Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.09 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ÐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN
CHẾ CỦA NÓ
GVHD: TS BÙI VĂN MƯA
Người thực hiện: NGUYỄN KIM NHƯ
STT: 115
Lớp: Đêm 5- K21
- Thành phố Hồ Chí Minh -
Tháng 2 năm 2012


Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
1. PHẦN MỞ ĐẦU 3
2. NỘI DUNG CHÍNH 4
2.1 Sự phê phán triết học Hêghen 4
2.2 Quan niệm về thế giới 5
2.3 Quan niệm về nhận thức 6
2.4 Quan niệm về con người 6
2.5 Quan niệm về tôn giáo 7
3. NHỮNG GIÁ TRỊ & HẠN CHẾ 8
3.1 Những giá trị của triết học Phoiơbắc 8

3.2 Những hạn chế của triết học Phoiơbắc 9
4. KẾT LUẬN 11
2
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
1. PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư
tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, đây là đỉnh cao của thời
kỳ triết học cổ điển phương Tây đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện
đại. Trong khi ở nhiều nước Tây Âu đang có những thay đổi nhảy vọt thì nước
Đức cho đến đầu thế kỷ 19 vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu.Tình trạng đó
gây nhiều trở ngại đối với sự phát triển của đất nước.Tuy lạc hậu về kinh tế và
chính trị nhưng nước Đức thời kỳ này đạt được sự phát triển chưa từng có về triết

học, văn hoá nghệ thuật.
Thời kỳ triết học này có những đặc điểm sau:
• Đây là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ 18
nửa đầu thế kỷ 19. Hầu hết các đại biểu của nó như Cantơ, Hêghen đều
xuất thân từ những tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Nhận thấy sự trì trệ
của xã hội Đức phong kiến thời đó, họ thể hiện nguyện vọng tiến bộ của
giai cấp tư sản đấu tranh vì một trật tự xã hội mới ở Đức nhằm đem lại sự
thịnh vượng phồn vinh và thống nhất cho đất nước.
• Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, thực hiện bước ngoặt
trong lịch sử trong lịch sử triết học phương Tây từ chỗ chủ yếu bàn về
những vấn đề bản thể luận đến chỗ coi con người như một chủ thể hoạt
động là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.

• Dựa trên một cách nhìn biện chứng về thế giới hiện thực. Các nhà triết học
cổ điển Đức xây dựng phép biện chứng trở thành một phương pháp luận
triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Trong thời kỳ triết học này xuất hiện nhiều nhà triết học tiêu biểu như: Cantơ,
Fichte, Hêghen, Phoiơbắc … với những tư tưởng triết học khác nhau. Đề tài
này chúng ta sẽ nghiên cứu về tư tưởng triết học của nhà triết học Phoiơbắc.
Quan điểm duy vật của Phoiơbắc cùng với tư tưởng biện chứng của Cantơ và
phép biện chứng của Hêghen trở thành tiền đề lý luận hình thành triết học
Mác - Lênin.
3
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
2. NỘI DUNG CHÍNH

Lutvích Phoiơbắc: Ông là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển
Đức, sinh năm 1804 trong một gia đình luật sư ở Đức. Ông theo học trường đại
học tổng hợp Beclin, tham gia nhóm Hêghen trẻ. Về sau tách khỏi nhóm này trở
thành người phê phán Hêghen và xây dựng hệ thống triết học duy vật của mình.
Ông viết nhiều tác phẩm triết học, trong đó có những tác phẩm lớn như: "Phê
phán triết học Hêghen" (1839), "Bản chất của đạo cơ đốc", "Luận cương sơ bộ về
cải cách triết học" (1842), "Những nguyên lý của triết học tương lai" (1843),
"Bản chất của tôn giáo", v.v. Những tác phẩm của ông đã làm sống lại chủ nghĩa
duy vật thế kỷ XVII-XVIII và làm sinh động thế giới quan duy vật khoa học thời
bấy giờ.
Học thuyết triết học của ông thể hiện qua những nội dung chủ yếu
sau:

2.1 Sự phê phán triết học Hêghen
- Sau khi Hêghen mất thì lực lượng kế tục có sự phân chia thành hai phái:
• Phái Hêghen già ủng hộ sự thống trị của "tinh thần tuyệt đối" đối
với thế giới hiện thực.
• Phái Hêghen trẻ coi sự thống trị đó là những xiềng xích trói buộc
con người.
- Do chịu ảnh hưởng của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII và sự phát triển
khoa học đầu thế kỷ XIX, Phoiơbắc đã nhận thấy những mặt rất hạn chế của
cả hai phái và bắt đầu thực hiện phê phán toàn bộ triết học Hêghen.
- Theo ông, triết học Hêghen mắc sai lầm ngay từ khởi điểm xuất phát và cả
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất với tinh thần, giữa con người
với thế giới.

- Hạn chế cơ bản nhất của Hêghen là ở chỗ dựa trên lập trường của chủ nghĩa
duy tâm để xây dựng học thuyết triết học. Cho nên triết học Hêghen không
tạo ra được bức tranh trung thực về thế giới.
- Ông cho rằng muốn xây dựng được một học thuyết triết học đúng đắn phải
dựa trên lập trường duy vật.
4
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
- Ông nhận xét "Triết học Hêghen là chỗ ẩn náu cuối cùng, chỗ dựa hợp lý của
thần học".
2.2 Quan niệm về thế giới
- Xuất phát từ luận điểm: "Quan hệ thực sự của tư duy với tồn tại là: tồn tại,
chủ thể, tư duy, thuộc tính". Phoiơbắc bảo vệ và chứng minh những nguyên

lý duy vật của mình. Ông quan niệm vật chất có trước, ý thức có sau, tự
nhiên tự nó tồn tại và người ta chỉ có thể giải thích tự nhiên xuất phát từ bản
thân nó. Ý thức không tự nó tồn tại được vì nó chỉ là sản phẩm của một dạng
vật chất.
- Nếu như Cantơ quan niệm không gian và thời gian là hình thức "tiên nhiên"
thì Phoiơbắc quan niệm, không gian và thời gian tồn tại khách quan, không
có vật chất tồn tại vận động bên ngoài không gian và thời gian.
- Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ
nhân quả, thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một
cách khách quan, từ đó dẫn tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ, con người.
• Ưu điểm:
o Quan niệm vật chất có trước, ý thức có sau. Ý thức không tự nó tồn tại mà

nó chỉ là sản phẩm của 1 dạng vật chất, là một thuộc tính của bộ óc người.
o Con người có thể cảm nhận thế giới tự nhiên thông qua cảm giác. Cảm
giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
o Không gian, thời gian tồn tại khách quan, gắn liền với vật chất, là hình
thức căn bản cho sự tồn tại của vật chất.
o Thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ
nhân quả; thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra
một cách khách quan, từ đó dẫn tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ, con
người.
• Hạn chế:
o Chưa khắc phục được hạn chế của duy vật siêu hình, coi vật chất như là
một cái gì thuần nhất. Tuy thừa nhận vật chất vận động nhưng chưa lý giải

được nguồn gốc, động lực, hình thức của vận động.
5
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
2.3 Quan niệm về nhận thức
- Phoiơbắc phê phán hệ thống duy tâm khách quan của Hêghen ở chỗ, coi đối
tượng tư duy không có gì khác với bản chất của tư duy. Từ đó ông khẳng
định, đối tượng nhận thức nói chung và của triết học nói riêng là giới tự nhiên
và con người.
- Phoiơbắc cho rằng: chủ thể nhận thức không phải trừu tượng mà là con người
cụ thể, con người có khả năng nhận thức được giới tự nhiên, một người thì
không thể nhận thức được hoàn toàn thế giới tự nhiên, nhưng toàn bộ loài
người thông qua các thế hệ thì có thể nhận thức được. Con người nhận thức

được thế giới trước hết thông qua cảm giác: "Bí quyết của sự hiểu biết trực
tiếp tập trung trong tính cảm giác".
- Phoiơbắc cũng đã xác định được mối quan hệ giữa hình thức nhận thức cảm
tính với lý tính, nhưng khi tiến lên giai đoạn tư duy lý tính thì ông không rút
ra được kết luận rõ ràng.
- Như vậy Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm duy vật về nhận thức, khẳng định
con người có khả năng nhận thức. Nhưng trong lý luận nhận thức đã bộc lộ
hạn chế ở chỗ, chưa hiểu được quá trình phát triển biện chứng của nhận thức,
vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức. Cho nên quan điểm nhận
thức của Phoiơbắc vẫn nằm trong khuôn khổ của những phương pháp suy
nghĩ siêu hình.
2.4 Quan niệm về con người

- Phoiơbắc phê phán Hêghen đã quan niệm con người một cách trừu tượng và
thần bí coi đó như một lực lượng siêu tự nhiên, đây là một quan niệm sai. Do
vậy, theo ông phải xây dựng một quan niệm mới về con người.
- Phoiơbắc quan niệm con người như một thực thể sinh vật có cảm giác, biết tư
duy, có ham muốn, có ước mơ, có tình yêu thương; lòng yêu thương vốn là
bản chất của con người. Trong con người có sự thống nhất giữa cơ thể với tư
duy. Con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần tuyệt đối mà
là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát triển của tự nhiên.
- Thế nhưng trong xã hội con người bị kìm hãm trói buộc bởi giáo lý tôn giáo
và bởi các quy định của xã hội. Cho nên cần phải giải phóng con người khỏi
6
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như

sự ràng buộc đó nhằm đem lại cho con người một quan niệm mới về chính
mình, tạo điều kiện để con người trở nên hạnh phúc. Theo ông, đây cũng là
nhiệm vụ của các nhà triết học.
- Xác định vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của triết học Phoiơbắc trở
thành đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật nhân bản. Đây là mặt tiến bộ
so với các nhà trước học trước ông. Tuy nhiên ông đã không thấy được
phương diện xã hội của con người. Con người mà ông quan niệm là con
người bị tách khỏi điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Do vậy về lĩnh vực
này ông chưa thoát khỏi ảnh hưởng của quan điểm duy tâm.
2.5 Quan niệm về tôn giáo
- Trong quan niệm về tự nhiên, Phoiơbắc là nhà duy vật, còn trong quan niệm
về xã hội ông lại thể hiện quan điểm duy tâm.

- Ông khẳng định những thời kỳ lịch sử loài người sở dĩ khác nhau chỉ do
những thay đổi các hình thức tôn giáo.Thay thế tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới
sẽ làm cho xã hội tiến lên. Ở đây, Phoiơbắc chưa thấy được vai trò của thực
tiễn xã hội quyết định sự vận động phát triển của xã hội loài người.
- Khi bàn đến tôn giáo, Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của
tâm lý cá nhân và của sự tưởng tượng của con người. Tôn giáo thể hiện sự
mềm yếu, bất lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và điều kiện của xã
hội. Chính con người đã bày đặt ra thần thánh bằng cách trừu tượng hóa bản
chất con người. Do vậy, cần thay thế tôn giáo cũ bằng thứ tôn giáo mới không
cần có thần thánh, chúa trời mà lấy tình yêu giữa người với người làm nền
tảng.
- Những quan điểm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản vạch ra được nguồn gốc

tâm lý con người đối với tôn giáo. Tuy nhiên, ông chưa chỉ rõ nguồn gốc thực
sự của tôn giáo, chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế - xã hội của vấn đề.
- Mặc dù còn những hạn chế siêu hình trong quan điểm về tự nhiên duy tâm
trong quan điểm về xã hội, chưa có quan điểm duy vật triệt để về con người
nhưng Phoiơbắc đã có công lao trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa
duy vật chống lại quan điểm duy tâm và tôn giáo.
7
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
3. NHỮNG GIÁ TRỊ & HẠN CHẾ
3.1 Những giá trị của triết học Phoiơbắc
 Công lao vĩ đại của Phoiơbăc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống lại chủ
nghiã duy tâm và thần học, ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết

học duy vật. Giáng một đòn rất nặng vào triết học duy tâm của Hêghen và
chủ nghĩa duy tâm nói chung.
 Phoiơbắc chứng minh rằng thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai
sáng tạo ra. Nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không phụ thuộc
vào bất cứ thứ triết học nào.
 Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có tính chất nhân bản, phải kết
hợp với khoa học tự nhiên. Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc là
xoá bỏ sự tách rời giữa tinh thần và thể xác do triết học duy tâm và triết
học nhị nguyên tạo ra.
 Phoiơbắc đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo
thiên chúa, đặc biệt là quan niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm
tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng

định chính con người tạo ra Thượng đế.
 Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái
chân, cái thiện nghĩa là hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình tượng
đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con người không
đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng
Thượng đế.Từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị
Thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc
sống con người.
 Công lao to lớn của Phoiơbắccòn ở chỗ, ông không chỉ đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm mà còn đấu tranh chống lại những người duy vật tầm
thường. Ông đã có quan niệm đúng đắn là: không thể quy các hiện tượng
tâm lý về các quá trình lý – hoá, công nhận con người có khả năng nhận

thức được thế giới.
 Ông đã kịch liệt phê phán những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết
không thể biết. Trong sự phát triển lý luận nhận thức duy vật, Phoiơbắc đã
8
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
biết dựa vào thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu về tinh thần, về sinh lý
mà chưa nhận thức được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt động vật
chất của con người, là lao động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp và
hoạt động thực tiễn của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.
 Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu tranh của chủ
nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã vạch ra
mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải

đấu tranh loại bỏ tôn giáo hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con
người. Ông đã có công khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ
XVII, XVIII.
3.2 Những hạn chế của triết học Phoiơbắc
 Khi ông đòi hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự
nhiên thì đồng thời đã đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để
xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người trong
quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những
đặc tính sinh học bẩm sinh. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, so với các nhà
duy vật “thuần túy”, L.Phoiơbắc đã có ưu điểm lớn là ông thấy rằng, con
người cũng là một “đối tượng của cảm giác” chứ không phải là “hoạt động
cảm giác được”. Tuy nhiên, hạn chế lớn của ông là không xem xét con

người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện
sinh hoạt hiện có của họ, những điều kiện làm cho họ trở thành những con
người đúng như họ đang tồn tại trong thực tế. Nghĩa là, L.Phoiơbắc không
bao giờ tới được những con người hành động đang tồn tại thực sự, mà ông
vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu tượng. Ở ông, con người “hiện thực, cá thể,
bằng xương, bằng thịt” chỉ đóng khung trong tình cảm thôi và hoàn toàn
không biết đến những “quan hệ con người” nào khác, ngoài tình yêu và
tình bạn được lý tưởng hoá. Thực tế, L.Phoiơbắc đã không phê phán
những điều kiện sinh hoạt hiện tại và cũng “không bao giờ hiểu được
rằng, thế giới cảm giác được là tổng số những hoạt động sống và cảm giác
được của những cá nhân hợp thành thế giới ấy”. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
9

Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
đưa ra kết luận rằng: “Khi Phoiơbắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ
đề cập tới lịch sử, còn khi ông xem xét đến lịch sử thì ông không phải là
nhà duy vật. Ở L.Phoiơbắc, lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách
rời nhau”.
 L.Phoiơbắc chỉ nhìn thấy sự khác biệt cơ bản giữa con người và các loài
động vật khác về phương diện nhận thức mà không thấy rằng, sự khác biệt
đó được bắt đầu từ hành vi sản xuất vật chất.
 L.Phoiơbắc không nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần, chính vì vậy, ông không thể lý giải được một
cách duy vật quá trình bộ óc của con người sản sinh ra ý thức và tư duy
như thế nào.

 “Hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người”, L.Phoiơbắc đã đi đến
kết luận duy tâm rằng: động lực vận động của lịch sử xã hội là sự thực
hiện những khát vọng cá nhân, mà cụ thể là tính ích kỷ của con người; còn
lịch sử nhân loại chính là sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tôn giáo.
Với kết luận như trên, L.Phoiơbắc đã dành cho chủ nghĩa duy tâm và thần
học nơi ẩn nấp khá an toàn. Nghiên cứu quá trình vận động của lịch sử xã
hội loài người từ thời cổ đại đến đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen nhận
thấy rằng, lịch sử không phải là sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tôn
giáo, mà là sự thay thế của các hình thái kinh tế – xã hội và động lực của
lịch sử chính là đấu tranh giai cấp. Các ông khẳng định: “Không phải sự
phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của
triết học và của mọi lý luận khác.

 Triết học nhân bản của ông chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy
tâm. Ông nói rằng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một
tình yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu
nhiên cần xây dựng một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người.
Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương của con người thành quan hệ
chi phối mọi quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện
của xã hội tư sản Đức thời đó, với sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa
10
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
nhân đạo về tình yêu thương con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu
tượng, duy tâm.
 Trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen,

Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như các nhà
triết học giai đoạn trước Mác, Phoiơbắc rơi vào duy tâm khi giải quyết các
vấn đề xã hội.
 Sau khi phê phán và loại bỏ quan điểm duy tâm trong việc lý giải văn hoá
và con người cũng như việc thực thể hoá lý trí của Hêghen, L.Phoiơbắc lại
đi thực thể hoá cảm xúc trong triết học văn hoá của ông. Những hạn chế
ấy của L.Phoiơbắc sau này được C.Mác, Ph.Ăngghen khắc phục và vượt
qua.
 Phoiơbắc không nhận ra mối liên hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính
và nhận thức lí tính, cũng không biết đến mối liên hệ của nhận thức với
thực tiễn xã hội và với sự biến đổi cách mạng của đời sống hiện thực.
4. KẾT LUẬN

- Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó
đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước hết, nó đã
từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỷ
XVII, XVIII. Thành quả lớn nhất của nó là những tư tưởng biện chứng đã
đạt tới trình độ một hệ thống lý luận – điều mà phép biện chứng cổ đại Hy
Lạp đã chưa đạt tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII cũng không
có khả năng tạo ra.
- Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính chất duy tâm
khách quan của Hêghen, còn về chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét về
thực chất không vượt qua được trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII –
XVIII Tây Âu.
- Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đã được triết học

Mác khắc phục, kế thừa và nâng lên một trình độ mới của chủ nghĩa duy
vật hiện đại.
11
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
- Mặc dù đánh giá cao L.Phoiơbắc, song C.Mác và Ph.Ăngghen cũng khẳng
định triết học nhân bản của L.Phoiơbắc còn nhiều hạn chế cần phải phê
phán. Cụ thể là:
 L.Phoiơbắc đã xem xét con người một cách trừu tượng, con
người phi giai cấp, phi lịch sử và tách biệt khỏi cơ sở tồn tại
hiện thực của nó.
 Ông không thấy được sự khác biệt cơ bản giữa con người và
các loài động vật khác bắt đầu từ hành vi sản xuất vật chất.

 L.Phoiơbắc không lý giải một cách duy vật về nguồn gốc của ý
thức và tư duy của con người.
 Ông đã dành chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thần học khi cho
rằng, động lực của lịch sử là sự thực hiện những khát vọng cá
nhân và lịch sử nhân loại là sự thay thế lẫn nhau của các hình
thức tôn giáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học
(tài liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học của trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh), 2011.
[2] Đinh Ngọc Thạch, Lịch sử triết học phương Tây (dùng cho học viên cao học
không thuộc chuyên ngành triết học của trường Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh), 2010.
[3] Vũ Dương Minh chủ biên, Lịch sử văn minh thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục
Việt Nam, 2011.
12
Tiểu luận triết học TH: Nguyễn Kim Như
[4] Phạm Văn Chung, Quan niệm duy vật về lịch sử với tư cách một hệ thống lý
luận khoa học trong hệ tư tưởng Đức, />vientriet=articles_deltails&id=602&cat=48&pcat=
[5] TS.Nguyễn Huy Hoàng, Quan điểm của L.Phoiơbắc về văn hóa và con
người, />vientriet=articles_deltails&id=543&cat=48&pcat=
[6] Lê Công Sự, Đánh giá của C.Mác và Ph.ăngghen về vấn đề con người trong
triết học L. Phoiơbắc qua hệ tư tưởng Đức, />vientriet=articles_deltails&id=364&cat=48&pcat=
[7] Nguyễn Lương Hùng, L. Phoi - ơ - bắc,


13

×