Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.91 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC






TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ
CỦA NÓ
Giảng viên hướng dẫn
TS. BÙI VĂN MƯA
Người thực hiện
STT: 118
Họ tên: LIÊU NGỌC OANH
Lớp: Cao học QTKD, Đ5
Khóa: 21 [2011 – 2013].
TP. HCM, năm 2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRƯỜNG PHÁI CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN
BẢN PHOIƠBẮC 2
1.1. Cơ sở chủ nghĩa duy vật nhân bản 2
1.2. Quan niệm về giới tự nhiên và con người 3
Quan niệm về nhận thức 5
Quan niệm về tôn giáo 5
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY


VẬT NHÂN BẢN PHOI Ơ BẮC 7
1.3. Giá trị 7
Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại sau khi bị chôn vùi trong thời trung cổ. .7
1.3.1. Phê phán mạnh mẻ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen 7
1.3.2. Nâng cao tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học 9
1.3.3. Triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác 10
1.4. Hạn chế 11
1.4.1. Phoiơbắc chưa vượt qua khuôn khổ chủ nghĩa duy vật siêu hình và phủ nhận phép biện chứng
tiến bộ của Hêghen 11
1.4.2. Quan niệm con người của Phoiơbắc rất hời hợt dẫn đến quan điểm đạo đức của con người
cũng đơn điệu 12
1.4.3. Phủ nhận vai trò thực tiễn, con người mang tính chất trừu tượng có yếu tố duy tâm 13
KẾT LUẬN 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
LỜI MỞ ĐẦU
Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các
nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện,
phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của
Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo Những thành tựu đó
chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất
của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần
có cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của
con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó. Nó đề cao vai
trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là
nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Trong trường phái chủ
nghĩa duy vật thì nổi bật lên là nhà triết học L.Phoiơbắc.
L.Phoiơbắc đã xây dựng nên trường phái triết học duy vật nhân bản, giải
thích được mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu của triết học. Từ đó, ông đưa ra những nhận xét về giới tự nhiên là cơ

thể vô cơ của con người, và con người là sống dựa vào giới tự nhiên. Đó là
những con người sống động, biết suy tư, biết nhận thức, không máy móc như các
nhà duy vật trước. Qua đó, ông giải thích các sự vật hiện tượng khách quan, đưa
ra quan niệm đạo đức dành cho con người cũng như xây dựng nên tôn giáo mới
để con người gửi gắm niềm tin – “tôn giáo tình yêu”. Ông đã mở cửa cho tình
yêu, cho cái thiện đi vào suy tư của mình và vẽ nên con người cụ thể với bản tính
là tình yêu và luôn khát vọng có một cuộc sống hạnh phúc. Ông viết nhiều tác
phẩm triết học, trong đó có những tác phẩm lớn như: "Phê pháp triết học
Hêghen" (1839); "Bản chất của đạo đức thiên chúa", "Luận cương sơ bộ về cải
cách triết học" (1842), để qua đó làm nổi bật lên vai trò của con người trong
thời đại mới này. Sau đây, để có thể hiểu được tầm quan trọng của con người
trong triết học, ta sẽ nghiên cứu các nội dung của trường phái triết học duy vật
nhân bản Phoiơbắc gồm giới tự nhiên và con người; nhận thức; và tôn giáo. Từ
đó, ta rút ra những giá trị cũng như hạn chế của trường phái triết học duy vật này.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 1
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRƯỜNG PHÁI
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
1.1. Cơ sở chủ nghĩa duy vật nhân bản
Đối với Phoiơbắc, để mang lại cho con người một cuộc sống hạnh phúc
thật sự thì cần phải xây dựng trường phái triết học giải quyết được vấn đề “quan
hệ giữa tư duy và tồn tại”, lấy con người là đối tượng của triết học mới, và khoa
học nghiên cứu bản chất của con người đang tồn tại trong thế giới là nhân bản
học; với nội dung chính như sau:
• Dựa trên quan điểm chủ nghĩa duy vật, Phoiơbắc đã nêu rõ thế giới, giới
tự nhiên là vật chất, không do ai sáng tạo ra, tồn tại vĩnh viễn, khách quan, ở bên
ngoài và độc lập với ý thức. Còn ý thức, tư duy là những đặc tính của vật chất.
Thế giới và những tính quy luật của nó là nhận thức được bởi con người.
• Nguyên lý nhân bản trong triết học của Phoiơbắc là “đấu tranh chống các
quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt quan niệm về

Thượng Đế. Trái với quan niệm truyền thống của tôn giáo và triết học cho rằng
Thượng Đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con người tạo ra Thượng
Đế”[1,110]; phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa nhị nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy.
Phoiơbắc đã thừa nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối
với tư duy là tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính. “Sau khi công nhận một cách
dứt khoát rằng, tồn tại là chủ thể, tư duy là thuộc tính, ý thức là sản phẩm của bộ
óc con người, Phoiơbắc đi đến việc tìm hiểu sâu hơn bản chất tự nhiên - sinh học
của con người. "Bản chất chung của con người là gì? Những nhân tính cơ bản
trong con người là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim. Con người hoàn thiện có
năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình cảm. Năng lực tư duy chính là
ánh sáng của nhận thức, sức mạnh của ý chí chính là năng lượng của tính cách,
nguồn lực tình cảm chính là tình yêu Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn chứa
đựng bản chất tối cao, tuyệt đối của con người và mục đích tồn tại của nó con
người tồn tại để nhận thức, yêu thương.”[6]
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 2
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
1.2. Quan niệm về giới tự nhiên và con người
Xuất phát từ luận điểm: "Quan hệ thực sự của tư duy với tồn tại là: tồn tại
- chủ thể; tư duy - thuộc tính", Phoiơbắc bảo vệ và chứng minh những nguyên lý
duy vật của mình. Ông quan niệm: giới tự nhiên vật chất có trước ý thức, tồn tại
vô cùng đa dạng, phong phú và tự nó; ý thức có sau; tự nhiên tự nó tồn tại và
người ta chỉ có thể giải thích tự nhiên xuất phát từ bản thân nó. Ý thức không tự
nó tồn tại được vì nó chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất. Nếu như Cantơ quan
niệm không gian và thời gian là hình thức "tiên nhiên" thì Phoiơbắc quan niệm,
không gian và thời gian tồn tại khách quan, không có vật chất tồn tại vận động
bên ngoài không gian và thời gian. Không gian, thời gian và vận động là thuộc
tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất – giới tự nhiên. Ông thừa nhận sự
vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách quan. “Bản thân
giới tự nhiên bị chi phối bới mối liên hệ nhân quả nên không ngừng vận động,

phát triển trong không gian, thời gian, theo các quy luật khách quan nội tại; trong
những điều kiện nhất định, quá trình phát triển của giới tự nhiên sẽ dẫn đến sự ra
đời của đời sống sinh học mà cao hơn là con người và đời sống xã hội của con
người; con người muốn hiểu giới tự nhiên phải xuất phát từ chính bản thân mình,
thông qua cảm giác và tư duy của chính mình – một đóa hoa rực rỡ của giới tự
nhiên, để nhận thức giới tự nhiên.”[2, 210]
Tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên trên nền tảng của chủ
nghĩa duy vật nhân bản, Phoiơbắc cho rằng con người không phải là sản phẩm
của Thượng Đế như các nhà thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha
hóa của ý niệm tuyệt đối như Hêghen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên, ông
viết: "Giới tự nhiên là ánh sáng, điện từ, từ tính, không khí, nước, lửa, đất, động
vật, thực vật, là con người, bởi vì con người là một thực thể hoạt động thiếu tự
chủ và vô thức"[6]. Như vậy, sự phát sinh và tồn tại của con người cũng giống
như sự phát sinh và tồn tại của của các hiện tượng tự nhiên khác, chỉ có điều
khác là: con người là sản phẩm tiến hóa cao nhất của giới tự nhiên, là sinh vật
bậc cao, có tính vượt trội so với các loài động vật khác ở đời sống tinh thần của
nó… Bản chất con người là một cái gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 3
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
diện thể xác và tinh thần. Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có
thể tồn tại và phát triển như một sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh
vật hiện có. Và “sai lầm chủ nghĩa duy tâm là sự toan tính thủ tiêu sự thống nhất
toàn vẹn đó của con người, tách rời tư duy con người khỏi tồn tại của nó, biến tư
duy thành một thực thể siêu tự nhiên có khả năng sáng tạo nên thế giới vật chất.
Còn sai lầm của chủ nghĩa nhị nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại, coi chúng
như những thực thể tồn tại độc lập bên cạnh nhau đó là một sự khẳng định vòng
vo, là lối nói nửa vời, tách đôi trái ngược."[6]
“Con người dựa vào giới tự nhiên để được thỏa mọi nhu cầu cần thiết như
ăn, mặc, ở, sinh đẻ…Còn những cái đó đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, đam
mê, khát vọng, suy nghĩ, hiểu biết của mỗi con người, mà xét đến cùng, chúng

làm cho người này không giống người kia. Do đó, theo Phoiơbắc, con người vừa
mang bản tính cá nhân và con người – cá nhân cũng mang bản tính cộng đồng, có
bản chất nằm trong tình yêu”[2, 210]. Do mang bản tính cá nhân, mà mỗi cngười
là một cá thể bằng xương, bằng thịt, có lý trí, có trái tim, đang sống, làm việc,
đang nhận thức. Con người có một năng lực sáng tạo bắt nguồn từ trong tính cá
nhân của mỗi người, chứ không phải xuất phát từ Thượng Đế. Do mang bản tính
cộng đồng, mà mỗi người là một cá nhân bị ràng buộc với các cá nhân khác.
Hạnh phúc của mỗi cá nhân không là hạnh phúc đơn độc của mỗi người mà là
hạnh phúc trong sự hòa hợp với cộng đồng. Con người tiềm tàng một tình yêu to
lớn dành cho con người, và tình yêu này bắt nguồn từ tính cộng đồng chứ không
phải từ Thượng Đế. Khi tính cá nhân và cộng đồng thống nhất nhau sẽ tạo nên cơ
sở của tính ích kỷ hợp lý tức là con người phải kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân
của mình với lợi ích chung của cộng đồng. Đây sẽ là động lực cho sự tiến bộ của
xã hội vì nó thể hiện rõ bản chất người trong mỗi con người. “Phoiơbắc quan
niệm rằng: Chúng ta sẽ không thể là con người nếu không biết yêu; và một đứa
trẻ chỉ trở thành người lớn khi nó biết yêu; tình yêu phụ nữ là tình yêu phổ quát,
ai không yêu phụ nữ người đó không yêu con người”[2, 211]. Bản chất con
người nằm trong tình yêu, được bộc lộ trong cuộc sống hạnh phúc. Và cuộc sống
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 4
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
hạnh phúc con người cần sống chan hòa với cộng đồng, luôn làm hành động theo
tình cảm, khát vọng của mình.
Quan niệm về nhận thức
Sự khác biệt căn bản giữa loài người và loài vật là sự khác nhau trong ý
thức. Loài vật chỉ nhận thức mình như một cá thể, chỉ làm chủ được quá trình tự
cảm giác, sống đơn giản một mình, đời sống nội tâm của nó hòa đồng với thế
giới bên ngoài. Còn con người: với lý trí đang tồn tại cụ thể, họ có khả năng nhận
thức được giới tự nhiên và chính mình; sống với cả hai chiều nội tâm và thế giới
bên ngoài. Và Phoiơbắc cho rằng, giới tự nhiên và con người là khách thể của
nhận thức; còn chủ thể nhận thức là con người sống động, tồn tại trong thực tế có

cảm giác và lý trí. Ông kêu gọi: “Hãy quan sát giới tự nhiên đi, hãy quan sát con
người đi! Bạn sẽ thấy ở đấy, trước mắt bạn, những bí mật của triết học.”[7]
“Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận, còn tư duy lý luận xử
lý tài liệu cảm tính để khám phá ra chân lý. Chân lý là sự phù hợp giữa tư tưởng
trong chủ thể với đối tượng được tư tưởng – khách thể. Nhờ vào năng lực của
cảm giác và lý trí mà con người có khả năng nhận thức đầy đủ giới tự
nhiên”[2,212].

“Nếu coi thường cảm giác thì không thể có quan niệm đúng về
quá trình nhận thức, không có đối tượng thị giác không có ánh sáng thì không có
cảm giác của thị giác. Thị giác là một cảm giác hoặc một tri giác về ánh sáng.
Phoiơbắc nêu rõ cảm giác vốn là sự phản ánh các vật thể của thế giới vật chất,
được coi là nguồn gốc tư duy lý luận. Ông nói bí quyết của sự hiểu biết tập trung
trong tính cảm giác”[5,341]. Quá trình nhận thức giới tự nhiên là một quá trình
lâu dài, thông qua sự nhận thức của các cá nhân và các thế hệ khác nhau.
Quan niệm về tôn giáo
Dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa nhân bản, Phoiơbắc cho rằng Thượng
Đế là thực thể tâm lí do con người sinh ra, tập hợp những giá trị, mơ ước, khát
vọng mà con người muốn có và yếu tố quan trọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự
xuất hiện tôn giáo, đó là trạng thái tâm lí của con người. Khi nghiên cứu vấn đề
tôn giáo, Phoiơbắc phải nhờ vào những tư liệu của lịch sử và khảo cổ học, theo
đó thì con người nguyên thuỷ là con người cảm tính chứ không phải con người lí
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 5
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
tính. Đời sống của họ hàng ngày phải tiếp xúc với muôn vàn sự vật, hiện tượng
đa dạng của giới tự nhiên như mặt trăng, mặt trời, sấm sét, bão lụt, giông tố,
cùng với bản chất yết ớt của mình nên sợ ốm đau, bệnh tật – coi đó là sự trừng
phạt của thần thánh. Từ tình cảm lệ thuộc của con người vào giới tự nhiên làm
phát sinh sự sùng bái hay những hình thức tín ngưỡng tôn giáo mà cụ thể là: sự
cầu nguyện, niệm thần chú, sự cúng tế, Trong các hình thức tín ngưỡng tôn

giáo, Phoiơbắc rất quan tâm đến vấn đề cầu nguyện, bởi đây là một hiện tượng
tâm lí đặc biệt phản ánh thế giới nội tâm của con người một cách sâu sắc, toàn
diện nhất, phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa con người và thần thánh.
Phoiơbắc viết: "Người tín ngưỡng hướng tới Thượng Đế cùng với lời cầu nguyện
sùng kính, anh ta tin rằng Thượng Đế sẽ tham dự vào những đau khổ, những
mong muốn của anh ta tin rằng Thượng Đế sẽ nghe thấy tiếng nói của anh ta
trong lúc cầu nguyện". Theo cách nhìn hiện đại thì sự cầu nguyện thể hiện chức
năng an ủi - đền bù hư ảo của tôn giáo, trong sự cầu nguyện đó hoặc phần nào
làm dịu bớt đi mọi nỗi đau khổ, mất mát của con người mà nó đã gánh chịu trước
đó trong cuộc sống, hoặc thể hiện những lời cảm ơn của con người đối với thần
thánh, hoặc xin thần thánh xá tội cho, bởi vậy cầu nguyện là hình thức phổ biến
của mọi tôn giáo và cũng nhờ hình thức tín ngưỡng này mà tôn giáo thu hút được
đa số công chúng. Qua đó, tôn giáo và niềm tin vào Thượng Đế đã chia cắt thế
giới cùng con người thành thế giới trần tục và thế giới thiên đường, tôn giáo làm
tha hóa con người để dễ dàng thống trị nó, kìm hãm và tước đi ở con người tính
năng động sáng tạo, sự tự do, và năng lực độc lập phán xét. Ông phê phán mạnh
mẽ tôn giáo; nhưng càng phê phán ông càng nhận thức được nếu thiếu tôn giáo
thì con người sẽ khó sống, bởi con người cần có niềm tin để an ủi mình trước
cuộc đời bất hạnh. Vì vậy ông đã ra sức “xây dựng tôn giáo mới – tôn giáo tình
yêu vĩnh cửu phổ quát giữa con người. Trong tôn giáo đó, tình yêu vừa là cơ sở,
vừa là cứu cánh của con người để con người thật sự sống đúng như bản tính của
mình nhằm biến trần gian thành thiên đàng trên mặt đất.”[2,214]
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 6
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI
TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOI Ơ BẮC
1.3. Giá trị
Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại sau khi bị chôn
vùi trong thời trung cổ
Triết học Phoiơbắc đã khôi phục được truyền thống duy vật thế kỷ XVIII

trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở Phương Tây và
phát triển chủ nghĩa duy vật thêm một bước mới. Ông đã trình bày rõ quan điểm
duy vật như “Tự nhiên tồn tại độc lập đối với mọi triết học. Nó là cơ sở trên đó
con người chúng ta - bản thân chúng ta cũng là sản phẩm của tự nhiên - đã sinh
trưởng. Ngoài tự nhiên và con người ra, không còn có gì nữa cả, và những tạo vật
cao siêu do trí tưởng tượng tôn giáo của chúng ta nặn ra, chỉ là những phản ánh
hư ảo của chính thực thể của chúng ta thôi”[8]. Sự mê hoặc của trường phái chủ
nghĩa duy tâm đã bị đập tan; “hệ thống” đã bị phá vỡ và bị gạt bỏ. Phoiơbắc đã
hoàn toàn đúng, “khi ông nói rằng chủ nghĩa duy vật thuần túy khoa học tự nhiên
là “cơ sở của tòa kiến trúc tri thức con người, nhưng không phải là bản thân tòa
kiến trúc đó”. Vì chúng ta không những chỉ sống trong giới tự nhiên, mà còn
sống trong xã hội loài người, mà xã hội loài người thì cũng có lịch sử phát triển
của nó và khoa học của nó, không kém gì tự nhiên. Do đó, vấn đề là làm cho
khoa học xã hội, nghĩa là toàn bộ những khoa học được gọi là khoa học lịch sử
và triết học, phù hợp với cơ sở duy vật chủ nghĩa và xây dựng lại khoa học xã hội
phù hợp với cơ sở đó. Song, khi sống cô quạnh ở nông thôn, không thể theo dõi
những tiến bộ khoa học một cách đầy đủ để có thể đánh giá đúng những phát
minh mà ngay cả bản thân những nhà khoa học tự nhiên lúc đó cũng phần còn
không thừa nhận, Phoiơbắc không có điều kiện làm việc đó và ông đã xây dựng
cơ sở của chủ nghĩa duy vật chân chính và của khoa học hiện thực.
1.3.1. Phê phán mạnh mẻ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen
Hạn chế cơ bản nhất của triết học Hêghen, theo Phoiơbắc, là bởi tính duy
tâm của nó trong việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên, coi
toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu như
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 7
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
một lực lượng siêu nhiên. Phoiơbắc khẳng định: “Triết học Hêghen, là chổ ẩn
náu cuối cùng của thần học.”. Phoiơbắc cũng phê phán Hêghen đã quan niệm con
người một cách trừu tượng và thần bí, coi đó là một lực lượng siêu nhiên sáng tạo
ra hiện thực. “Ở Hêghen, mọi thứ đều được xem xét từ góc độ của lý trí tư duy.

Nhưng lý trí, dù là nấc thang cao nhất của quá trình nhận thức cũng không thể
đem đến lời giải đáp duy nhất thỏa đáng cho đời sống phức tạp và phong phú của
con người. Tinh thần, theo Phoiơbắc, chỉ thể hiện mình ở nơi có sự vận động, ưu
tư, hưng phấn, lòng nhiệt thành và xúc cảm. Nơi đó là tồn tại chân chính, con
người, với “các tố chất người", hợp nên “bản chất cộng đồng" mà thiếu nó, đời
sống của mỗi cá nhân sẽ trở nên vô nghĩa. Hêghen đã dệt thêu nên cả một huyền
thoại về lý trí, duy lý hóa niềm tin vào Thượng Đế thậm chí xem lịch sử tôn giáo
là lịch sử vận động của ý thức phản tỉnh. Ngược lại, Phoiơbắc đưa bản chất tôn
giáo về bản chất con người, loại Thượng Đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu của
triết học, đưa hình ảnh đó về đúng vị trí của nó - thần học”[9], vạch ra được mối
liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã chỉ ra sự cần thiết phải đấu
tranh loại bỏ tôn giáo hữu thần – sự tha hóa bản chất con người.
Phê phán chủ nghĩa duy tâm Hêghen trong nhận thức, Phoiơbắc cho rằng,
không phải cuộc sống diễn ra theo đồ thức luận tư duy sẵn có, mà ngược lại, đồ
thức luận ấy cần được làm mới, điều chỉnh thường xuyên bằng chất liệu của cuộc
sống, chịu sự phán quyết của những điều kiện sống. "Chân lý - Phoiơbắc viết,
không nằm trong tư duy và trong tri thức như cái tự thân tự tại. Chân lý ở ngay
trong cuộc sống và trong bản chất con người". Do đó, Phoiơbắc vạch ra nhiệm vụ
của triết học là, từ sự "nhận thức cái đang có", nhận thức bản chất sự vật như nó
thể hiện ra cho chủ thể, cần suy nghĩ về cái cần có trong tương lai.
Tóm lại, Phoiơbắc phê phán Hêghen trên lập trường nhân bản học duy vật.
Nếu như Hêghen đã từng nói, triết học của ông chỉ nghiên cứu một phạm trù duy
nhất, đó là phạm trù con người, thì Phoiơbắc nhận thấy điểm yếu ở nhà duy tâm
trên ở chỗ tinh thần tuyệt đối đó là con người đã bị thần bí hóa, bị tha hóa khỏi
những điều kiện hiện thực trong cuộc sống của anh ta.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 8
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
1.3.2. Nâng cao tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học
Cải cách triết học của Phoiơbắc giải quyết một cách duy vật vấn đề cơ bản
của triết học - mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất, tư duy và tồn tại. Trong khi

giải quyết vấn đề này, Phoiơbắc đã đưa thuyết nhân bản đến gần chủ nghĩa duy
vật. Ông lấy con người là đối tượng nghiên cứu của triết học và đưa quan hệ xã
hội của "con người đối với con người" trở thành nguyên tắc cơ bản của lý luận.
Nguyên tắc nhân bản nằm ở tính thống nhất của bản chất con người, tinh thần và
thể xác, trong đó thể xác là bộ phận của thế giới khách quan, và ở chừng mực nào
đó nó bao hàm cả tồn tại của thế giới ấy. "Triết học mới Phoiơbắc viết, biến con
người, gồm cả tự nhiên với tư cách cơ sở của con người, thành đối tượng duy
nhất, phổ quát và cao nhất của triết học và do đó, biến thuyết nhân bản, trong đó
có triết học, thành khoa học phổ quát.”[9]
Phoiơbắc phê phán quan niệm về con người cả ở các nhà duy vật thế kỷ
XVII - XVIII lẫn triết học tư biện Hêghen. Vấn đề là ở chỗ, Đêcáctơ, La Méttơn,
Điđrô là những nhà tư tưởng lớn của thời đại mình đã đề cao năng lực tư duy, ý
chí sáng tạo, khát vọng tự do của con người, nhưng do chịu sự chi phối của các
nguyên lý cơ học và xu thế toán học hóa tư duy, nên họ mô tả cơ thể người theo
một môtíp hết sức máy móc, "con người - cỗ máy", “xã hội - tổ hợp máy".
Phoiơbắc cho rằng, các nhà duy vật thế kỷ trước đã không làm nổi bật hình ảnh
con người sống động, bằng xương, bằng thịt. “Con người, theo Phoiơbắc, là sự
kết tinh toàn bộ giá trị người, mà những giá trị người đó được tích lũy trong quá
trình vươn đến tự do, và được thể hiện trong tư tưởng của các vĩ nhân lý trí. Hợp
nhất các giá trị mang tính loài đặc thù ấy của con người cũng có nghĩa là xác
định tồn tại người trong tổng thể các tính quy định của nó. Phoiơbắc viết: "Con
người là tồn tại tự do, tồn tại của nhân cách, tồn tại của pháp quyền. Chỉ trong
con người mới tồn tại cái Tôi của Phíchtơ, đơn tứ của Lépnít, cái tuyệt đối."[9]
Tóm lại, Phoiơbắc đề cao tính cá thể của con người, nhấn mạnh sự năng
động và sáng tạo, lợi ích, nhu cầu của con người, thể hiện nguyện vọng của giai
cấp tư sản tiến bộ muốn giải phóng con người khỏi mọi quan hệ phong kiến bảo
thủ ở Đức.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 9
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
1.3.3. Triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác

Quan niệm triết học của ông có tính hệ thống và tương đối đầy đủ về thế
giới quan, phương pháp luận, dựa trên chủ nghĩa duy vật nhân bản kết hợp với
những tư tưởng sơ khai về chủ nghĩa duy vật lịch sử, tạo tiền đề cho chủ nghĩa
Mác và Ăng-ghen tiếp tục hoàn thiện, làm sáng tỏ các quan niệm của triết học mà
Phoiơbắc vẫn chưa giải thích cụ thể như nguồn gốc phát sinh tôn giáo xuất phát
bản chất con người, giải thích mối quan hệ hiện thực giữa tự do của con người
với hoàn cảnh mà nó đang sống; điều mà trước đó Kant và Hêghen chỉ đặt ra và
giải quyết trên phương diện lí luận, để rồi cuối cùng phải nương nhờ vào sự tồn
tại của Thượng Đế [Kant] và của yếu tố tinh thần [Hêghen] như những phương
tiện để đạt tới tự do đích thực.
Triết học của Phoiơbắc đã có ảnh hưởng khá sâu sắc đến sự hình thành
chủ nghĩa vô thần của Mác. Quan niệm về tôn giáo của chính Phoiơbắc giúp Mác
khoát khỏi triết học duy tâm huyền bí của Hêghen để đến với chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa vô thần. Điều đó được khẳng định qua những lời nhận xét Ăng-
ghen khi ông cho rằng qua các tác phẩm của Phoiơbắc nghiên cứu về triết học
tôn giáo, cụ thể tác phẩm "Bản chất của đạo Cơ Đốc", đã phân tích mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen về triết học
tôn giáo, đã gián một đòn mạnh mẽ về quan điểm duy tâm huyền bí về tôn giáo,
tạo nền tảng cho nhận thức và phương pháp luận cho Mác và Ăng-ghen khi tiếp
cận về tôn giáo. Về con người, Phoiơbắc cho rằng con người là sản phẩm của
giới tự nhiên, truy tìm bản chất của tôn giáo ngay trong bản chất của con người.
Với cách đặt vấn đề như vậy, ông đi sâu vào nghiên cứu bản chất con người, bắt
đầu từ việc truy tìm mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên, giữa tư duy và
tồn tại, giữa người và người để rồi từ đó, đưa ra kết luận về mối quan hệ giữa
người và thần. Đây là một quan điểm tiến bộ, tích cực tại thời đại đó, đã tạo nên
một bước ngoặt lớn về nhận thức theo quan điểm chủ nghĩa duy vật. Mọi sự xác
định về bản chất thần thánh đều có liên quan đến việc xác định bản chất con
người, đã trở thành “sợi chỉ đỏ” trong quan niệm của Mác và Ăng-ghen về tôn
giáo. Phoiơbắc đã vượt qua một thói quen tư duy để hình thành cách suy nghĩ
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 10

GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
mới, cả trong quan niệm về tự nhiên, về lý luận nhận thức lẫn trong cách hiểu về
con người. Triết học cần từ bỏ tính sách vở, những biện luận thuần túy của tư
duy để đến với cuộc sống, được vật chất hóa trong hoạt động thực tiễn của con
người. Cái cần có trong dự án cải cách triết học Phoiơbắc - sự kết hợp giữa chủ
nghĩa duy vật và thuyết nhân bản đã được hiệu chỉnh, hoàn thiện, phát triển lên
trình độ cao, trình độ của chủ nghĩa duy vật biện chứng triệt để và khoa học. Tóm
lại, tư tưởng duy vật của Phoiơbắc có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan triết
học của Mác và Ăng-ghen: tiền đề để cải tạo chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc phát
triển lên hình thức mới là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
1.4. Hạn chế
1.4.1. Phoiơbắc chưa vượt qua khuôn khổ chủ nghĩa duy vật siêu hình và
phủ nhận phép biện chứng tiến bộ của Hêghen
Lẽ cố nhiên, phương án cải cách của Phoiơbắc không tránh khỏi những ảo
tưởng, do chịu sự tác động của thời đại mình. Trong triết học tự nhiên, sự cải
cách của Phoiơbắc chỉ thể hiện được một nửa. Trước hết, trong khi phê phán triết
học tư biện, duy tâm của Hêghen, Phoiơbắc không đánh giá đúng mức "hạt nhân
hợp lý" của phép biện chứng Hêghen, vì vậy sự phê phán của ông đôi chỗ tỏ ra
thiếu sâu sắc, thiếu sức thuyết phục. Hơn nữa, mặc dù Phoiơbắc giải quyết một
cách duy vật vấn đề cơ bản của triết học, song ông lại né tránh thuật ngữ duy vật,
không thừa nhận bản chất thế giới quan của mình. Phoiơbắc xuất phát tử những
khiếm khuyết của chủ nghĩa duy vật ở những thế kỷ trước để phủ nhận các giá trị
thực sự của nó trong lịch sử, hay nói cách khác, ông quy hiện tượng nhất thời của
một khuynh hướng thế giới về bản chất của nó, tức "thấy cây mà không thấy
rừng". Ông nói nhiều đến vận động, phát triển, song không lý giải một cách đúng
đắn động lực của phát triển. Trọng tâm phân tích của Phoiơbắc là làm sáng tỏ
tính khách quan của tự nhiên, chứ không phải tính biến đổi, tính quy luật, tính tất
yếu khách quan và tính lịch sử của nó. Với những điều vừa nêu, có thể thấy rằng
Phoiơbắc chưa thể vượt qua khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật siêu hình.”

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 11
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
1.4.2. Quan niệm con người của Phoiơbắc rất hời hợt dẫn đến quan điểm
đạo đức của con người cũng đơn điệu
Phoiơbắc lấy con người làm điểm xuất phát, nhưng đó không phải là con
người sống trong một thế giới hiện thực với những quan hệ phức tạp, mà là con
người trừu tượng, phi lịch sử, bị tách khỏi những điều kiện kinh tế, xã hội, lịch
sử. Khi nghiên cứu những vấn đề về đời sống xã hội, ông đã rơi vào quan điểm
duy tâm và bộc lộ tính chất trừu tượng của cái gọi là con người cụ thể của ông.
Mặc dù đôi khi ông cũng đưa ra hình ảnh tương phản: “Trong một cung điện
người ta suy nghĩ khác trong một túp lều tranh" nhưng ông lại chỉ quan tâm đến
mặt tự nhiên – sinh học mà không chú ý đến mặt xã hội và điều kiện kinh tế
chính trị của con người. Ăng-ghen chỉ rõ rằng, tư tưởng đạo đức của Phoiơbắc
đầy ắp những giấc mơ đẹp, nhưng ông lại không vạch ra từ đâu và bằng cách nào
đề biến chúng thành hiện thực. "Đối với Phoiơbắc, Ăng-ghen viết, thì tình yêu ở
đâu và bao giờ cũng là một ông thần lắm phép lạ có thể giúp vượt mọi khó khăn
của đời sống thực tiễn và điều đó diễn ra trong một xã hội chia thành những giai
cấp có những lợi ích đối lập hắn với nhau![ ] hãy yêu nhau đi, hãy ôm hôn nhau
đi, không cần phân biệt nam nữ và đẳng cấp, thật là giấc mơ thiên hạ thuận
hoài"[9]. Quan niệm thiện - ác, hạnh phúc - đau khổ, tình yêu - thù địch ở
Phoiơbắc bị chia cắt một cách siêu hình, thiếu hẳn yếu tố tác động và chuyển
hóa. Đây là bước thụt lùi so với Hêghen. Ngay cả đem so sánh với Cantơ,
Phoiơbắc vẫn quá đơn điệu. Ăng-ghen viết: "Học thuyết của Phoiơbắc về đạo
đức được gọt dũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh và
chính vì thế mà không bao giờ nó có thể đem áp dụng được ở đâu cả”.
Trong thuyết nhân bản - đạo đức, Phoiơbắc nhấn mạnh giá trị con người,
"tố chất người" nói chung, song chưa nêu ra được những tính quy định xã hội
thực sự làm nên bản chất con người. Ông đề cao tình yêu phổ quát, cổ súy cho
huyền thoại về tình yêu, và cũng chỉ dừng lại ở huyền thoại. Ở Phoiơbắc, chủ
nghĩa duy tâm xã hội đan xen với chủ nghĩa không tưởng chính trị về một Nhà

nước "của tất cả và dành cho tất cả", thể hiện sự trọn vẹn, hiện thực, phát triển,
trực tiếp của bản chất con người. Ông phê phán một ảo tưởng để hướng đến thứ
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 12
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
ảo tưởng khác - "tôn giáo của Tình yêu” phi lịch sử. Như thế, sự tiến bộ xã hội
được nhà tư tưởng nhân bản xem xét qua lăng kính của sự thay thế các hình thức
sinh hoạt tinh thần, chứ không phải hoạt động thực tiễn - vật chất của con người.
Phoiơbắc không hài lòng với tư duy trừu tượng, đã nhờ đến trực quan của
cảm giác; nhưng ông không coi tính cảm giác là hoạt động thực tiễn của cảm giác
con người. Phoiơbắc hòa tan bản chất tôn giáo và bản chất con người. Nhưng bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội. Do đó, ở Phoiơbắc bản chất con người là tính phổ biến nội tại, gắn bó một
cách thuần túy tự nhiên đông đảo cá nhân lại với nhau.
1.4.3. Phủ nhận vai trò thực tiễn, con người mang tính chất trừu tượng có
yếu tố duy tâm
“Do bỏ qua hoạt động thực tiễn nên Phoiơbắc coi nhận thức là một quá
trình tĩnh tại, thụ động của chủ thể tiếp nhận hình ảnh của khách thể mà không
phải là quá trình mang tính thực tiễn năng động, sáng tạo thế giới của con người
– chủ thể nhận thức”[2,215]. Phoiơbắc không thấy được vai trò to lớn của thực
tiễn trong quá trình nhận thực hay hoàn thiện nhân cách con người là thúc đẩy
phát triển sản xuất nói riêng, xã hội nói chung; cũng như nội dung cơ bản của
hoạt động thực tiễn: lao động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp trong xã hội vì
hoạt động thực tiễn của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính. Đối với
ông, thực tiễn chỉ là một hoạt động bản năng thấp hèn, cần phải loại ra khỏi nhận
thức, khỏi triết học [lý luận]. Vì không thấy trong thực tiễn động lực phát triển xã
hội nên ông cố đi tìm nó trong tình yêu. Do không xuất phát từ quan điểm thực
tiễn mà trong lĩnh vực xã hội, Phoiơbắc cũng như mọi nhà tư tưởng trước Mác
đều sa vào chủ nghĩa duy tâm, quá đề cao sức mạnh tinh thần, trước hết là giáo
dục, đạo đức, pháp luật… mà không thấy được vai trò của nền sản xuất vật chất

đối với sự tồn tại và phát triển xã hội.”[2,215]
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 13
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đã góp phần khôi phục và phát triển
chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại sau khi bị chôn vùi trong thời trung cổ. Nó đã
trình bày rõ quan niệm duy vật và lấy con người làm đối tượng nghiên cứu của
triết học, xây dựng nên chủ nghĩa duy vật nhân bản, làm tiền đề để Mác và Ăng-
ghen xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử .
Phoiơbắc đã khẳng định sự vận động của giới tự nhiên làm theo luật nhân quả,
làm xuất hiện con người và xã hội. Con người chính là sản phẩm cao nhất của
giới tự nhiên, dựa vào giới tự nhiên để thỏa mãn mọi nhu cầu của chính mình và
bằng cảm giác tư duy, con người nhận thức được giới tự nhiên và tìm hiểu chính
mình. Cuộc sống của con người luôn gặp nhiều khó khăn và đau khổ và họ cần
có niềm tin để an ủi mình; mà tôn giáo chính là cơ sở nguồn gốc của niềm tin. Vì
vậy, Phoiơbắc đã ra sức xây dựng một tôn giáo mới – “tôn giáo tình yêu” giúp
con người sống đúng với bản tính tình yêu của mình. Đối với ông, lịch sử nhân
loại là lịch sử của tôn giáo, thời đại mới xuất hiện sẽ tạo ra một tôn giáo mới để
con người gửi gắm niềm tin hay xoa dịu nổi đau trong cuộc sống hàng ngày.
Tuy nhiên, Phoiơbắc vẫn chưa vượt qua khuôn khổ chủ nghĩa duy vật siêu
hình. Phoiơbắc mới thấy con người sinh học, con người có tính loài, con người tự
nhiên chủ nghĩa, con người với những nhu cầu sinh học. Ông chưa thấy con
người xã hội, con người giai cấp, con người lịch sử. Vì vậy mà con người trong
triết học của Phoiơbắc rất trừu tượng, tách mình ra khỏi điều kiện kinh tế chính
trị xã hội. Do chưa có đủ cơ sở để lý giải bản chất thực sự của con người và các
quan niệm về đạo đức con người cũng như tôn giáo trong triết học Phoiơbắc rất
hời hợt, nghèo nàn, bất lực và mang đậm tính duy tâm.
Tóm lại, ông là một nhà triết học duy vật xuất sắc khi giải quyết các vấn
đề mang tính khách quan của tự nhiên và nâng cao tầm quan trọng của con người
trong triết học; nhưng khi giải quyết các vấn đề quan hệ kinh tế, chính trị thì ông

lại bộc lộ rõ yếu tố duy tâm và không lý giải được động lực phát triển của xã hội.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 14
GVHD: Bùi Văn Mưa Học viên: Liêu Ngọc Oanh – STT: 118 – Lớp: K21_D5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Mác – Lênin, Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc Gia, năm 2004
2. Bùi Văn Mưa [Chủ biên], Triết học – Phần 1 Đại cương về lịch sử triết học,
TP.HCM, năm 2011
3. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm
1998
4. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử triết học Phương Tây, TP.HCM, năm 2006
5. Vũ Ngọc Pha, Triết học, nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2001
6. Lê Công Sự, Quan niệm về con người trong triết học L.Feuerbach, Website
trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, Khoa giáo dục chính trị

7. Chương 7 Triết học cổ điển Đức, Website trường đại học Mỏ - Địa chất,
Khoa lý luận chính trị
/>option=com_content&task=view&id=377&Itemid=265
8. Friedrich Engels, Lút – Vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức, Website triethoc.edu.vn
/>option=com_content&view=article&id=160:ludwid-Phoi%C6%A1b
%E1%BA%AFc-va-s-cao-chung-ca-trit-hc-c-in-c&catid=6:h-hinh-tam-thc-
hc&Itemid=193
9. Tìm hiểu về tư tưởng cải cách triết học của L.Phoiơbắc, Website
vietduc.info.com

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó Trang 15

×