận xét “ Phoiơbắc hòa tan
bản chất con người và tôn giáo. Nhưng bản chất con người không là cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [1,247]. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc
lộ rõ ra khi chúng ta nghiên cứu tới triết học tôn giáo và đạo đức học của ông.
Phoiơbắc hoàn toàn không muốn xóa bỏ tôn giáo, bản thân triết học cũng phải hòa
vào tôn giáo. Do dựa trên một quan niệm duy tâm sai lầm như vậy cộng với sự bất lực
về hiện thực tự nhiên của nhà triết học trước thực trạng xã hội Đức đương thời đã làm

cho ông không tìm thấy con đường thoát khỏi vương quốc của sự trừu tượng để đi tới
hiện thực sinh động. Ông bám hết sức chặt lấy giới tự nhiên và con người, song đối
với ông, tất cả tự nhiên lẫn con người vẫn chỉ là những danh từ mà thôi. Mác cũng
đánh giá rằng khuyết điểm toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay (kể cả
Phoiơbắc) là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được nhìn nhận dưới hình thức khách thể
hay trực quan chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là
thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan. Chính vì ông không đề cao vai trò
của thực tiển, nên khi nghiên cứu triết học của Phoiơbắc có thể nhận thấy nhận thức
con người trong ông là một quá trình tĩnh tại, bị động mà không phải là quá trình
mang tính thực tiễn, năng động sáng tạo của con người.
Như vậy, triết học của Phoiơbắc đã thực sự bỏ rơi thực tiễn, vì không xuất phát từ
thực tiễn nên khi bàn đến các vấn đề xã hội ông thường bị cuốn vào chủ nghĩa duy
tâm, đề cao cái tinh thần mà không thấy được vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận
thức và sự hoàn thiện con người nhằm thúc đẩy sản xuất vật chất và phát triển xã hội.
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 14
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
KẾT LUẬN
Là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, Phoiơbắc có tham vọng lấy
con người làm đối tượng nghiên cứu cơ bản, nhằm hình thành nên triết học mới và đó
là triết học duy vật nhân bản hay triết học duy vật nhân bản là khoa học của mọi khoa
học. Để thực hiện tham vọng của mình ông đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ của con
người với các khách thể khác. Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên,
theo ông con người chỉ tồn tại và phát triển trong thế giới tự nhiên và chính giới tự
nhiên tác động lại quá trình tồn tại và phát triển của con người chứ không phải là thần
thánh. Trong mối quan hệ giữa con người với con người, ông cho rằng giữa con người
với con người có quan hệ ràng buộc lẫn nhau, giữa họ vừa mang bản tính cá nhân
đồng thời vừa mang bản tính cộng đồng, cái bản tính cá nhân không tách khỏi sự bó
buộc, không nằm ngoài mối quan hệ mật thiết với bản tính cộng đồng. Trong mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại là thuộc bản chất con người và phải tìm hiểu chính bản
chất con người mới hiểu được nó, tuy nhiên, tư duy và tồn tại không phải là hai chủ

thể độc lập mà nó có mối liên hệ thống nhất với nhau. Ngoài ra, ông cũng nghiên cứu
sâu về vấn đề tôn giáo, nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa người với thần, với ông tôn
giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý và nhận thức của con người. Và chính con người
chứ không phải ai khác đã sinh ra Thượng đế chứ không phải Thượng đế sinh ra con
người. Theo ông, các thời đại khác nhau chỉ thay đổi trên phương diện tôn giáo, tôn
giáo mà ông ra sức xây dựng đó chính là tôn giáo của tình yêu. Như vậy, triết học duy
vật nhân bản của Phoiơbắc có vai trò to lớn là khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy
vật truyền thống, là tiền đề lý luận của triết học Mác, đồng thời thể hiện sự phê phán
mạnh mẽ đối với chủ nghĩa duy tâm. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử xã hội Đức làm
cho triết học của ông vẫn còn nhiều hạn chế như: chưa khắc phục quan điểm siêu
hình, phủ nhận phép biện chứng, quan niệm về con người của ông rất hời hợt và chưa
khắc phục hoàn toàn chủ nghĩa duy tâm. Mặc dù còn nhiều khuyết điểm, nhưng trong
giai đoạn Phoiơbắc trở về trước chính ông chứ không phải ai khác là người đã khôi
phục được truyền thống chủ nghĩa duy vật một cách rõ ràng nhất, vì vậy phải công
nhận rằng triết học Poiơbắc tạo nên bước ngoặt quan trọng đối với lịch sử triết học.
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 15
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo chính,
[1]. Bùi Văn Mưa, Đại cương về lịch sử triết học, phần 1, Lưu hành nội bộ, ĐH.Kinh
Tế TP.HCM, TP.HCM, 2011.
[2]. H.Phuc, Bài dịch L.Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
15/1/2012, Diễn đàn kiến thức, < />dong/54673-lut-vich-phoi-o-bac-va-su-cao-chung-cua-triet-hoc-co-dien-duc. >.
[3]. Lê Công Sự, Quan niệm về con người trong triết học L.Phoiơbắc, 16/1/2012, Tạp
chí Nghiên cứu con người,
< />[4]. Nguyễn Huy Hoàng, Quan điểm của Phoiơbắc về văn hóa và con người,
16/1/2012, Viện triết học,
< />[5]. Lê Công Cẩn, 2008. Quan niệm về con người trong triết học Phoiơbắc, Luận
văn tốt nghiệp, ĐH.HUẾ.
Tài liệu tham khảo khác,

[6]. Hồ Xuân Bảo, 2008. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc, Tiểu luận triết
học, ĐH.Sư Phạm Đà Nẵng.
[7]. Lê Thị Thanh Hà, Một số vấn đề triết học về con người trong hệ tư tưởng Đức,
02/2/2012, Viện triết học,
< />[8]. Mác và Ăng-ghen, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
[9]. Mác và Ăng-ghen, Toàn tập, tập 21, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
[10]. Bùi Văn Mưa, Các chuyên đề về triết học Mác – Lênin, phần 2, Lưu hành nội
bộ, ĐH.Kinh Tế TP.HCM, TP.HCM, 2011.
Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 16
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó.
[11]. Đặng Hữu Toàn, Hệ tư tưởng Đức, 02/02/2012, Viện triết học,
< />[12]. Trần Văn Toàn, Cái chết và vấn đề Thiên chúa theo quan niệm của Phoiơbắc
(phần 1), 22/1/2012, Diễn đàn Triết học,
< />option=com_content&view=article&id=490:ccvtctqnf&catid=19:trit-hc-cn-
i&Itemid=220>.
[13]. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử Triết học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
[14]. Trích theo Tạp chí triết học, Tìm hiểu về tư tưởng cải cách triết học của
Phoiơbắc, 30/1/2012, Diễn đàn VietDucinfo.com,
< />Phạm Tấn Nhật, STT:113, Lớp Cao học QTKD, Đêm 5, K21 Trang 17

×