Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

nghiên cứu kiến thức bản địa của một số dân tộc thiểu số trong giảm nhẹ rủi ro và thích ứng với biến đổi khí hậu tại huyện chợ mới, tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 89 trang )


Số hóa bởi trung tâm học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



DƢƠNG THỊ GIANG




NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC BẢN ĐỊA CỦA
MỘT SỐ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG GIẢM
NHẸ RỦI RO VÀ THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI
KHÍ HẬU TẠI HUYỆN CHỢ MỚI,
TỈNH BẮC KẠN


Chuyên ngành: Khoa học môi trƣờng
Mã số: 60440301


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hà Xuân Linh










Thái Nguyên, năm 2013


Số hóa bởi trung tâm học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN

- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc.

Thái Nguyên, ngày tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn


Dương Thị Giang













Số hóa bởi trung tâm học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự giúp hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường
Đại học Nông lâm Thái Nguyên – Đại học Thái Nguyên.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên đã tận tình dạy bảo cho tôi trong suốt thời gian học
tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy giáo Tiến sĩ Hà Xuân Linh đã
dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Tài nguyên & Môi
trường, Phòng quản lý đào tạo sau đại học – Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên cùng quý thầy cô trong khoa đã tạo rất nhiều điều kiện để tôi học tập
hoàn thành tốt khóa học.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển
Nông - Lâm – Nghiệp miền núi phía Bắc - Trường Đại học Nông lâm TN, cán
bộ UBND huyện, phòng NN & PTNT, phòng Tài nguyên và Môi trường,
phòng Thống kê, chính quyền các xã cùng nhân dân huyện Chợ Mới, đã tạo

điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được sự đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn



Dương Thị Giang


Số hóa bởi trung tâm học liệu

iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết 1
1.2. Mục đích nghiên cứu 2
1.3. Những yêu cầu của đề tài 2
1.4. Ý nghĩa của đề tài 3
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.1.1. Căn cứ pháp lý 4
1.1.2. Cơ sở lý luận 5
1.2. Cơ sở thực tiễn 9
1.2.1. Biến đổi khí hậu trên thế giới 9
1.2.2. Khái quát biến đổi khí hậu ở Việt Nam 17
1.2.3. Nét khái quát về các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc 27

1.2.4. Đánh giá chung biến đổi khí hậu tỉnh Bắc Kạn 30
1.3. Các nghiên cứu tương tự 33
Chƣơng 2 NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 35
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 35
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 35
2.3. Nội dung nghiên cứu 35
2.4. Phương pháp nghiên cứu 35
2.4.1. Thu thập số liệu thứ cấp 35
2.4.2. Thu thập số liệu sơ cấp 36
Chƣơng 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 38
3.1. Một số đặc điểm chính về tình hình tự nhiên và kinh tế, xã hội của
huyện Chợ Mới 38
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 38


Số hóa bởi trung tâm học liệu

iv
3.1.2. Các nguồn tài nguyên. 39
3.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội 41
3.2. Đánh giá những hiện tượng thời tiết bất thường và ảnh hưởng trong
những năm gần đây của huyện Chợ Mới 43
3.2.1. Đánh giá những hiện tượng thời tiết bất thường 43
3.2.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp 48
3.3. Các kiến thức bản địa của người dân trong đời sống sinh hoạt và sản xuất 53
3.3.1. KTBĐ của dân tộc Tày - xã Thanh Vận 53
3.3.2. KTBĐ của dân tộc Dao – xã Tân Sơn 59
3.3.3. Những kiến thức và kinh nghiệm nhằm thích nghi và giảm
thiểu tác động tiêu cực của BĐKH của 2 xã 63
3.4. Đề xuất một số mô hình cây trồng thích ứng với BĐKH dựa vào kiến

thức bản địa 66
3.4.1. Mô hình cây trồng thích ứng rét 66
3.4.2. Mô hình thích ứng cây chịu hạn 69
3.4.3. Mô hình canh tác cho các loại đất 72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 73
1. Kết luận 73
2. Kiến nghị 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 76




Số hóa bởi trung tâm học liệu

v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BĐKH : Biến đổi khí hậu.
BTN&MT : Bộ Tài nguyên và Môi trường.
CARE (Cooperative for American Remittances to Europe): Hợp tác xã
cho việc gửi hàng của Mỹ sang châu Âu.
CSDM (Center for sustainable development in mountainous areas):
Trung tâm vì sự phát triển bền vững miền núi.
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
DTTS : Dân tộc thiểu số
GBĐ : Giống bản địa
GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm quốc nội
IK (Indigenous knowledge): Tri thức bản địa
IPCC (The Intergovernmental Panel on Climate Change): Ủy ban Liên

Chính phủ về Biến đổi Khí hậu
ISDR (International Society for Diatom Research): Hiệp hội Quốc tế
nghiên cứu tảo cát.
MNPB : Miền núi phía Bắc
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NLN : Nông Lâm Nghiệp
QLRRTT : quản lý rủi ro thiên tai
UN (United Nation): Liên hợp quốc
WB (World Bank): Ngân hàng thế giới
WMO (World Meteorological Organization): Tổ chức Khí tượng thế giới




Số hóa bởi trung tâm học liệu

vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Xu hướng biến đổi khí hậu ở tỉnh Bắc Kạn 32
Bảng 3.1: Cơ cấu cây trồng nông nghiệp 42
Bảng 3.2: Số lượng đàn gia súc, gia cầm 43
Bảng 3.3:Tổng thiệt hại từ năm 2007 đến năm 2011 44
Bảng 3.4: Thiệt hại do bão năm 2012 44
Bảng 3.5: Thiệt hại do hạn hán năm 2012 46
Bảng 3.6: Tác động của biến đổi khí hậu đến trồng trọt 50
Bảng 3.7. Tác động của biến đổi khí hậu đến chăn nuôi 52
Bảng 3.8: Kết quả phân loại nhóm cây trồng xã Thanh Vận 53
Bảng 3.9: Cây trồng bản địa và khả năng thích ứng của dân tộc Tày 54
Bảng 3.10: Phương thức sử dụng đất nông nghiệp, chọn đất xã Thanh Vận . 55

Bảng 3.11: Lịch gieo trồng cây nông nghiệp dân tộc Tày 57
Bảng 3.12: Nhận biết dấu hiệu thời tiết xấu dân tộc Tày 58
Bảng 3.13: Kết quả phân loại nhóm cây trồng xã Tân Sơn 59
Bảng 3.14: Cây trồng bản địa và khả năng thích ứng của dân tộc Dao 60
Bảng 3.15 : Lịch canh tác nương của người Dao 61
Bảng 3.16: Nhận biết dấu hiệu thời tiết xấu dân tộc Dao 62
Bảng 3.17 : Kiến thức bản địa về trồng trọt 63
Bảng 3.18: Kiến thức bản địa về chăn nuôi 65
Bảng 3.19: Các hoạt động thích ứng với BĐKH 65
Bảng 3.20: Tiêu chí lựa chọn mô hình thích ứng cây khoai tây chịu rét 66
Bảng 3.21. Tiêu chí lựa chọn mô hình thích ứng cây đậu xanh chịu hạn 70
Bảng 3.22: Mô hình canh tác cho các loại đất 72



Số hóa bởi trung tâm học liệu

vii
DANH MỤC CÁC HÌNH

(
0
C ) trong 50 năm qua 18
(%) trong 50 năm qua 19
Hình 3.1. Biểu đồ lượng mưa trung bình các tháng trong năm huyện Chợ Mới 44
Hình 3.2: Biểu đồ số giờ nắng các tháng trong năm huyện Chợ Mới 46
Hình 3.3: Biểu đồ nhiệt độ trung bình các tháng trong năm huyện Chợ Mới 48




Số hóa bởi trung tâm học liệu

1
MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một trong những thách thức lớn nhất đối với
nhân loại trong thế kỷ 21. Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản
xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn thế giới. Nhiệt độ tăng, mực
nước biển dâng gây ngập lụt, gây nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng đến
nông nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống kinh tế - xã
hội trong tương lai. Vấn đề biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn
diện và sâu sắc quá trình phát triển và an ninh toàn cầu như năng lượng, nước,
lương thực, xã hội, việc làm, ngoại giao, văn hóa, kinh tế, thương mại.
Ở Việt Nam trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng
khoảng 0,5 - 0,7
0
C, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm. Biến đổi khí hậu
đã làm cho các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Hậu
quả của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là một nguy cơ
hiện hữu cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu
thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước. Việt Nam được ước tính
là một trong năm quốc gia đang phát triển bị tác động lớn bởi biến đổi khí hậu
(Ngân hàng Phát triển Châu Á, 2009; Oxfam, 2008). Vì vậy, để có sự phát
triển bền vững, biến đổi khí hậu là vấn đề quản lý khẩn cấp đối với bất kỳ
chính phủ, tổ chức, cộng đồng và cá nhân.
Miền núi phía Bắc bao gồm có 15 tỉnh với tổng diện tích là 110.000 km
2
.
Dân số trong vùng vào khoảng 18 triệu người (20% dân số toàn quốc) với 35

nhóm dân tộc thiểu số. Vùng miền núi phía bắc là vùng rất quan trọng cho sự
phát triển kinh tế, quốc phòng an ninh và cân bằng hệ sinh thái cho Việt Nam.
Tuy nhiên vùng miền núi phía bắc được xác định là một trong những vùng
nghèo nhất ở Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân gây ra tỷ lệ nghèo cao trong
vùng như sự xa xôi ngăn cách về địa lý, sự bất bình đẳng về giới, sự hạn chế
trong sự tiếp cận các dịch vụ công như dịch vụ khuyến nông, phát triển giáo
dục, y tế cũng như tiếp cận các cơ hội thị trường để phát triển sinh kế (CARE


Số hóa bởi trung tâm học liệu

2
international in Vietnam, 2010). Nhưng những tác động bất lợi của hiện tương
thời tiết khí hậu cực đoạn và biến đổi khí hậu trong mấy năm gần đây được
xác định là một nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của người
dân trong vùng.
Bắc Kạn là một trong những tỉnh nghèo nhất nằm ở trung tâm miền núi
phía bắc Việt Nam, trong 5 năm gần đây Bắc Kạn là một trong những tỉnh bị
thiệt hại lớn trong sản xuất nông nghiệp do sự xuất hiện của thời hiện tượng
tiết khí hậu cực đoan (CARE, 2010).
Bắc Kạn nói riêng và miền núi phía bắc Việt Nam nói chung có vốn kiến
thức truyền thống và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp giúp họ linh hoạt hơn
với những thay đổi khắc nghiệt trong môi trường sống. Nhiều cộng đồng bản
địa là dân tộc thiểu số ở Bắc Kạn đã có rất nhiều kinh nghiệm trong canh tác
nông nghiệp bền vững và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Những kiến thức và
các kỹ thuật bản địa này đã được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
trong từng cộng đồng dân tộc thiểu số.
Kiến thức bản địa và kinh nghiệm thực tiễn là cơ sở để đưa ra quyết định
ở cấp địa phương ở nhiều cộng đồng nông thôn (ISDR, 2008). Kiến thức bản
địa và kinh nghiệm thực tiễn có giá trị không chỉ đối với các nền văn hóa mà

trong đó nó phát triển, mà còn cho các nhà khoa học và nhà lập kế hoạch để
cải thiện điều kiện sống ở nông thôn.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn, được sự đồng ý của Khoa Sau đại
học, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và với sự hướng dẫn trực tiếp
của TS. Hà Xuân Linh, tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu kiến thức bản địa
của một số dân tộc thiểu số trong giảm nhẹ rủi ro và thích ứng với biến đổi
khí hậu tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu kiến thức bản địa của một số dân tộc thiểu số và đề suất các
biện pháp trong giảm nhẹ rủi ro và thích ứng với biến đổi khí hậu.
1.3. Những yêu cầu của đề tài


Số hóa bởi trung tâm học liệu

3
- Đưa ra một tổng quan chung về kiến thức bản địa trong lĩnh vực quản
lý tài nguyên thiên nhiên;
- Phát hiện và tư liệu hóa các kiến thức bản địa cũng như thực tiễn về
quản lý giảm nhẹ rủi ro thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu;
- Xác định tính hiệu quả và tính phù hợp của các kiến thức bản địa và
kinh nghiệm của người dân địa phương về biến đổi khí hậu;
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi và các mô hình thử nghiệm thích
ứng với biến đổi khí hậu.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa khoa học:
- Là nguồn cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu về sau;
- Cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và cơ quan
quản lý tài nguyên thiên nhiên trong giảm thiểu rủi ro và thích ứng với biến
đổi khí hậu

Ý nghĩa thực tiễn:
- Vận dụng kiến thức bản địa cũng như thực tiễn của người dân trong
cuộc sống và sản xuất để giảm nhẹ rủi ro và thích ứng với biến đổi khí hậu;
- Giúp các cơ quản lý có kiến thức sâu hơn từ đó đưa ra chính sách, biện
pháp quản lý phù hợp nhất với địa phương.
- Nâng cao năng lực cho cán bộ chính quyền các cấp trực tiếp làm công
tác phòng, chống thiên tai
- Xây dựng được kế hoạch phòng tránh thiên tai, có hệ thống thông tin
liên lạc và xây dựng được lực lượng nòng cốt có chuyên môn, nghiệp vụ về
giảm nhẹ thiên tai, lực lượng tình nguyện viên để hướng dẫn và hỗ trợ nhân
dân trong công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.


Số hóa bởi trung tâm học liệu

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Căn cứ pháp lý
- Tháng 12 năm 1998, Việt Nam tham gia ký Nghị định thư Kyoto và
chính thức phê chuẩn Nghị định thư này vào tháng 9/2002;
- Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 12 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020;
- Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg, ngày 17 tháng 8 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững
ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam);
- Quyết định số 35/2005/QĐ-TTg ngày 17/12/2005, Thủ tướng Chính

phủ ban hành về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định thư Kyoto ở Việt Nam;
- Quyết định số 47/2007/TTg ngày 6/4/2007, Thủ tướng Chính phủ ra phê
duyệt Kế hoạch thực hiện Nghị định thư Kyoto trong giai đoạn 2007-2010;
- Năm 2007, Việt Nam công bố Chiến lược Quốc gia về phòng chống,
thích nghi và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 (SRV, 2007);
- Quyết định số 172/2007/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 11 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tai đến năm 2020;
- Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 12 năm 2008, của
Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
biến đổi khí hậu;
- Quyết định số 1002/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 07 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý
rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng;


Số hóa bởi trung tâm học liệu

5
- Quyết định số 2139/QĐ-TTg, ngày 5/12/2011, của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu;
- Quyết định số 1113/QĐ-UBND ngày 27/6/2011 của UBND tỉnh về
việc phê duyệt đề cương và dự toán kinh phí dự án: “ Đánh giá mức độ biến
đổi khí hậu, xây dựng các kịch bản biến đổi khí hậu của tỉnh Bắc Kạn giai
đoạn 2010-2020”;
- Quyết định số 1114/QĐ-UBND ngày 27/6/2011 của UBND tỉnh về
việc phê duyệt đề cương và dự toán kinh phí dự án: Kế hoạch hành động ứng
phó với bản biến đổi khí hậu của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2010-2020”;
- Quyết định số 799/QĐ-UBND ngày 24/5/2012 của UBND tỉnh về việc
ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với bản biến đổi khí hậu của tỉnh Bắc

Kạn giai đoạn 2010-2020”;
1.1.2. Cơ sở lý luận
1.1.2.1. Biến đổi khí hậu
“Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”, là
những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh
hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của
các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ
thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.(Theo
công ước chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu,1992). [14]
1.1.2.2. Nguyên nhân biến đổi khí hậu
Sau cuộc tranh luận kéo dài hơn 30 năm, cho đến nay, các nhà khoa học
đã có sự nhất trí cao và cho rằng trong những thập kỷ gần đây, những hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội với nhịp điệu ngày một cao trong nhiều lĩnh
vực như năng lượng, công nghiệp, giao thông, nông – lâm nghiệp và sinh hoạt
đã làm tăng nồng độ các khí gây hiệu ứng nhà kính (N
2
O,CH
4
, H
2
S và nhất là
CO
2
) trong khí quyển, làm Trái đất nóng lên, làm biến đổi hệ thống khí hậu và
ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu (Al Gore, 2006). Theo Báo cáo đánh giá
lần thứ tư của IPCC (2007), hàm lượng các khí nhà kính cơ bản (CO
2
, CH
4
,



Số hóa bởi trung tâm học liệu

6
N
2
O) đều tăng rõ rệt trong những thập kỷ gần đây. Trong đó, tiêu thụ năng
lượng do đốt các nhiên liệu hóa thạch đóng góp khoảng 46% vào tiềm năng
nóng lên toàn cầu; Phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18% và hoạt động
nông nghiệp tạo ra khoảng 9% tổng số các khí gây ra lượng bức xạ cưỡng bức
làm ấm lên toàn cầu. Sản phẩm hóa học (CFCs, halon ) 24 % và các nguồn
khác (rác thải ) 3 %. [7]
1.1.2.3. Tìm hiểu chung về kiến thức bản địa
Tri thức bản địa (IK)/kiến thức bản địa/tri thức truyền thống/tri thức địa
phương là hệ thống tri thức mà người dân ở một cộng đồng tích lũy và phát
triển dựa trên kinh nghiệm, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn và thường
xuyên thay đổi để thích nghi với môi trường tự nhiên, văn hóa, xã hội.
Tri thức bản địa được duy trì, phát triển trong một thời gian dài với sự
tương tác qua lại rất gần gũi giữa con người với môi trường tự nhiên. Tập hợp
những hiểu biết, kiến thức và ý nghĩa này là một phần của tổng hợp văn hoá
bao gồm cả hệ thống ngôn ngữ, cách định danh và phân loại, phương thức sử
dụng tài nguyên, các lễ nghi, giá trị tinh thần và thế giới quan. Những tri thức
này là nền tảng cơ sở để đưa ra những quyết định về nhiều phương diện cơ
bản của cuộc sống hàng ngày tại địa phương như khai thác tự nhiên, các hệ
thống canh tác và chăn nuôi, tìm kiếm nguồn nước, tự bảo vệ và chăm sóc sức
khoẻ bản thân; và sự thích nghi với những thay đổi của môi trường. Tri thức
bản địa sử dụng nguồn tài nguyên của địa phương, ít phụ thuộc vào nguồn
cung cấp từ bên ngoài. Tri thức bản địa chủ yếu được truyền miệng từ đời này
sang đời khác, ít khi được lưu trữ bằng văn bản ghi chép. Tri thức bản địa

được hình thành trong quá trình nghiệm sinh (trải nghiệm và đúc kết thành tri
thức), luôn có sự chọn lọc trong quá trình vận động của cuộc sống, hướng đến
sự thích nghi với đặc điểm văn hoá, xã hội và môi trường. Tri thức bản địa
luôn được làm giàu qua việc tích hợp các kinh nghiệm mới hoặc tri thức mới
có được từ quá trình tiếp biến văn hoá.


Số hóa bởi trung tâm học liệu

7
Tri thức bản địa không hạn chế ở những người dân nông thôn. Trên thực
thế, bất kỳ nhóm cộng đồng nào cũng có tri thức bản địa: nông thôn và thành
thị; người định cư và người du cư; người bản địa và người nhập cư. Quá trình
giao lưu, xáo trộn dân cư cũng sẽ dẫn đến việc hình thành các tri thức bản địa
mới, trên cơ sở của quá trình tiếp xúc và biến đổi, đào thảỉ (những gì không
còn phù hợp) và tích hợp (tiếp thu những yếu tố mới, có ích cho cuộc sống),
thường được gọi bằng một thuật ngữ mang tính bao quát hơn là tri thức địa
phương (local knowledge). Chính vì vậy, tri thức bản địa phản ánh đặc tính
của lứa tuổi, giới tính và đặc điểm của nhóm xã hội: Những người già có
nhiều loại kiến thức khác so với thế hệ trẻ; phụ nữ có những tri thức khác so
với nam giới; người có học thức và người ít học tích hợp được các vốn tri
thức khác nhau Có những kiến thức chung, được tất cả mọi người trong
cộng đồng hiểu biết; cũng có những kiến thức cùng chia sẻ, có nhiều người
biết nhưng không phải toàn bộ cộng đồng; lại có những kiến thức chuyên
nghiệp/chuyên biệt, chỉ có ở một số ít người (ví dụ chỉ có một số ít người dân
là thầy thuốc, thầy cúng, nghệ nhân, bà đỡ hoặc thợ thủ công…).[13]
Trước đây, tri thức bản địa/tri thức địa phương thường được hiểu là đối
lập với “kiến thức chính thống” (formal knowledge)/“kiến thức khoa
học”/“Quốc tế” hay “Hiện đại” - hệ thống kiến thức phát triển phần lớn dựa
trên nền tảng giáo dục, được các trường đại học, viện nghiên cứu và công ty

tư nhân sử dụng phương pháp khoa học xây dựng nên; được kiểm chứng
trong phòng thí nghiệm, được xác nhận trong những văn kiện, những nguyên
tắc, luật lệ, những quy định và cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Song thực tế cho thấy,
sau một quá trình giao lưu và biến đổi, đào thải và tích hợp, tiếp thu và cải
biến, đã có nhiều điểm chồng chéo giữa kiến thức bản địa và kiến thức khoa
học; nhiều kiến thức phương Tây đã được bản địa hoá thành kiến thức của
người dân nên nhiều khi sẽ rất khó phân biệt giữa hai loại kiến thức này.Ở
những quốc gia đang phát triển, hệ thống tri thức bản địa luôn tồn tại song
song với các hệ thống kiến thức chính thống. [13]


Số hóa bởi trung tâm học liệu

8
Tri thức bản địa chính là nền tảng cơ sở để duy trì cuộc sống của các xã
hội truyền thống. Hơn thế nữa, trong bối cảnh các xã hội tương đối khép kín
với nền kinh tế nặng về tự cung tự cấp của đa số dân tộc thiểu số ở Việt Nam,
đó còn là cơ sở duy nhất. Sự xuất hiện của các “tri thức chính thống” và văn
hoá phương Tây đã tạo nên những cú sốc trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Một thời gian dài, tri thức bản địa đã không được đánh giá đúng với những
giá trị mà nó chứa đựng; thậm chí, còn bị coi là biểu hiện của sự trì trệ, lạc
hậu và phản khoa học. [13]
Trước thập niên 1980, nhiều nỗ lực nhằm loại bỏ các tri thức bản địa
đã được áp dụng trên cả nước. Ngày nay, giá trị và vai trò của tri thức bản
địa đã được nhận thức/đánh giá lại. Tại nhiều khu vực, tri thức bản địa đã
và đang đóng góp một phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề của địa
phương. [13]
Cũng như tất cả các tộc người khác, người dân các tộc người thiểu số
MNPB có vốn kiến thức riêng trong nhiều lĩnh vực về môi trường và cuộc
sống hàng ngày. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu, các hiện tượng

thời tiết cực đoan và thiên tai diễn ra ngày càng mạnh mẽ và phức tạp, trước
khi có sự can thiệp/hỗ trợ từ bên ngoài, người dân đã phải tìm cách tự đối phó
để bảo vệ bản thân, gia đình và cộng đồng. Những sáng kiến mà họ áp dụng
chủ yếu được huy động từ vốn tri thức bản địa/tri thức địa phương được đúc
kết từ nhiều đời. [9]
Như một quá trình chọn lọc của tự nhiên, trải qua một thời gian lâu dài
hàng trăm hoặc hàng nghìn năm hình thành nên một kho kiến thức bản địa và
theo nó là những cây trồng bản địa vô cùng phong phú. Những cây trồng và
vật nuôi bản địa được con người thuần hóa chọn lọc và canh tác từ thế hệ này
qua thế hệ khác nhằm cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và
các sản phẩm khác đáp ứng nhu cầu của con người, kiến thức canh tác bản địa
đã trở thành kho kiến thức quý báu của con người. [9]


Số hóa bởi trung tâm học liệu

9
Kiến thức bản địa trong nông nghiệp là những kiến thức liên quan đến
hoạt động trồng trọt, chăn thả của người nông dân địa phương, được người
dân đúc kết qua thực tế cuộc sống và những kinh nghiệm khi chăn nuôi, trồng
trọt. Do đó, những kiến thức bản địa này rất phù hợp với điều kiện địa lý, khí
hậu, đất đai và điều kiện canh tác của địa phương. Có những kiến thức bản địa
thể hiện tri thức sâu sắc của người dân bản địa và là tài sản, kinh nghiệm quý
giá trong sản xuất mà thế hệ đi trước để lại cho thế hệ sau, có giá trị di sản cao
và bền vững. [11]
Ngày nay do nhiều nguyên nhân kiến thức bản địa và giống cây trồng,
vật nuôi bản địa đang bị xói mòn nghiêm trọng, kéo theo đó những kiến thức
và kinh nghiệm của người dân cũng mai một dần. Kiến thức bản địa nói
chung được lưu truyền rất dễ, chủ yếu bằng truyền khẩu theo kiểu ông cha
truyền dạy con cháu, không cần sách vở ghi chép, người dân làm lâu sẽ quen.

Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà chúng dễ bị mai một đi theo thời gian nếu
chúng ta không có biện pháp bảo tồn thích hợp. [13]
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Biến đổi khí hậu trên thế giới
Trái đất nóng lên là hậu quả của một quá trình tích lũy lâu dài của khí
nhà kính, chủ yếu là CO
2
và metan. Những khí này khi được thải vào bầu khí
quyển sẽ "nhốt” hơi nóng của ánh mặt trời bên trong bầu khí quyển, vì vậy
làm cho nhiệt độ trái đất tăng lên.
Nhiều hậu quả không diễn biến theo một con đường thẳng. Thí dụ về
mặt sinh thái, khí CO
2
tăng sẽ ảnh hưởng có lợi cho sự phát triển rừng, nhưng
khi khí hậu biến đổi thì rừng sẽ bị phá hủy – đây là tác động có hai hậu quả
đối nghịch với điều chúng ta dự kiến trong tương lai. [18]
- Núi băng biến mất
Hậu quả thấy rõ nhất của việc khí hậu nóng lên là lượng núi băng giảm
xuống. Mặc dù lượng băng mất đi không chỉ tùy thuộc vào nhiệt độ mà còn
vào mưa và ánh sáng-tuy nhiên nó vẫn có một quy luật chung: nơi nào không


Số hóa bởi trung tâm học liệu

10
khí nóng thì nơi đó có số lượng băng, tuyết phủ giảm đi. Thompson thu thập các
dữ liệu khoan được từ nhiều vùng nhiệt đới như Himalaya, Andes và nghiên cứu
chúng tạ phòng thí nghiệm của mình ở Ohio. Ông có thể chứng minh được, vào
kỷ Holocene khí hậu nóng rất phổ biến tại các vùng núi nhiệt đới ở khắp nơi trên
trái đất. Như vậy, nó không chỉ do yếu tố địa phương gây ra. [25]

Phản ứng nhạy cảm của nhiều núi băng về việc tăng nhiệt độ tương
đối thấp của khí hậu là điềm báo trước cho chúng ta thấy, nếu sức nóng
toàn cầu gia tăng lên nhiều độ C thì phần lớn các núi băng trên thế giới sẽ
không còn. Núi băng còn là nơi dự trữ nước, ngay cả khi mưa nhiều vẫn
cho nước quanh năm. Ngành nông nghiệp và nước sinh hoạt trong các
thành phố lớn vùng núi lệ thuộc vào nguồn nước này. Nếu các núi băng
biến mất thì điều này sẽ gây ra nhiều vấn đề lớn và đe dọa cuộc sống của
hàng triệu người vì thiếu nước. [15]
Sự tan hủy của vùng băng phủ có thể chỉ xảy ra trong khoảng thời gian
vài trăm năm, chứ không phải vài ngàn năm [23].
- Mực nước biển đang dâng lên
Một trong những hậu quả có tính vật lý do khí hậu toàn cầu nóng gây ra
là mực nước biển tăng lên. Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực
nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay
lục địa băng trên trái đất tan chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và
đại dương.
Người ta đã từng quan sát hiện tượng này trong lịch sử phát triển của khí
hậu. Vào cao điểm của thời băng giá (cách đây khoảng 20 000 năm), lúc khí
hậu toàn cầu lạnh hơn khoảng 4 đến 7
0
C thì mực nước biển thấp hơn hiện nay
khoảng 120m và người ta có thể đi bộ mà không bị ướt chân từ châu Âu lục
địa sang Anh quốc. Vào cuối thời băng giá, mực nước biển tăng nhanh, đến
khoảng 5m cho mỗi thế kỷ.[16]
Khi nước biển đã dâng lên thì sẽ rất khó ngăn chặn chúng lại. Nhà khí
tượng học James Hansen, giám đốc Viện nghiên cứu không gian Goddard của
NASA, gọi lớp băng phủ là “quả bom nổ chậm” [23]. Nếu núi băng tan là


Số hóa bởi trung tâm học liệu


11
dấu hiệu báo động về khí hậu nóng thì việc mực nước biển dâng lên là một
hậu quả tất nhiên theo sau đó: nó bắt đầu chậm, nhưng giữ lại rất lâu. Nguyên
nhân do lớp băng phủ tan và thể tích nước do sức nóng giãn nở kéo dài từ
hàng trăm năm – yếu tố thứ hai – vì nước nóng từ mặt nước lắng xuống sâu
trong đại dương rất chậm. Điều này có nghĩa là mực nước biển còn tiếp tục
dâng lên trong vài trăm năm nữa , ngay cả khi khí hậu không còn nóng. [15]
- Dòng hải lưu biến đổi
Khí hậu nóng lên có thể làm các chuyển động hải lưu yếu đi bằng hai
cách: sức nóng làm giảm độ đậm đặc của nước biển do nước giãn nở ra và gia
tăng tăng lượng nước mưa cũng như nước ngọt từ các núi băng tuyết tan,
nhất là ở Greenland đổ vào. Hai yếu tố này làm cản trở sự hình thành
dòng hải lưu dưới sâu và trong trường hợp xấu nhất có thể làm chúng biến
mất hoàn toàn. [15]
Trực tiếp nhất là hậu quả của việc bảo quản chất dinh dưỡng ở vùng bắc
Đại Tây Dương, nơi mà hiện nay nhờ vào sự hình thành các dòng hải lưu dưới
biển sâu đã tạo thành một vùng biển với nhiều chất dinh dưỡng và nhiều cá
nhất trên trái đất [27]. Việc hấp thụ CO
2
của đại dương cũng nhờ các dòng hải
lưu sâu, vì vậy người ta tìm thấy ở Đại Tây Dương phần lớn khí CO
2
do con
người thải ra [26]. Sự biến mất các dòng hải lưu sâu có nghĩa là biển sẽ giảm
hấp thụ lượng CO
2
. Sự hủy diệt của các dòng hải lưu được xem như một biến
cố trong hệ thống khí quyển – nó là một hiện tượng khó tiên đoán với một hậu
quả khủng khiếp.

- Thời tiết cực đoan
Những hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lụt lội hay khô hạn là hậu
quả của sự biến đổi khí hậu mà nhiều người phải trực tiếp chịu đựng.
Những đợt nắng nóng gay gắt. Hàng loạt những kỷ lục về nhiệt độ bị
xô đổ, hạn hán, cháy rừng cùng những hệ lụy xấu chưa bao giờ xuất hiện
nhiều và liên tục đến như thế. Chính con người chứ không phải ai khác phải
hứng chịu tất cả những hậu quả này. Bắt đầu với những năm đầu thế kỷ 20:
Lần đầu tiên trên thế giới ghi nhận những trận hạn hán, nắng nóng ghê gớm


Số hóa bởi trung tâm học liệu

12
xảy ra tại các nước nhiệt đới châu Á, châu Phi. Năm 1900, ở Ấn Độ đã xảy ra
một trận nắng nóng gay gắt, không mưa và nhiệt độ tăng cao từ 40 - 45 độ C
trong suốt nhiều ngày liên tục. Điều này đã dẫn tới hạn hán lớn, số người thiệt
mạng dao động từ 250.000 tới gần 3,25 triệu người. Những năm tiếp theo là
kỷ nguyên công nghiệp phát triển của con người, điều này đồng nghĩa với tần
suất nắng nóng ngày một tăng lên. Tại Liên Xô, giai đoạn 1921-1922 đã có tới
5 triệu người chết khát vì không chịu nổi cái nóng và hạn hán kéo dài. Con số
này còn lớn hơn tổng số người đã chết trong Chiến tranh Thế giới I (1914-
1919). Khoảng 20 năm sau, thế giới tiếp tục ghi nhận kỷ lục khủng khiếp
được xác lập tại Trung Quốc: trong vòng 5 năm từ 1936 tới 1941, tại tỉnh Tứ
Xuyên (Trung Quốc) đã có tới 2 trận nắng nóng khủng khiếp dẫn tới hạn hán,
“kết liễu” sinh mạng của 2,5 triệu người. Đây cũng là tỉnh hiếm hoi ở Trung
Quốc mà quanh năm hầu như không có mưa. Đợt nắng nóng quét qua Châu
Âu hồi năm 2003 đã làm thiệt mạng khoảng 20 đến 30 ngàn người. Đó thật sự
là dấu hiệu đáng báo động của những thay đổi ngày càng tồi tệ của khí hậu.
Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang diễn ra thường xuyên hơn gấp
khoảng 4 lần so với trước đây, và dự đoán trong vòng 40 năm tới, mức độ

thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay.
Hậu quả của các đợt nóng này là nguy cơ cháy rừng, các bệnh tật do
nhiệt độ cao gây ra, và tất nhiên là đóng góp vào việc làm tăng nhiệt độ trung
bình của trái đất.[15]
Bão lụt. Trong vòng chỉ 30 năm qua, số lượng những cơn giông bão
Theo ước tính, chỉ riêng ở Mỹ, trong vòng 100 năm qua (từ 1905 đến 2005),
số lượng những cơn bão mạnh đã tăng không ngừng. Nếu từ 1905 - 1930 chỉ
có khoảng trung bình 3,5 cơn/năm thì con số này là 5,1 trong khoảng 1931-
1994, và lên đến 8,4 từ 1995-2005. Mức độ thiệt hại về sinh mạng và vật chất
do các cơn bão và các trận lụt lội gây ra cũng đang ở mức kỷ lục.
Các nhà khoa học tại Viện Công nghệ Georgia tại Atlanta (Georgia, Mỹ)
và Trung tâm nghiên cứu khí quyển quốc gia tại Boulder (Colorado, Mỹ) vừa
phân tích một loạt số liệu thống kê những trận bão nhiệt đới trên toàn cầu, kể
từ khi con người bắt đầu ghi lại được các dữ liệu vệ tinh về bão. Kết quả cho
thấy thời gian gần đây, có sự tăng trưởng số lượng cơn bão loại 4 và 5 (tức là


Số hóa bởi trung tâm học liệu

13
những cơn bão mạnh có thể gây lở đất) trên hệ thống đo Saffir - Simpson. Cụ
thể từ năm 1975 đến 1989, có 171 cơn bão lớn, nhưng từ năm 1990 đến 2004
tăng lên 269 cơn. Thiệt hại xảy ra nhiều nhất với những trận bão thuộc cấp 3
có sức gió từ 111 đến 130 dặm một giờ (1 dặm = 1,6km) và những trận bão có
sức gió cao hơn. Tổn thất kinh tế toàn cầu năm 2005 do bão gây ra vượt quá
200 tỷ USD. Trong khi đó, tổn thất vì bão năm 2004 chỉ ở mức 145 tỷ USD.
Nếu khí hậu tiếp tục nóng thì chúng ta sẽ có thêm nhiều trận bão nhiệt đới dữ
dội hơn.[15]
Hạn hán. Trong khi một số nơi trên thế giới chìm ngập trong lũ lụt triền
miên thì một số nơi khác lại hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài.

Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nền nông nghiệp của nhiều nước. Hậu quả là sản lượng và
nguồn cung cấp lương thực bị đe dọa, một lượng lớn dân số trên trái đất đang
và sẽ chịu cảnh đói khát.
Hiện tại, các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi đang hứng chịu
những đợt hạn hán, lượng mưa ở các khu vực này ngày càng thấp, và tình
trạng này còn tiếp tục kéo dài trong vài thập kỷ tới. Theo ước tính, đến năm
2020, sẽ có khoảng 75 triệu đến 250 triệu người dân châu Phi thiếu nguồn
nước sinh hoạt và canh tác, dẫn đến sản lượng nông nghiệp của lục địa này sẽ
giảm khoảng 50%.
Hạn hán cũng nghiêm trọng ở nhiều khu vực khác ở châu Á. Tại Trung
Quốc, nhiều khu vực, đặc biệt là các tỉnh ở phía Tây Nam, đang trải qua
những ngày khô hạn nghiêm trọng nhất thế kỷ qua. Ở Pakistan, nhất là tại
Southern Punjab, đất đai nứt nẻ và sông ngòi cạn trơ đáy. Thay đổi khí hậu
đang đe dọa nhiều khu vực ở vùng Trung Á rộng lớn. Những dòng sông băng
tan chảy do nhiệt độ trái đất tăng lên đã làm giảm nghiêm trọng nguồn nước,
dẫn đến tình trạng hạn hán không chỉ ở Tajikistan mà cả ở các nước hạ nguồn
Uzbekistan và Turkmenistan. Các nước này đang chuẩn bị tinh thần sớm phải
trải qua những vụ mùa thất thu, dự trữ lương thực giảm nghiêm trọng và nguy


Số hóa bởi trung tâm học liệu

14
cơ xảy ra nạn đói. Trong khi đó, Nga đã gọi đây là “mối quan ngại thực sự”
và lo ngại thay đổi khí hậu ở Trung Á đe dọa Nga từ phía Nam.[15]
- Các hệ sinh thái bị phá hủy
Nhiều nhà sinh vật học lo ngại rằng, trong thế kỷ này sẽ có hàng loạt
động vật và thực vật chết hay nói theo ngành chuyên môn, sẽ có một thảm
kịch làm mất trạng thái đa dạng sinh học. Nạn nhân đầu tiên là các loài thực

vật và động vật sống trên cac đỉnh núi như trên một hòn đảo nhỏ lạnh trong
một biển nóng, thoát chết qua chu kỳ nóng và đợi thời kỳ băng hà sắp đến.
Một thí dụ ở New Zealand nếu khí hậu nóng lên thêm 3
0
C thì 80% các “đảo
khí hậu” của vùng núi cao sẽ biến mất, một phần ba đến một nửa của 613 loài
cây vùng núi sẽ biến mất hẳn. [19]
Theo dự đoán năm 2004 của một nhóm chuyên gia quốc tế do Chris
Thomas đứng đầu, thì hàng loạt động vật và thực vật (loài có vú, chim, bò
sát…), có thể 15 đến 37% tất cả các sinh vật trên trái đất sẽ hoàn toàn biến
mất vào năm 2005, do biến đổi khí hậu. [30]
Tại nhiều hội nghị quốc tế, các công trình nghiên cứu ở địa phương về
ảnh hưởng do biến đổi khí hậu đén hệ thống sinh thái nhạy cảm đã đưa ra thảo
luận. Kết quả của các cuộc hội thảo là một kịch bản đầy nguy cơ. Chỉ cần
nhiệt độ khí hậu tăng lên 1
0
C thì hệ thống sinh thái nhạy cảm sẽ bị ảnh hưởng:
san hô, rừng nhiệt đới trên vùng cao ở Queensland, Úc và các vùng đất khô
trồng các giống cây thấp ở Nam Phi (đặc biệt là loài xương rồng Karoo). Nếu
nhiệt độ tăng lên từ 1 đến 2
0
C thì nó sẽ gây hại đến hệ sinh thái này, ngoài ra
còn gây hại thêm hệ sinh thái ở vùng Bắc cực và vùng núi Trung Đông sẽ xảy
ra nhiều vụ hỏa hoạn lớn và sẽ bị nhiều loài côn trùng tấn công. Một tai họa sẽ
xuất hiện và không thể đạo ngược lại, có thể làm cho rừng nhiệt đới Amazon
“chết cứng”. Nếu nhiệt độ tăng lên 3
0
C thì băng tuyết ở Bắc cực sẽ biến mất,
tai họa sẽ đến với các loại gấu tuyết và các loài khác. Vườn quốc gia ở Nam
Phi sẽ mất hai phần ba số động vật của mình. [15]

- Mất đa dạng sinh học


Số hóa bởi trung tâm học liệu

15
Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc
có nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với
nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến
6,4 độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị hoang hóa,
do nạn phá rừng và do nước biển ấm lên. Và dĩ nhiên con người cũng không
nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất hoang hóa và mực nước biển đang
dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng ta. Và khi cây cỏ và động vật
bị mất đi cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương thực, nhiên liệu và thu nhập
của chúng ta cũng mất đi.[15]
- Dịch bệnh
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe con người rất phức tạp và
cho đến nay chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Song song vói các hậu quả trực
tiếp về các hiện tượng thời tiết cực đoan thì hiện nay các nhà khoa học chỉ lưu
ý đến sự phát triển các căn bệnh do côn trùng mang như bệnh sốt Dengue và
bệnh sốt rét. Côn trùng là loài máu lạnh và dễ bị khí hậu ảnh hưởng hơn con
người. Sự biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển của chúng.
Điều này đã xảy ra cho một loại bọ chét ở Đức. Trong những năm qua, chúng
phát triển dữ dội gia tăng truyền bệnh Borreliose nguy hiểm hay bệnh
Meningoenzephalitis, điều mà theo nhiều nhà khoa học là do sự biến đổi khí
hậu gây ra. [28]
Nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt và hạn hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các con vật truyền nhiễm như muỗi, ve, chuột,… sinh sôi nảy nở, truyền
nhiễm bệnh gây nguy hại đến sức khỏe của nhiều bộ phận dân số trên thế giới.
Cho đến nay, công trình nghiên cứu đầy đủ nhất về hậu quả của sự biến

đổi khí hậu là do Tổ chức Y tế Thế giới thực hiện năm 2002 đưa ra báo cáo
rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới hơn bao
giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các loại
bệnh nhiệt đới. Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có liên


Số hóa bởi trung tâm học liệu

16
quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn
đề hô hấp và tiêu chảy, sốt rét. [29]
- Các tác hại đến kinh tế
Các thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra cũng ngày càng tăng
theo nhiệt độ trái đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều
tỉ đô la; ngoài ra, để khống chế dịch bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng
cần một số tiền khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng làm thâm hụt các
nền kinh tế. Trong đợt bão hồi năm 2005, bang Louisiana (Mỹ) bị thiệt hại
đến 135 tỉ đô la, và trong mấy tháng tiếp theo, thu nhập của toàn bang giảm
đến 15%.
Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân
phải chịu cảnh giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang; các chính phủ phải
đối mặt với việc lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng
kể, nhu cầu thực phẩm và nước sạch của người dân sau mỗi đợt bão lũ rất cấp
thiết, chi phí khổng lồ để dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng thẳng
về đường biên giới.[15]
- Nông nghiệp và an toàn lương thực
Tác dụng của sự biến đổi khí hậu đến năng suất trong nông nghiệp là do
tác động thay đổi của nhiệt độ, mưa, ảnh hưởng bổ sung của phân bón và sự
thích nghi của các loài cây trồng. Khí hậu nóng lên sẽ tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho những vùng hiện nay có khí hậu ôn hòa và lạnh (phần lớn là các nước

phát triển) như Canada. Trái lại những vùng cận nhiệt đới và những vùng hiện
nay đất đã bị khô (phần lớn là các nước nghèo) sẽ phải chịu thiệt thòi, nhất là
vì nóng gắt và thiếu nước. Đặc biệt là các nước tại bắc và nam châu Phi và
một số nước ở châu Á, theo các dự báo bi quan, năng suất của các loại ngũ
cốc và bắp sẽ giảm mạnh (20 đến 30% so với trường hợp không bị sự biến đổi
khí hậu ảnh hưởng). [23]
Điều này sẽ làm cho sự cách biệt giữa những nước công nghiệp và các
nước nông nghiệp căng thẳng hơn nữa, với kết quả là nạn đói ở các nước


Số hóa bởi trung tâm học liệu

17
nghèo sẽ gia tăng. Vì vậy sự biến đổi khí hậu do con người gây ra sẽ là một
gánh nặng về đạo đức: những người nghèo nhất là những người không gây ra
biến đổi khí hậu lại là người phải trả giá do biến đổi khí hậu bằng cuộc sống
của mình. Mùa hè đổ lửa năm 2003 ở Đức đã gây ra tình trạng giảm năng suất
trong nông nghiệp. Năng suất của năm 2003 giảm 12% so với năng suất trung
bình tính từ năm 1997 đến 2002.[15]
- Chiến tranh và xung đột
Do nhiệt độ trái đất nóng lên và biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu
đã dần làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc xung đột điển
hình do biến đổi khí hậu là ở Darfur. Xung đột ở đây nổ ra trong thời gian
một đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ có một lượng mưa nhỏ
giọt và thậm chí nhiều năm không có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng cao.
Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm
nước và mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh. [15]

1.2.2. Khái quát biến đổi khí hậu ở Việt Nam
1.2.2.1. Tình hình BĐKH ở Việt Nam

Cũng giống như bức tranh chung trên toàn cầu, ở Việt Nam, trong
khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,7
0
C, mực nước
biển trung bình năm đã cao hơn khoảng 20 cm. Hiện tượng El-Nino, La-Nina
ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. BĐKH thực sự đã làm cho các
thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt (Bộ TN&MT, 2003).
Nhiệt độ: Nhiệt độ tháng I (tháng đặc trưng của mùa đông), nhiệt độ
tháng VII ( tháng đặc trưng mùa hè) và nhiệt độ trung bình năm tăng trên
phạm vi cả nước trong 50 năm qua, nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn so với
mùa hè. Kết quả được thể hiện ở bảng 2.1 và hình 2.1. [2]



×