Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

chương trình chi tiết học phần địa lí kinh tế xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.37 KB, 101 trang )

CHƯƠNG TRÌNH CHI TIẾT HỌC PHẦN
1. Tân học phần: ĐỊA LÍ KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM 1, 2, 3
2. Số tín chỉ: 6 (3 học phần, mỗi học phần 2 tín chỉ)
3. Trình độ: cho sinh viên năm thứ 2, 3
4. Phân bổ thời gian: Mỗi học phần có 25 tiết lên lớp, 5 tiết (thực hành, thảo luận, kiểm tra).
5. Điều kiện tiên quyết:
Các học phần sinh viên phải học trước học phần này: Cơ sở địa lý kinh tế, ĐL tự nhiên VN. Các
học phần tiên quyết phải tích lũy trước khi học học phần này (phải đạt 5,5 điểm mới được học
học phần này):
6. Mục tiêu của học phần:
Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản, cập nhật có hệ thống về: Các nguồn lực phát
triển kinh tế đất nước; Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế Việt Nam và vùng kinh tế ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, sinh viên có thể vận dụng tốt trong việc nghiên cứu và giảng dạy địa lý kinh tế.
7. Mô tả vắn tắt nội dung: Chương trình bao gồm 6 chương, chia làm 3 học phần.
- Học phần 1: Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; Địa lý dân cư.
- Học phần 2: Tổ chức lãnh thổ nông-lâm-ngư; công nghiệp; các ngành dịch vụ.
- Học phần 3: Tổ chức lãnh thổ các vùng kinh tế; Phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng ở
Biển Đông và các đảo - quần đảo.
8. Nhiệm vụ của sinh viên:
Dự lớp đầy đủ các buổi học, không được vắng mặt quá 20% tổng số tiết cho mỗi học phần.
Nghiên cứu và thảo luận tại lớp các câu hỏi hoặc bài tập. Tham dự bài kiểm tra học phần vào
giữa học kỳ. Đọc tham khảo các tài liệu được giới thiệu.
9. Tài liệu học tập:
9.1. Tài liệu, giáo trình chính: Đề cương bài giảng do giảng viên biên soạn.
9.2. Tài liệu tham khảo:
1. Lê Thông (chủ biên), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Địa lý kinh tế xã hội Việt
Nam, Nxb ĐHSP Hà Nội, 2004.
2. Lê Thông (chủ biên), Nguyễn Minh Tuệ, Phạm Tế Xuyên, Nguyễn Thế Chinh, Địa lý
kinh tế Việt Nam, Nxb Thống kê, 1999.
3. Vũ Tự Lập, Địa lý tự nhiên Việt Nam, Nxb GD, 1999.
4. Trần Đình Gián (chủ biên), Địa lý Việt Nam, Nxb KHXH, 1990.


5. Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, Bộ KH & ĐT, 1997.
10. Tiêu chuẩn đánh giá sinh viên:
- Kiểm tra giữa kỳ 0,4
- Thi học phần 0,6
Cộng 1,0
11. Thang điểm: A, B, C, D
12. Nội dung chi tiết học phần (lí thuyết)
1
ĐỊA LÝ KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM 1 (các nguồn lực)
MỞ ĐẦU
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC
1. Công cuộc đổi mới - cuộc cải cách toàn diện về kinh tế - xã hội
- Bối cảnh. 30/04/1975: đất nước thống nhất, cả nước tập trung vào hàn gắn vết thương
chiến tranh, xây dựng đất nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Nước ta đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh.
Bối cảnh trong nước và quốc tế vào cuối những năm 70 đầu 80 của thế kỉ XX diễn biến phức
tạp Tất cả những điều này đã đưa nền kinh tế nước ta sau chiến tranh rơi vào tình trạng khủng
hoảng kéo dài, lạm phát luôn ở mức 3 con số
- Diễn biến. Công cuộc đổi mới được manh nha từ 1979, những đổi mới đầu tiên từ lĩnh
vực nông nghiệp với “khoán 100” và “khoán 10”, sau đó lan sang lĩnh vực công nghiệp và dịch
vụ. Đường lối Đổi mới được khẳng định từ Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI (1986), đưa nền kinh
tế nước ta phát triển theo 3 xu thế: Dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội; Phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần; Tăng cường giao lưu và hợp tác với các nước trên thế giới
- Những thành tựu của công cuộc Đổi mới. Tính đến năm 2006, công cuộc đổi mới đã
qua chặng đường 20 năm. Thành tựu đã đạt được:
+ Đã đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Lạm phát
được đẩy lùi chỉ còn ở mức 2 con số
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao: Cụ thể, vào thời kì từ 1975 – 1980 tốc độ tăng GDP chỉ
đạt (0,2%), năm 1988 (0,6%), năm 1995 (9,5%); Vào cuối 1997, mặc dù chịu ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực, nhưng năm 1999 tốc độ tăng GDP vẫn đạt 4,8%, năm

2005 tăng lên 8,4%. Nếu tính trong 10 nước ASEAN, giai đoạn 1987 – 2004 thì GDP của Việt
Nam là 6,9%, chỉ sau Xingapo (7,0%)
+ Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa: Cho tới đầu
thập kỉ 90 (TK 20), trong cơ cấu GDP thì nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao nhất, công nghiệp – xây
dựng chiếm tỉ trọng nhỏ; Đến 2005 tỉ trọng trong nông – lâm - ngư chỉ còn 21,0%, công nghiệp –
xây dựng tăng lên 41,0% và dịch vụ 38,0%
+ Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ cũng có chuyển biến rõ nét: Đã hình thành các vùng kinh
tế trọng điểm; phát triển các vùng chuyên canh qui mô lớn; các trung tâm công nghiệp và dịch vụ
lớn. Ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi và biên giới, hải đảo cũng được ưu tiên phát triển
+ Về xã hội: Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được những thành tựu to lớn, đời sống
vật chất – tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ nét
Bảng 1.1. Tỉ lệ nghèo của cả nước qua các cuộc điều tra mức sống dân cư từ 1993 - 2004 (%)
1993 1998 2002 2004
Tỉ lệ nghèo chung 58,1 37,4 28,9 19,5
Tỉ lệ nghèo lương thực 24,9 15,0 9,9 6,9
2
2. Nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực
- Bối cảnh. Toàn cầu hoá là một xu thế lớn, cho phép Việt Nam tranh thủ được các nguồn
lực từ bên ngoài (đặc biệt là nguồn vốn, công nghệ, thị trường); Mặt khác, cũng đưa nước ta vào
thế bị cạnh tranh quyết liệt bởi các nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực và thế giới
+ Việt Nam và Hoa Kì bình thường hoá quan hệ (1995)
+ 07-1995 là thành viên thứ 7 của khối Asean. Đây là một khối liên kết khu vực gồm 10
nước, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hợp tác ngày càng toàn diện giữa các nước trong khối và
với ngoài khu vực. Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào sự củng cố khối Asean.
+ Việt Nam trong lộ trình thực hiện cam kết của AFTA (khu vực mậu dịch tự do Asean)
+ Tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (AFEC), đẩy mạnh quan
hệ song và đa phương
+ Sau 11 năm đàm phán, Việt Nam đã trở thành thành viên 150 của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO)
- Những thành tựu trong công cuộc hội nhập.

+ Đã thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Vốn Hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA); Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI); Đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FPI), cùng với
nó là việc mở rộng thị trường chứng khoán, cải thiện môi trường đầu tư… Các nguồn vốn này có
tác động tích cực đến việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, hiện đại hoá đất nước.
+ Hợp tác kinh tế - khoa học – kĩ thuật, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, an ninh
khu vực… được đẩy mạnh
+ Ngoại thương được phát triển ở tầm cao mới: tổng giá trị xuất khẩu tăng nhanh, 1985
(3,0 tỉ USD), năm 2005 (69,4 tỉ USD), BQ chung (1986-2005) tăng 17,9%. Việt Nam trở thành
nước xuất khẩu lớn về các mặt hàng (dệt, may, thiết bị điện tử, tàu biển, gạo, cà phê, điều, hồ
tiêu, thuỷ sản các loại)
Bảng 1.2. GDP theo giá so sánh 1994, phân theo thành phần kinh tế (nghìn tỉ đồng)
1986 1989 1992 1995 1997 1999 2001 2003 2005
Tổng số 109,2 125,6 151,8 195,6 231,3 256,2 292,5 336,2 393,0
Nhà nước 46,6 52,1 59,2 78,4 95,6 103,5 119,8 138,2 159,8
Ngồi Nhà nước 62,6 71,7 84,7 104,0 116,7 126,2 141,0 160,4 185,7
Đầu tư nước ngoài 1,8 7,9 13,2 19,0 26,5 31,7 38,8 47,5
3. Một số định hướng
- Thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo
- Hoàn thiện và thực hiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
- Đẩy mạnh hội nhập kinh tế để tăng tiềm lực kinh tế quốc gia
- Có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ tài nguyên – môi trường và phát triển bền vững
- Đẩy mạnh phát phát triển giáo dục, y tế, phát triển nền văn hóa mới, chống các tệ nạn xã
hội, mặt trái của kinh tế thị trường
Chương 1.
3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN. ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ - Ý nghĩa của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ

a. Trên đất liền.
- Vị trí: Nước ta nằm ở rìa Đông của bán đảo Đông Dương; phía Bắc giáp với Trung
Quốc; phía Tây giáp với Lào và Cămpuchia; phía Đông là biển Đông thông với Thái Bình Dương
rộng lớn.
- Toạ độ địa lý trên đất liền: Điểm cực Bắc 23
0
23'B (xã Lũng Cơ, Đồng Văn, Hà Giang).
Điểm cực Nam 8
0
34'B (Xóm Mũi, xã Đất Mũi, Ngọc Hiển, Cà Mau). Điểm cực Tây 102
0
10'Đ
(dãy Khoan La San, xã Sìn Thầu, Mường Nhé, Điện Biên). Điểm cực Đông 109
0
24'Đ (trên bán
đảo Hòn Gốm thuộc xã Vạn Thạnh, Vạn Ninh - Khánh Hòa). Lãnh thổ nước ta hẹp ngang, trải
dài trên nhiều vĩ độ (15 vĩ độ).
- Diện tích tự nhiên 331.212,1 km
2
,

xếp thứ 56/200 quốc gia, (gấp 4 lần Bồ Đào Nha, gấp
1,5 lần nước Anh, gần bằng nước Nhật). So với khu vực Đông Nam Á, diện tích nước ta tương
đương với Malaixia, nhỏ hơn Inđônêxia, Mianma và Thái Lan.
- Nước ta có đường biên giới rất dài với các nước: Biên giới Việt-Trung dài > 1.400km,
phần lớn dựa theo nơi, sông tự nhiên và những hẻm núi hiểm trở. Tất cả đã cắm mốc, phân định
và đi vào lịch sử (hoàn thiện mốc biên giới 02/2009). Biên giới với CHDCND Lào > 2.067km,
phần lớn dọc theo đỉnh của các dãy núi, đã được cắm mốc biên giới (cùng các Văn bản, Nghị
định kèm theo). Dãy Trường Sơn (Phuluông-theo tiếng Lào), biên giới giữa 2 nước như là một
xương sống chung, được chia ra nhiều đoạn với những đèo thấp như Nabẹ (có QL8), Lao Bảo (có

QL9) cắt ngang,.v.v. Tất cả đều không gây trở ngại cho sự giao lưu giữa 2 nước, mà trái lại còn
mở ra những tuyến giao thông quan trọng nối liền thung lũng sông Mê Công ở phía trong với
biển Đông ở phía ngoài. Biên giới với Cămpuchia dài > 1.080km, phần lớn xuyên qua các vùng
đồi thoải, đổ từ cao sơn nguyên Tây Nguyên Việt Nam xuống miền Đông Cămpuchia, từ phía
Tây Nam thị xã Tây Ninh trở đi nó chạy qua vùng đồng bằng hạ lưu sông Mê Công.
b. Trên biển.
Việt Nam có vùng thềm lục địa rộng khoảng 1,0 triệu km
2
cùng hệ thống các đảo - quần
đảo. Các đảo ven bờ (cách bờ ~100 km) có 2.773 đảo, diện tích 1720 km
2
. Các đảo xa bờ gồm 2
quần đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng) và Trường Sa (Khánh Hòa). Vùng biển nước ta bao gồm vùng nội
thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa. Biên giới trên
biển còn chưa được xác định đầy đủ; Việt Nam có hai vùng nước lịch sử (vịnh Bắc Bộ và vịnh
Thái Lan) cần phải đàm phán với các nước chung biển (*) Tại vùng vịnh Bắc Bộ, năm 2001 Việt
Nam đàm phán với Trung Quốc thỏa thuận phân chia chủ quyền, mốc ranh giới lấy từ đảo Cồn
Cỏ cắt thẳng ra phía đảo Hải Nam, phần thuộc lãnh thổ Việt Nam có diện tích ~ 53%].
4
▪ Căn cứ vào Công ước Quốc tế về luật biển và Tuyên bố của Chính phủ nước
CHXHCNVN ngày 12/11/1982, có thể khẳng định một số điểm sau:
- Đường cơ sở (để xác định vùng nội thủy; lãnh hải; tiếp giáp lãnh hải). Được xác định
dựa trên cơ sở các điểm chuẩn của các mũi đất và các đảo ven bờ. Bên trong đường cơ sở là vùng
nội thủy, mặc dù ở trên biển nhưng vẫn được coi là lãnh thổ đất liền; Như vậy, diện tích lãnh thổ
nước ta (nếu tính từ đường cơ sở) rộng trên 560.000km
2
.
Bảng 1.3. Các điểm chuẩn để tính đường cơ sở bao gồm 10 đoạn thẳng nối từ điểm A
0
-A

11
Vị trí địa lý Vĩ độ (B) K.Độ (Đ)
0 Trên ranh giới TN của vùng nước lịch sử giữa VN-CPC. 9
0
15'0 103
0
27'0’’
A
1
Hòn Nhạn thuộc quần đảo Thổ Chu – Kiên Giang 9
0
15'0 103
0
27'0’’
A
2
Hòn Đá Lẻ ở Đông Nam Hòn Khoai – Minh Hải 8
0
22'8 104
0
52'4’’
A
3
Hòn Tài Lớn, Cơn Đảo – Bà Rịa – Vũng tàu 8
0
37'8 106
0
37'5’’
A
4

Hòn Bông Lang, Cơn Đảo 8
0
38'9 106
0
40'3’’
A
5
Hòn Bảy Cạnh, Cơn Đảo 8
0
39'7 106
0
42'1’’
A
6
Hòn Hải (nhóm đảo Phú Quí, Bình Thuận) 9
0
58'0 109
0
05'0’’
A
7
Hòn Đôi, Khánh Hòa 12
0
39'0 109
0
28'0’’
A
8
Mũi Đại Lãnh, Khánh Hòa 12
0

53'8 109
0
27'2’’
A
9
Hòn Ông Căn, Bình Định 13
0
54'0 109
0
12'0’’
A
10
Đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi. 15
0
23'1 109
0
09'0’’
A
11
Đảo Cồn Cỏ, Quảng Trị 17
0
10'0 107
0
20'0’’
(Riêng 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta chưa công bố đường cơ sở).
- Lãnh hải. Được xác định là 12 hải lý (1 hải lý = 1.858m) chạy song song cách đều
đường cơ sở về phía biển và đường phân định trên các vịnh với các nước hữu quan. Ranh giới
này được coi là biên giới quốc gia trên biển.
- Vùng tiếp giáp lãnh hải. Được tính 12 hải lý (tính từ mép ngoài đường lãnh hải). Vùng
này hợp với lãnh hải thành vùng biển rộng 24 hải lý. Việt Nam có quyền bảo vệ an ninh; kiểm

soát thuế quan; qui định về y tế, môi trường, di cư, nhập cư.
- Vùng đặc quyền kinh tế. Được xác định rộng 200 hải lý (tính từ mép ngoài đường cơ sở).
Việt Nam có quyền lợi hoàn toàn, riêng biệt về kinh tế như thăm dò, khai thác, bảo vệ, sử dụng
và quản lý tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; Quyền thiết lập các công trình đảo nhân tạo;
quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học, bảo vệ, chống ô nhiễm môi trường biển
- Vùng thềm lục địa. Bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự
nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải cho đến rìa ngoài của lục địa (nơi nào chưa
đến 200 hải lý được tính đến 200 hải lý). Việt Nam có quyền hoàn toàn về thăm dò, khai thác,
bảo vệ và quản lý tất cả các nguồn tài nguyên ở thềm lục địa.
c. Vùng trời. Là khoảng không gian (không giới hạn độ cao) trên đất liền, vùng nội thuỷ,
lãnh hải và các hải đảo thuộc chủ quyền hoàn toàn của Việt Nam.
5
1.1.2. Ý nghĩa của vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ Việt Nam
a. Đối với việc hình thành lãnh thổ tự nhiên. Vị trí địa lí đã qui định đặc điểm cơ bản
của thiên nhiên nước ta mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa:
Do nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến Bắc Bán Cầu nóng ẩm, ở giữa vùng gió mùa
châu Á (khu vực gió điển hình nhất trên thế giới) khí hậu nước ta có 2 mùa rõ rệt: mùa Đông bớt
nóng và khô và mùa Hạ nóng và mưa nhiều.
Do ở vị trí tiếp giáp với Biển Đông, đây là nguồn dự trữ rất dồi dào về nhiệt và ẩm, đồng
thời cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển, vì thế thảm thực vật ở nước ta quanh năm xanh tốt,
giàu sức sống khác hẳn với các nước có cùng vĩ độ (Tây Nam Á và châu Phi)
Do nằm ở vị trí tiếp giáp giữa lục địa và đại dương trên vành đai sinh khoáng châu Á –
Thái Bình Dương cùng các hoạt động mác ma ứng cho nên tài nguyên khoáng sản của Việt Nam
khá đa dạng.
Do nằm ở nơi giao thoa của các luồng thực-động vật thuộc các khu hệ Hymalaya,
Malaixia-Inđônêxia và Ấn Độ-Mianma, các luồng di cư này diễn ra chủ yếu vào thời kỳ Tân kiến
tạo làm cho khu hệ thực-động vật của nước ta càng thêm phong phú.
Do vị trí và hình dáng lãnh thổ cũng đã tạo nên sự phân hóa đa dạng của tự nhiên , hình
thành các vùng tự nhiên khác nhau, bổ sung cho nhau trong sự phát triển kinh tế - xã hội (giữa
M.Bắc -Nam; giữa miền núi-đồng bằng, ven biển, hải đảo)

● Hạn chế: Nước ta nằm trong vùng có nhiều thiên tai trên thế giới (bão, lũ lụt, hạn hán)
thường xuyên xảy ra, vì vậy cần phải có biện pháp phòng chống tích cực và chủ động.
b. Đối với phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội
- Việt Nam nằm ở ngã tư đường hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng cùng với các
cảng biển (Cái Lân, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn); Các sân bay quốc tế (Nội Bài, Tân Sơn Nhất,
Đà Nẵng); Các tuyến đường bộ, đường sắt Xuyên Á đã tạo điều kiện thuận lợi để trao đổi, giao
lưu với các nước xung quanh. Việt Nam còn là cửa ngõ thông ra biển của Lào, Thái Lan, Đông
Bắc CPC và khu vực Tây Nam Trung Quốc.
6
- Vị trí địa lí và hình dáng lãnh thổ nước ta đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành các
đặc điểm của tự nhiên; Từ đó ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương thức khai thác tài nguyên; Tới
sự tổ chức lãnh thổ kinh tế quốc dân (đặc biệt là việc tổ chức các trung tâm, hạt nhân phát triển
của vùng); Đồng thời cũng ảnh hưởng tới các mối liên hệ nội-ngoại vùng cũng như mối liên hệ
kinh tế quốc tế.
- Về văn hóa – xã hội, do ở vị trí liền kề cùng với nhiều nét tương đồng về tự nhiên, kinh
tế, văn hóa, lịch sử và mối giao lưu lâu đời với các nước trong khu vực đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc chung sống hòa bình, hợp tác hữu nghị và cùng phát triển với các nước (nhất là các nước
láng giềng). Hơn nữa, vị trí địa lí cũng ảnh hưởng lớn đến sự hình thành cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, một quốc gia đa dân tộc và có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu có chọn
lọc tinh hóa văn hóa thế giới.
c. Đối với an ninh - quốc phòng (AN - QP).
- Theo quan điểm địa lý chính trị và địa lý quân sự, nước ta có vị trí đặc biệt quan trọng ở
khu vực Đông Nam Á: Do nằm ở nơi tiếp giáp giữa Đông Nam Á (lục địa) và Đông Nam Á (hải
đảo), một khu vực giàu tài nguyên, một thị trường có sức mua đang tăng, một vùng kinh tế rất
năng động. Như vậy, đây là nơi rất hấp dẫn với các thế lực đế quốc thù địch, mặt khác đây cũng
là khu vực rất nhạy cảm trước những biến chuyển trong đời sống chính trị thế giới.
- Vấn đề an ninh – quốc phòng còn đặt ra trên đất liền Việt Nam có đường biên giới rất
dài với các nước láng giềng (4500km): Dọc biên biên giới với Trung Quốc và Lào nơi liền nơi,
sông liền sông, không có những trở ngại lớn về tự nhiên, (ngược lại) có các thung lũng, đèo thấp
thông với các nước láng giềng; Với Cămpuchia, không có biên giới tự nhiên, mà là châu thổ

mênh mông trải dài từ Cà Mau đến tận Biển Hồ (việc xác định mốc biên giới giữa hai nước còn
là vấn đề cần đàm phán để thống nhất).
- Vấn đề an ninh – quốc phòng còn đặt ra với đường biên giới trên biển: Bờ biển nước ta
dài (3260km), giáp với rất nhiều nước như Trung Quốc, Đài Loan, Inđônêxia, Malaixia, Philipin,
Brunây, Xingapo, Thái Lan, Cămpuchia. Biển Đông rất giàu tài nguyên tôm, cá, Thềm lục địa
rất giàu tài nguyên khoáng sản (dầu khí ), lại án ngữ đường biển quốc tế nối hai đại dương lớn
Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương. Vì vậy, biển Đông có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
nước ta về mặt chiến lược đối với kinh tế, an ninh – quốc phòng.
● Như vậy, nét khá độc đáo của vị trí địa lý nước ta là: Nằm ở nơi gặp gỡ, giao thoa của
nhiều hệ thống tự nhiên, của nhiều nền văn hoá lớn trên thế giới và các luồng di cư trong lịch sử;
Ở vị trí cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo. Cũng chính vì thế, đã làm
cho thiên nhiên nước ta trở nên đa dạng và phong phú mà nhiều nơi trên thế giới không có được;
Cũng tại khu vực này trong chiến tranh (nóng - lạnh) còn là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn lớn,
trong xây dựng lại là nơi hội tụ nhiều cơ hội phát triển.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển lãnh thổ Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển lãnh thổ nước ta có liên quan chặt chẽ với lịch sử hình
thành và phát triển Trái Đất, là một quá trình lâu dài và phức tạp. Có thế chia thành 3 giai đoạn:
7
1.2.1. Giai đoạn Tiền Cambri
- Theo các nghiên cứu mới nhất, Trái Đất được hình thành cách đây ~ 4,6 tỉ năm. Phần
lớn thời gian lịch sử Trái Đất thuộc 2 đại: Thái cổ (Ackêôzôi) kết thúc cách đây ~ 2,6 tỉ năm và
tiếp theo là Nguyên sinh (Prôtêrôzôi) kết thúc cách đây 540 triệu năm. Ở giai đoạn này, lớp vỏ
Trái Đất chưa định hình rõ ràng và có rất nhiều biến động. Những dấu vết của nó hiện nay lộ ra
trên mặt đất không còn nhiều mà phần lớn đã bị chìm ngập dưới các lớp đất (nên còn ít được
nghiên cứu). Giai đoạn sơ khai này của Trái Đất được gọi là giai đoạn Tiền Cambri.
Ở Việt Nam, giai đoạn tiền Cambri được xem là giai đoạn hình thành nền móng ban đầu
của lãnh thổ, với 3 đặc điểm chính sau:
▪ Là giai đoạn cổ nhất và kéo dài nhất trong lịch sử phát triển lãnh thổ VN. Các đá biến
chất cổ nhất đã phát hiện ở Kon Tum, Hoàng Liên Sơn có tuổi cách đây ~ 2,3 tỉ năm; Như vậy,
giai đoạn tiền Cambri diễn ra ở nước ta trong suốt thời gian hơn 2,0 tỉ năm, kết thúc cách đây 540

triệu năm
▪ Diễn ra trong một phạm vi hẹp trên phần lãnh thổ nước ta hiện nay. Giai đoạn này chủ
yếu diễn ra ở một số nơi, tập trung ở một số khu vực núi cao (Hoàng Liên Sơn và Trung Trung
Bộ)
▪ Các điều kiện cổ địa lí còn rất sơ khai và đơn điệu. Cùng với sự xuất hiện các thạch
quyển, lớp khí quyển ban đầu còn rất mỏng manh (chủ yếu là các chất khí amôniac, điôxit
cacbon, nitơ, hiđrô và về sau là ôxi). Khi nhiệt độ không khí hạ thấp dần, thuỷ quyển mới xuất
hiện với sự tích tụ của lớp nước trên bề mặt Trái Đất. Từ đó sự sống xuất hiện. Tuy vậy, các sinh
vật còn ở các dạng sơ khai, nguyên thuỷ (như tảo, động vật thân mềm)
1.2.2. Giai đoạn cổ kiến tạo.
Là giai đoạn tiếp nối của giai đoạn tiền Cambri. Đây là giai đoạn có tính chất quyết định
đến lịch sử phát triển của tự nhiên nước ta, với 3 đặc điểm chính sau:
▪ Diễn ra trong thời gian khá dài, tới 475 triệu năm. Giai đoạn Cổ kiến tạo bắt đầu từ kỉ
Cambri (cách đây 540 triệu năm), trải qua cả 2 đại Cổ sinh và Trung sinh, chấm dứt vào kỉ Krêta
(cách đây 65 triệu năm)
▪ Là giai đoạn có nhiều biến động mạnh mẽ nhất trong lịch sử phát triển tự nhiên nước
ta. Trong giai đoạn này, tại lãnh thổ nước ta có nhiều khu vực chìm ngập dưới biển trong các pha
trầm tích và được nâng lên trong các pha uốn nếp của các kì vận động tạo nơi Calêđôni và
Hecxini (thuộc đại Cổ sinh); các kì vận động tạo nơi Inđôxini và Kimêri (thuộc đại Trung sinh).
Đất đá giai đoạn này rất cổ, bao gồm các loại trầm tích (trầm tích biển và trầm tích lục địa),
macma và biến chất. Các trầm tích biển phân bố rộng khắp trên lãnh thổ, đặc biệt là đá vôi tuổi
Đêvon và Cacbon – Pecmi có nhiều ở miền Bắc. Tại một số vùng sụt lún trên đất liền được bồi
lấp bởi các trầm tích lục địa vào đại Trung sinh đã hình thành các mỏ than ở Quảng Ninh, Quảng
Nam, các đá cát kết, cuội kết màu đỏ sẫm ở khu vực Đông Bắc. Các hoạt động uốn nếp và nâng
lên diễn ra ở nhiều nơi. Trong đại Cổ sinh là các khối Thượng nguồn sông Chảy, khối nâng Việt
8
Bắc, địa khối Kon Tum. Trong đại Trung sinh là các dãy núi hướng tây bắc - đông nam ở Tây
Bắc và Bắc Trung Bộ; các dãy núi hướng vòng cung ở Đông Bắc và các khối núi cao ở Nam
Trung Bộ. Kèm theo các hoạt động uốn nếp tạo nơi, sụt võng là các đứt gãy, động đất với các loại
đá macma xâm nhập và mac ma phun trào như granit, riolit, anđêzit cùng các khoáng sản quớ

(đồng, sắt, thiếc, vàng, bạc, đá quớ…)
▪ Là giai đoạn lớp vỏ cảnh quan địa lí nhiệt đới ở nước ta đã rất phát triển. Các điều kiện
cổ địa lí của vùng nhiệt đới ẩm ở nước ta vào giai đoạn này đã được hình thành và phát triển dấu
vết để lại là các hoá đá san hô tuổi Cổ sinh, các hoá đá than tuổi Trung sinh cùng nhiều sinh vật
cổ khác.
Như vậy, có thể nói về cơ bản đại bộ phận lãnh thổ nước ta hiện nay đã được định hình
từ khi kết thúc giai đoạn Cổ kiến tạo
1.2.3. Giai đoạn Tân kiến tạo.
Giai đoạn Tân kiến tạo là giai đoạn cuối cùng trong lịch sử hình thành và phát triển của
tự nhiên nước ta, còn kéo dài cho đến ngày nay. Giai đoạn này ở nước ta có những đặc điểm
sau:
▪ Là giai đoạn diễn ra ngắn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của tự nhiên VN.
Giai đoạn này chỉ mới bắt đầu từ cách đây 65 triệu năm và đang tiếp diễn đến ngày nay
▪ Chịu sự tác động mạnh mẽ của kì vận động tạo nơi Anpơ - Himalaya và những biến đổi
khí hậu có qui mô toàn cầu.Sau khi kết thúc giai đoạn Cổ kiến tạo, lãnh thổ nước ta trải qua một
thời kì tương đối ổn định và tiếp tục được hoàn thiện dưới chế độ lục địa, chủ yếu chịu sự tác
động của các quá trình ngoại lực. Vận động tạo nơi Anpơ - Himalaya có tác động đến lãnh thổ
nước ta bắt đầu từ kỉ Nêôgen (cách đây ~ 23 triệu năm) cho đến ngày nay. Do chịu tác động của
vận động tạo nơi Anpơ-Himalaya, trên lãnh thổ nước ta đã xảy ra các hoạt động như nâng cao và
hạ thấp địa hình, bồi lấp các bồn trũng lục địa kèm theo các đứt gãy và phun trào macma. Cũng
vào giai đoạn này (đặc biệt là trong kỉ Đệ tứ), khí hậu Trái Đất có những biến đổi lớn với những
thời kì băng hà, gây nên tình trạng dao động lớn của nước biển. Đã có lần biển tiến và biển lùi
trên phần lãnh thổ của nước ta mà dấu vết để lại là các thềm biển, cồn cát, các ngấn nước trên các
vách đá ở vùng ven biển và các đảo ven bờ…
▪ Là giai đoạn tiếp tục hoàn thiện các điều kiện tự nhiên làm cho đất nước ta có diện mạo
và đặc điểm tự nhiên như hiện nay. Ảnh hưởng của hoạt động Tân kiến tạo ở nước ta đã làm cho
các hoạt động xâm thực, bồi tụ được đẩy mạnh, hệ thống sông suối bồi đắp nên những đồng bằng
châu thổ rộng lớn (Bắc Bộ và Nam Bộ), các khoáng sản có nguồn gốc ngoại sinh được hình thành
(dầu mỏ, khí tự nhiên, than nâu, bôxit, ). Các điều kiện thiên nhiên nhiệt đới ẩm đã thể hiện rõ
nét trong các quá trình tự nhiên như quá trình phong hóa và hình thành đất, trong nguồn nhiệt ẩm

dồi dào của khí hậu, lượng nước phong phú của mạng lưới sông ngòi và nước ngầm, sự phong
phú và đa dạng của thổ nhưỡng và giới sinh vật đã tạo nên diện mạo và sắc thái của thiên nhiên
nước ta ngày nay.
9
Bảng 1.4. Bảng Niên biểu địa chất
Đại (Giới) Kỉ (Hệ) Thế (Thống) Kí hiệu
Thời gian
cách đây
(triệu năm)
Thời gian
diễn ra
(triệu năm)
Tân sinh
(Kainôzôi KZ)
Đệ tứ
(Q)
- Hôlôxen
- Plêitôxen muộn (trên)
- Plêixtôxen (giữa)
- Plêixtôxen (dưới)
Q
4
Q
3
Q
2
Q
1
1,7
Nêôgen

(N)
- Pliôxen
- Miôxen
N
2
N
1
23,5 21,8
Palêôgen
(Pg)
- Ôligôxen
- Êôxen
- Palêôxen
Pg
3
Pg2
Pg
1
65,0 41,5
Trung sinh
(Mêzôzôi MZ)
Krêta
(K)
- Krêta muộn (trên)
- Krêta sớm (dưới)
K
2
K
1
135 70

Jura
(J)
- Jura muộn (trên)
- Jura giữa
- Jura sớm (dưới)
J
3
J
2
J
1
203 68
Triat
(T)
- Triat muộn (trên)
- Triat giữa
- Triat sớm (dưới)
T
3
T
2
T
1
250 47
Cổ sinh
(Palêôzôi PZ)
Pecmi
(P)
- Pecmi muộn (trên)
- Pecmi sớm (dưới)

P
2
P
1
295 45
Cacbon
(C)
- Cacbon muộn (trên)
- Cacbon giữa
- Cacbon sớm (dưới)
C
3
C
2
C
1
355 60
Đêvon
(D)
- Đêvon muộn (trên)
- Đêvon giữa
- Đêvon sớm (dưới)
D
3
D
2
D
1
410 55
Silua

(S)
- Silua muộn (trên)
- Silua sớm (dưới)
S
2
S
1
435 25
Ocđôvic
(O)
- Ocđôvic muộn (trên)
- Ocđôvic giữa
- Ocđôvic sớm (dưới)
O
3
O
2
O
1
500 65
Cambri
( )
- Cambri muộn (trên)
- Cambri giữa
- Cambri sớm (trên)
3
2
1
540 40
Nguyên sinh

(Prôtêrôzôi PR)
Khoảng 2600 Khoảng 2060
Thái cổ
(Ackêôzôi AR)
Khoảng 3600 1000
● Bảng Niên biểu địa chất:
Khi nghiên cứu địa chất hoặc lịch sử phát triển lãnh thổ tự nhiên của một quốc gia, khu
vực trên thế giới rất cần thiết phải có sự thống nhất về quan niệm và thước đo thời gian. Bảng
10
Niên biểu địa chất là bảng xác định các đơn vị thời gian và đơn vị địa tầng trong lịch sử phát
triển của Trái Đất, được các nhà địa chất thế giới thừa nhận và thống nhất sử dụng
Bảng Niên biểu địa chất gồm các cột dọc trình bày các đơn vị thời gian (Đại, Kỉ, Thế),
các đơn vị địa tầng (Giới, Hệ, Thống), thời gian các đơn vị ấy xảy ra cách đây và số thời gian
thực tế đã diễn ra. Các hàng ngang trình bày các thời kì cụ thể của các Đại (thời gian) ứng với
các Giới (địa tầng), các Kỉ ứng với các Hệ, các Thế ứng với các Thống với các tên gọi cụ thể
Đa số các Kỉ (Hệ) mang tên địa phương, nơi mà lần đầu tiên trầm tích được phát hiện và
mô tả. Tên các Kỉ (Hệ) thuộc đại Tân sinh phản ánh sự tiến hoá của thế giới hữu cơ, trong đó có
thống Môlôxen với sự xuất hiện của loài người. Riêng trong đại Tân sinh, hai kỉ Palêôgen và
Nêôgen có tên chung là kỉ Đệ tam

1.3. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
1.3.1. Đặc điểm chung
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là tiền đề vật chất quan trọng để phát triển
kinh tế - xã hội; là điều kiện thường xuyên, cần thiết trong quá trình sản xuất; là một trong những
nhân tố tạo vùng quan trọng. Việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sẽ đảm bảo cho phát triển
hôm nay và cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Việc đánh giá thực trạng về tài nguyên
thiên nhiên nước ta còn là một vấn đề mà cho đến nay chúng ta cũng chưa thể khẳng định được
cụ thể.
Có thể phân chia tài nguyên thiên nhiên dựa vào đặc điểm, tính chất tự nhiên và mục đích
sử dụng (theo sơ đồ). Việc phân loại như trên là nhằm khai thác, sử dụng các tài nguyên thiên

nhiên một cách hợp lý, có tính đến việc bảo vệ, khôi phục tài nguyên thiên nhiên.
Các dạng tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên có
thể bị hao kiệt
Tài nguyên thiên nhiên
không bị hao kiệt
Tài nguyên thiên nhiên
không khôi phục được
Tài nguyên thiên nhiên
khôi phục được
(Các đường đứt gãy trong hình biểu diễn đặc điểm biện chứng trong quá trình sử dụng tài
nguyên; một số nguyên tố có thể chuyển từ nhóm này sang nhóm khác)
1.3.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên với sự phát triển kinh tế - xã hội
a. Địa hình
● Đặc điểm chung:
11
Địa hình đồi núi chiếm 3/4 diện tích đất đai, làm cho thiên nhiên VN có đặc điểm chung
là thiên nhiên của đất nước nhiều đồi núi. Đồi núi thấp chiếm ưu thế với > 60% diện tích cả nước,
núi cao > 2000m chỉ chiếm 1,0%. Đồng bằng chiếm 1/4 diện tích, tạo thành một dải hẹp ở Trung
Bộ và mở rộng ở Bắc Bộ và Nam Bộ.
Hướng tây bắc-đông nam là hướng nghiêng chung của địa hình, đồng thời là hướng chính
của các dãy núi vùng Tây Bắc, Bắc Trường Sơn và các hệ thống sông lớn. Hướng vòng cung là
hướng của các dãy núi, các sông ở vùng Đông Bắc và hướng của địa hình Nam Trường Sơn
● Tính đa dạng của địa hình.
* Khu vực đồi núi. Địa hình nơi chia thành 4 vùng:
- Vùng núi Đông Bắc: nằm ở tả ngạn sông Hồng với 4 cánh cung lớn, đầu chụm ở Tam
Đảo và mở ra về phía bắc và phía đông (cánh cung sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều),
nơi thấp chiếm phần lớn diện tích. Theo hướng các dãy núi là hướng vòng cung của các dòng
chảy sông Cầu, Thương, Lục Nam (thuộc hệ thống sông Thái Bình). Địa hình vùng Đông Bắc

cũng có hướng nghiêng chung là tây bắc-đông nam. Những đỉnh núi cao trên 2000m nằm ở
thượng nguồn sông Chảy. Giáp biên giới Việt-Trung (Hà Giang, Cao Bằng) là các khối núi đá vôi
độ cao trên 1000m. Trung tâm là vùng đồi núi thấp 500-600m.
- Vùng núi Tây Bắc: nằm giữa sông Hông và sông Cả, có địa hình cao nhất nước ta với 3
dãy núi lớn hướng tây bắc-đông nam. Phía đông là dãy Hoàng Liên Sơn: giới hạn từ biên giới
Việt-Trung (thuộc tỉnh Lào Cai) tới khủyu sông Đà, có đỉnh phanxipăng (3143m) cao nhất nước
ta; phía tây là địa hình trung bình của dãy sông Mã chạy dọc biên giới Việt-Lào từ Khoan La San
đến sông Cả; ở giữa thấp hơn là các dãy núi xen kẽ các cao - sơn nguyên đá vôi từ Phong Thổ
(Lai Châu) đến Mộc Châu (Sơn La), tiếp nối là những đồi núi đá vôi ở Ninh Bình - Thanh Hóa.
Kẹp giữa các dãy núi là các thung lũng sông cùng hướng (sông Đà, sông Mã, sông Chu)
- Vùng núi Trường Sơn Bắc (thuộc Bắc Trung Bộ) giới hạn từ phía nam sông Cả tới dãy
Bạch Mã, gồm các dãy núi song song và so le theo hướng tây bắc-đông nam. Địa hình Bắc
Trường Sơn thấp và hẹp ngang, chỉ nâng cao ở 2 đầu: phía bắc là vùng núi Tây Nghệ An và phía
nam là vùng núi Tây Thừa Thiên-Huế, mạch núi cuối cùng là dãy Bạch Mã - ranh giới với vùng
núi Nam Trường Sơn và cũng là bức chắn ngăn cản các khối khí lạnh tràn xuống phương Nam
- Vùng Nam Trường Sơn: gồm các khối nơi và cao nguyên. Khối nơi Kon Tum và khối
nơi cực Nam trung bộ được nâng cao, đồ sộ. Có những đỉnh cao > 2000m nghiêng dần về phía
đông, tạo nên thế chênh vênh của đường bờ biển có sườn dốc và dải đồng bằng nhỏ hẹp ở ven
biển. Tương phản với địa hình vùng núi phía đông là các bề mặt cao nguyên khá bằng phẳng, làm
thành các bề mặt cao nguyên 500 - 800 - 1000m tạo nên sự bất đối xứng rõ nét giưa 2 sườn Đông
- Tây của địa hình Nam Trường Sơn
* Địa hình bán bình nguyên và đồi trung du: Nằm chuyển tiếp giữa miền núi - đồng
bằng là các bề mặt bán bình nguyên hoặc các đồi trung du. Bán bình nguyên thể hiện rõ ở Đông
Nam Bộ với bậc thềm phù sa cổ ở độ cao ~ 100m và bề mặt phủ ba dan ở độ cao ~ 200m. Địa
12
hình đồi trung du phần nhiều là do tác động của dòng chảy chia cắt các thềm phù sa cổ, đồi trung
du rộng lớn nhất ở rìa Đồng bằng sông Hồng và thu hẹp ở rìa đồng bằng ven biển miền Trung
*Khu vực đồng bằng
- Hai đồng bằng châu thổ lớn: Đồng bằng sông Cửu Long rộng trên 40.000 km
2

, Đồng
bằng sông Hồng 15.000 km
2
. Hai đồng bằng này hình thành trên các vùng sụt lún ở hạ lưu sông,
có bờ biển phẳng, vịnh biển nông, thêm lục địa rộng. Đồng bằng sông Cửu Long thấp, phẳng,
không có đê, mạng lưới kênh rạch chằng chịt, mùa lũ nước ngập sâu ở các vùng trũng, mùa khô
nước triều lấn mạnh làm cho 2/3 diện tích đồng bằng bị nhiễm mặn. Đồng bằng sông Hồng cao
và chia cắt hơn, do có hệ thống đê ven sông ngăn lũ nên vùng trong đê không được bồi đắp phù
sa hàng năm, tạo thành các bậc ruộng cao bạc màu và các ô trũng ngập nước, vùng ngoài đê
thường xuyên được phù sa bồi đắp. Do địa hình khá bằng phẳng, đất phù sa màu mỡ, hai đồng
bằng này đã trở thành vùng trọng điểm lương thực – thực phẩm lớn của cả nước. Ngoài ra, ở ven
biển có các bãi triều, vũng vịnh, đầm phá có tiềm năng lớn cho nuôi trồng thủy sản.
- Các đồng bằng ven biển miền Trung, diện tích ~ 15.000 km
2
, hẹp ngang và bị chia cắt
thành nhiều đồng bằng nhỏ. Chỉ có một vài đồng bằng được mở rộng ở cửa sông lớn như đồng
bằng Thanh Hóa (cửa sông Mã), Nghệ An (cửa sông Cả), Quảng Nam (cửa sông Thu Bồn) và
Phú Yên (cửa sông Ba). Ở nhiều đồng bằng có sự phân chia thành 3 dải (giáp biển là cồn cát,
đầm phá; giữa là vùng thấp trũng; trong cùng đã được bồi tụ thành đồng bằng). Trong sự hình
thành đồng bằng, thì biển đóng vai trị chủ yếu. Đất có đặc tính là nghèo, ít phù sa. Các nhánh nơi
lan ra sát biển khiến cho nhiều đoạn địa hình bờ biển khúc khủyu, lắm mũi đất, nhiều đèo.
● Ảnh hưởng của địa hình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
* Ở vùng núi: Khoáng sản: khu vực đồi núi tập trung nhiều loại khoáng sản có nguồn gốc
nội sinh (đồng, chì, thiếc, sắt, pyrit, niken, crôm, vàng, vonfram, antimoan ) và các khoáng sản
ngoại sinh (bôxit, apatit, đá vôi, than đá); đó là nguyên liệu, nhiên liệu cho nhiều ngành công
nghiệp. Rừng và đất trồng: tạo cơ sở cho phát triển nông - lâm nhiệt đới; Rừng giàu có về thành
phần loài động - thực vật (trong đó có nhiều loài quớ hiếm tiêu biểu cho sinh vật rừng nhiệt đới).
Miền núi còn có các cao nguyên và thung lũng tạo thuận lợi cho việc hình thành các vùng
chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi gia súc. Ở các vùng núi cao có
thể nuôi - trồng được các loài động - thực vật cận nhiệt và ôn đới. Địa hình bán bình nguyên và

đồi trung du thích hợp để trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và cả cây lương thực. Nguồn thủy
năng: các sông lớn có tiềm năng thủy điện lớn. Tiềm năng du lịch: miền núi có nhiều điều kiện
phát triển nhiều loại hình du lịch (tham quan, nghỉ dưỡng ) nhất là du lịch sinh thái
* Ở vùng đồng bằng: Là cơ sở để phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới, đa dạng các loại
nông sản; Cung cấp các nguồn lợi thiên nhiên khác nhau (khoáng sản, thủy sản và lâm sản). Là
điều kiện thuận lợi để tập trung các thành phố, các khu công nghiệp, các trung tâm thương mại.
* Khai thác những thế mạnh: Vùng núi, phương thức canh tác thích hợp nhất là nông-lâm
kết hợp (canh tác trên đất dốc). Tiềm năng chính ở đây là lâm sản, cây công nghiệp , cây ăn quả,
chăn nuôi gia súc lớn, khai thác khoáng sản và thủy điện. Riêng với công nghiệp, có khả năng
13
phát triển các ngành công nghiệp "thượng du" (khai thác trực tiếp từ các nguồn tài nguyên thiên
nhiên). Vùng trung du, với vị trí địa lý đặc biệt (địa hình là những vùng đồi, địa chất công trình lý
tưởng), có khả năng lớn để phát triển cây công nghiệp; công nghiệp cơ bản (năng lượng và công
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng). Vùng đồng bằng, nơi hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi; là nơi
tập trung các ngành công nghiệp "hạ du" (các ngành chế biến, sản xuất các thành phẩm cuối
cùng). Nông nghiệp ở đây là thâm canh cây lương thực - thực phẩm; chăn nuôi gia súc nhỏ, gia
cầm; thủy sản và các ngành dịch vụ.
● Những mặt hạn chế
- Vùng đồi núi: Chủ yếu là đồi núi thấp nhưng địa hình bị chia cắt mạnh, tạo nên nhiều
sông suối, hẻm vực, sườn dốc gây trở ngại cho giao thông vận tải, cho việc khai thác tài nguyên
và giao lưu giữa các vùng. Do mưa nhiều, sườn dốc mạnh, miền núi còn là nơi xảy ra nhiều thiên
tai như lũ nguồn, lũ quét, xói mòn, trượt lở đất; Tại các đứt gãy sâu có nguy cơ phát sinh động
đất; Nơi khô nóng thường xảy ra nạn cháy rừng; Miền núi đá vôi và vùng đất đỏ ba dan thường
thiếu nước trong mùa khô; Vùng núi cao địa hình hiểm trở cuộc sống của người dân càng gặp
nhiều khó khăn. Do vậy, việc khai thác và sử dụng hợp lý miền đồi núi không chỉ giúp cho sự
phát triển kinh tế - xã hội ở các miền này, mà còn có ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường sinh thái
chung của cả nước.
- Vùng đồng bằng: có mối quan hệ chặt chẽ với địa hình miền núi. Các sông lớn mang vật
liệu phù sa từ miền đồi núi bồi đắp mở rộng các đồng bằng châu thổ. Nhưng do tài nguyên rừng
đang bị khai thác quá mức, diện tích đất trống đồi núi trọc tăng lên kèm theo với nó là cường độ

xói mòn đất vào mùa mưa diễn ra ngày càng mạnh đã gây hậu quả rất lớn, làm giảm tuổi thọ các
công trình thủy điện, thủy lợi, phù sa lắng đọng ở các vùng cửa sông ven biển cản trở cho giao
thông vận tải đường thủy. Thiên tai (bão, lụt, hạn hán) thường xuyên xảy ra gây thiệt hại lớn về
người và tài sản
b. Biển Đông
● Khái quát về Biển Đông. Biển Đông là vùng biển rộng, nguồn nước dồi dào, tương đối
kín, có đặc tính nóng-ẩm và chịu ảnh hưởng của gió mùa. Tính chất nhiệt đới của Biển Đông
được thể hiện rõ qua các yếu tố như nhiệt độ, độ muối, súng, thủy triều và hải lưu (Nhiệt độ TB
cao > 23
0
C và biến động theo mùa, rõ nhất ở vùng ven biển phía Bắc; Độ muối trung bình ~ 30 -
33
0
/
00
tăng giảm theo mùa khô và mùa mưa; Sóng biển mạnh vào thời kì gió mùa Đông Bắc và
ảnh hưởng mạnh nhất ở vùng bờ biển Trung Bộ; Thủy triều: cũng biến động theo 2 mùa lũ - cạn,
cao nhất và lấn sâu nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng). Hình dạng khép
kín của Biển Đông tạo nên tính khép kín của dòng hải lưu với hướng chịu ảnh hưởng của gió mùa
(tại vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan cũng hình thành dòng hải lưu theo những vòng tròn nhỏ hơn).
Biển Đông giàu tài nguyên khoáng sản, hải sản, có tiềm năng lớn về du lịch – dịch vụ cảng
● Ảnh hưởng của Biển Đông đến thiên nhiên và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
- Khí hậu: Biển Đông cùng với các khối khí di chuyển qua biển đã mang lại cho nước ta
một lượng mưa lớn, làm giảm tính chất khắc nghiệt của thời tiết lạnh khô trong mùa đông và dịu
14
bớt thời tiết nóng bức trong mùa hạ. Các luồng gió hướng đông nam từ biển thổi vào luồn sâu
theo các thung lũng làm giảm độ lục địa của các vùng ở phía tây đất nước. Nhờ có Biển Đông,
khí hậu nước ta mang nhiều đặc tính của miền khí hậu hải dương, điều hòa hơn.
- Địa hình và các hệ sinh thái ven biển: Các dạng địa hình ven biển nước ta rất đa dạng
(địa hình vịnh cửa sông, các bờ biển mài mòn, các tam giác châu với bãi triều rộng lớn, các bãi

cát phẳng, các vịnh nước sâu, các đảo ven bờ, các rạn san hô ) có giá trị về kinh tế như xây
dựng các hải cảng - vận tải biển, khai thác - nuôi trồng thủy sản, du lịch biển - đảo Các hệ sinh
thái ven biển đa dạng và giàu có: hệ sinh thái rừng ngập mặn lên tới 450.000 ha (Nam Bộ
300.000 ha), chỉ đứng sau rừng ngập mặn Amadôn (Nam Mĩ). Hệ sinh thái rừng ngập mặn cho
năng suất sinh học cao (nhất là sinh vật nước lợ), nhưng hiện nay rừng đã bị thu hẹp nhiều do
chuyển đổi thành diện tích nuôi tôm, cá và cháy rừng Các hệ sinh thái trên đất phèn, đất mặn
và hệ sinh thái rừng trên đảo cũng đa dạng và phong phú.
- Tài nguyên thiên nhiên vùng biển: Khoáng sản có trữ lượng lớn nhất là dầu khí (trên các
bể trầm tích). Các bãi cát ven biển có titan. Vùng ven biển thuận lợi cho nghề làm muối (nhất là
Nam Trung Bộ). Hải sản: sinh vật Biển Đông tiêu biểu cho hệ sinh vật vùng biển nhiệt đới giàu
thành phần loài và có năng suất sinh học cao, nhất là ven bờ. Cá > 2000 loài, tụm > 100 loài, vài
chục loài mực, hàng nghìn loài sinh vật phù du và sinh vật đáy. Ven các đảo (nhất là quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa) có nguồn nguyên liệu quớ là các rạn san hô cùng các loài sinh vật khác.
Với nguồn tài nguyên thiên nhiên và những điều kiện tự nhiên thuận lợi, Biển Đông thực sự
đóng góp vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
- Thiên tai: Bão, mỗi năm trung bình có 3 - 4 cơn bão qua Biển Đông trực tiếp đổ bộ vào
nước ta. Bão lớn kèm theo với sóng lừng, nước dâng cao gây nên lũ lụt là loại thiên tai bất
thường, khó phòng tránh, thường xuyên xảy ra gây thiệt hại lớn về người và tài sản (nhất là với
dân cư ven biển). Sạt lở bờ biển: hiện tượng này đang đe dọa nhiều đoạn bờ biển nước ta (Trung
Bộ). Nạn cát bay, cát lấn chiếm ruộng vườn, làng mạc và làm hoang hóa đất đai (miền Trung).
Như vậy, sử dụng hợp lí nguồn lợi thiên nhiên biển, phòng tránh ô nhiễm môi trường
biển, thực hiện các biện pháp phòng tránh thiên tai là những vấn đề hệ trọng trong chiến lược
khai thác tổng hợp, phát triển kinh tế biển của nước ta.
c. Khí hậu. Đặc điểm chung của khí hậu nước ta là nhiệt đới - ẩm - gió mùa và có sự
phân hoá phức tạp cả về thời gian và không gian.
● Tính chất nhiệt đới - ẩm - gió mùa
- Tính chất nhiệt đới của khí hậu được qui định bởi vị trí nước ta nằm trong vùng nội chí
tuyến Bắc Bán Cầu. Hàng năm nhận được lượng bức xạ mặt trời lớn do Mặt Trời luôn đứng cao
trên đường chân trời và ở nơi trong năm đều có 2 lần Mặt Trời qua thiên đỉnh. Tổng lượng bức xạ
nhiệt cao (120 - 140 kcal/cm

2
/năm). Cán cân bức xạ trên 75 kcalo/cm
2
/năm. Nhiệt độ trung bình
năm dao động từ 22 - 27
0
C (tiêu chuẩn của vùng nhiệt đới 21
0
C). Tổng nhiệt độ hoạt động năm
8.000 - 10.000
0
C. Tổng số giờ nắng trên 1.400 giờ/năm.
- Tính chất ẩm thể hiện ở lượng mưa trung bình/năm 1.500 - 2.000mm (sườn đón gió của
nhiều dãy núi lượng mưa lên tới 3.500 - 4.000mm). Độ ẩm không khí luôn luôn ở mức 80% -
100% (trừ một vài vùng khô hạn như Ninh - Bình Thuận lượng mưa thấp ~ 700 - 800mm).
15
- Tính chất gió mùa: do nằm trong vùng nội chí tuyến BBC nên ở nước ta Tín phong nửa
cầu Bắc có thể thổi quanh năm. Tuy nhiên, khí hậu nước ta chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các
khối khí hoạt động theo mùa với 2 mùa gió chính: gió mùa mùa đông và gió mùa mùa hạ. Gió
mùa đã lấn át Tín phong, vì vậy Tín phong chỉ hoạt động mạnh vào các thời kì chuyển tiếp giữa 2
mùa gió.
+ Gió mùa mùa Đông: Từ 16
0
B trở ra Bắc: Khối không khí cực đới (NPc) thống trị từ
tháng X - IV, phạm vi ảnh hưởng của nó vào đến vĩ độ 16
0
B (Bạch Mã). Nửa đầu mùa Đông
(lạnh - khô). Nửa sau mùa đông (lạnh-ẩm). NPc thổi vào nước ta không liên tục mà chỉ từng đợt,
ảnh hưởng mạnh ở miền Bắc và hình thành ở đây có một mùa đông lạnh (2 - 3 tháng). Khi di
chuyển về P.Nam, khối không khí này bị biến tính và suy yếu dần và dường như kết thúc bởi bức

chắn dãy Bạch Mã. Từ vĩ độ 16
0
B trở vào Nam: tín phong TBD Bắc Bán Cầu (Tm) cũng thổi theo
hướng Đông Bắc trở nên chiếm ưu thế làm hình thành "gió mùa mùa Đông" ở miền không có
mùa đông này, thời tiết thường mát và ẩm.
+ Gió mùa mùa Hạ. Trong mùa này các luồng gió thổi vào lãnh thổ nước ta lại rất phức
tạp, đặc biệt là sự chanh chấp trong thời gian chuyển mùa làm cho thời tiết rất thất thường. Có 2
luồng gió cùng hướng tây nam thổi vào: Nửa đầu mùa Hạ, dũng khí từ vịnh Bengan (TBg) thổi
vào nước ta theo hướng tây nam, mang nhiều hơi nước gây mưa lớn cho Tây Nguyên và đồng
bằng Nam Bộ, sau đó vượt qua dãy Trường Sơn, khối khí trở nên khô nóng tràn xuống vùng đồng
bằng ven biển miền Trung và phần phía nam của khu vực Tây Bắc; đôi khi áp thấp Bắc Bộ sụt
sâu tạo nên sức hút mạnh làm xuất hiện gió Tây tại đồng bằng Bắc Bộ, thời kỳ này nhiệt độ lên
tới 37
0
C, độ ẩm xuống < 50%. Nửa giữa và cuối mùa Hạ, gió mùa Tây Nam (Em) xuất phát từ áp
cao cận chí tuyến nửa cầu Nam hoạt động, hình thành gió mùa mùa Hạ chính thức ở Việt Nam.
Khi vượt qua vùng biển Xích Đạo khối không khí này đổi hướng tây nam vào lãnh thổ nước ta lại
theo hướng các hướng khác nhau: hướng tây nam (Tây Nguyên và đồng bằng NBộ), hướng nam
(miền Trung), hướng đông nam (Bắc Bộ). [Nguyên nhân làm cho khối không khí (Em) thổi vào
lãnh thổ nước ta theo các hướng khác nhau là do ở miền Bắc lúc này hình thành một hạ áp (xoáy
tụ) hút gió làm đổi hướng]. Khối không khí này gây mưa cho cả hai miền nước ta (riêng ở miền
Trung mưa vào tháng IX). Đặc biệt, khi gặp các nhiễu động khí quyển như bão, hội tụ nhiệt đới
sẽ gây mưa lớn kéo dài, đây cũng là mùa mưa bão của nước ta.
● Sự phân hóa của khí hậu nước ta
- Theo tác giả Phạm Ngọc Toàn - Phan Tất Đắc (1978, 1993) đã phân chia phần đất liền
nước ta thành 3 miền khí hậu: (1) Miền khí hậu phía Bắc (từ vĩ độ 18
0
B-dãy Hoành Sơn trở ra
Bắc), đây là miền khí hậu đặc biệt: “Nhiệt đới-gió mùa, có một mùa đông lạnh”, miền này lại
được chia làm 5 vùng khí hậu (vùng núi Đông Bắc; vùng núi Việt Bắc-Hoàng Liên Sơn; vùng

đồng bằng Bắc Bộ; vùng núi Tây Bắc; vùng Bắc Trung Bộ). (2) Miền khí hậu phía Nam, bao gồm
lãnh thổ Trung Bộ ở sườn Tây thuộc dãy Trường Sơn, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng
sông Cửu Long. Khí hậu có 2 mùa khô - mưa, càng về phía nam tính chất này càng thể hiện rõ.
Miền này chia làm hai vùng khí hậu (Tây Nguyên và Đông Nam Bộ - Đồng bằng sông Cửu
Long). (3) Miền khí hậu Đông Trường Sơn, bao gồm phần Đông Trường Sơn từ vĩ độ 18
0
B (phía
Nam dãy Hoành Sơn) đến vĩ độ 12
0
B (Bình Thuận). Đây là miền khí hậu chuyển tiếp giữa hai
16
miền khí hậu trên và được chia làm 3 vùng khí hậu (vùng Bình - Trị - Thiên; vùng Trung Trung
Bộ và vùng Nam Trung Bộ).
- Theo Atlát khí tượng thủy văn Việt Nam - 1994, sơ đồ phân vùng khí hậu nước ta gồm 2
miền (ranh giới 16
0
B):
Miền khí hậu phía Bắc có 4 vùng khí hậu (Đông Bắc, Tây Bắc, Đồng bằng sông Hồng và
Bắc Trung Bộ).
Miền khí hậu phía Nam có 3 vùng khí hậu (Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và
Nam Bộ).
Bảng 1.5. Một số đặc trưng của các miền và các vùng khí hậu.
Miền khí hậu Miền khí hậu P.Bắc Miền khí hậu P.Nam
- Biên độ năm của nhiệt độ không khí (
0
C) 9 <9
- Bức xạ tổng cộng TB năm (kcal/cm
2
) 140 > 140
- Số giờ nắng TB năm (giờ) 2.000 > 2.000

Vùng khí hậu T.Bắc Đ.Bắc ĐBSH BTBộ NTBộ T.Ng NBộ
Mùa mưa 4 - 9 4 - 10 5 - 10 8 - 12 8 - 12 5 - 10 5 - 10
Ba tháng mưa lớn nhất 6 - 8I 6 - 8I 7 - 9 8 - 10 9 - 11 7 - 9 8 - 10
Bảng 1.6. Nhiệt độ và lượng mưa trung bình tại 3 địa điểm Hà Nội, Huế và TP Hồ Chí Minh
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 TB/n
Hà Nội (21
0
01'B - 105
0
48'Đ, độ cao 5m/biển)
Nhiệt độ (
0
C)
16,4
17,0
20,2
23,7
27,3
28,8
28,9
28,2
27,2
26,4
21,4
18,2
23,5
Lượng mưa
(mm)
18,6
26,2

43,8
90,1
188,5
230,9
288,2
318,0
265,4
130,7
43,4
23,4
1676
Huế (16
0
24'B - 107
0
41'Đ, độ cao 17m/biển)
Nhiệt độ (
0
C)
19,7
20,9
23,2
26,0
28,0
29,2
29,4
28,8
27,0
25,1
23,2

20,8
25,1
Lượng mưa
(mm)
161,3
62,6
47,1
51,6
82,1
116,7
95,3
104,0
473,4
795,6
580,6
297,4
2868
Thành phố Hồ Chí Minh (10
0
47'B - 106
0
47'Đ, độ cao 9m/biển)
Nhiệt độ (
0
C)
25,8
26,7
27,9
28,9
28,3

27,5
27,1
27,1
26,8
26,7
26,4
25,7
27,1
Lượng mưa
(mm)
13,8
4,1
10,5
50,4
218,4
311,7
293,7
269,8
327,1
266,7
116,5
48,3
1931
● Thuận lợi:
▪ Đối với sản xuất nông nghiệp: Do nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng -
ẩm, nhiệt độ TB/năm cao, độ ẩm TB lớn cùng với sự phân hóa đa dạng cả về thời gian và không
17
gian là một thuận lợi lớn cho phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới với nhiều loại nông sản
phong phơ (cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu ; chăn nuôi đại gia súc, gia
súc, gia cầm, thủy sản). Cho phép trồng các loại cây có nguồn gốc nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới.

Cho phép tăng vụ, xen canh, gối vụ (nếu điều kiện ẩm được thỏa mãn).
▪ Đối với các ngành công nghiệp chế biến lâm sản, rừng nhiệt đới với nhiều loại lâm sản
khác nhau là nguồn nguyên liệu có giá trị đối với các ngành công nghiệp chế biến gỗ, giấy, dược
liệu, thủ công mĩ nghệ Ngoài ra, lượng mưa trung bình hàng năm cao, nguồn nước ngầm phong
phú cùng hệ thống sông ngòi dày đặc đủ để cung cấp nước cho sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải, sinh hoạt của dân cư.
● Hạn chế:
▪ Đối với sản xuất nông nghiệp: Sự phân phối ẩm không đều trong năm gây hạn chế cho
việc khai thác nhiệt. Chính vì vậy, dù cho điều kiện kĩ thuật có tiến bộ đến đâu, thì ở nước ta thủy
lợi vẫn là vấn đề hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp, đặt ra cho hầu hết các vùng nhất là trong
mùa khô (đặc biệt là các tỉnh phía nam) yêu cầu là phải tiết kiệm nước, phải tính đến việc thay
đổi cơ cấu cây trồng cho phù hợp (ví dụ, trong mùa khô có thể hạn chế diện tích trồng lúa nước,
hoặc những loại cây có nhu cầu về nước lớn). Trong điều kiện thời tiết nóng - ẩm, sâu bệnh dễ
phát sinh và lây lan trên diện rộng gây hại cho cả cây trồng lẫn vật nuôi. Các hiện tượng thời tiết
cực đoan, nhiễu động thời tiết thường xảy ra vào thời gian chuyển mùa làm cho sản xuất nông –
lâm - ngư thêm bấp bênh. Bão, lụt, thiên tai hạn hán, cũng xảy ra ở hầu hết các vùng lãnh thổ
nước ta, gây thiệt hại lớn cả về người và của cho nhân dân. Bão thường tập trung vào tháng VI-
XI, dịch dần từ Bắc vào Nam, có năm bão đổ bộ vào sớm, có năm muộn. Bão thường kèm theo
gió giật, mưa lớn kéo dài, nước sông sẽ dâng cao ở vùng cửa sông, ven biển uy hiếp các công
trình thủy lợi, đê điều. Nếu mưa lớn lại trùng với lúc triều cường thì lại càng nguy hiểm hơn.
[Theo thống kê của đài Khí tượng - Thuỷ văn thì từ 1884 - 1989, mỗi năm TB có 4,7 cơn bão đổ
bộ vào lãnh thổ nước ta ( vào Bắc Bộ 30%; Thanh – Nghê - Tĩnh 19%; Bình - Trị - Thiên 18%;
Quảng Nam - Bình Định 24%; Từ đèo Cả trở vào 9%). Gần đây, do những biến động của khí
hậu mà bão lũ xảy ra rất thất thường. Cơn bão Linda (12/1997) đổ bộ vào Đồng bằng sông Cửu
Long, tốc độ gió lên tới 150 km/giờ (cấp gió 14), là một trường hợp mà hàng trăm năm mới gặp,
4500 người chất, hư hại 200.000 ha căn nhà và 325.000 ha ruộng. Ở Đồng bằng sông Hồng, lũ do
bão Frankie (24/07/1999), cấp gió 11 làm chết 100 người, 194.000 căn nhà hư hại và ngập úng
177.000 ha ruộng. Ở miền Trung, lũ lụt năm 1996 làm chết 400 người, năm 1998 chết 450 người,
năm 1999 hai trận lũ liên tiếp xảy ra ngày 03/11/1999 và 02/12/1999 trên diện rộng suốt từ
Quảng Bình- Bình Định (nặng nhất là Thừa Thiên-Huế), đây là trận lụt mà hàng trăm năm mới

thấy xảy ra, làm chết 750 người, tổn thất lên tới 300 triệu USD (~ 4,8 nghìn tỉ đồng VN]
▪ Đối với sản xuất công nghiệp: độ ẩm cao dễ làm cho những thiết bị, máy móc bị ăn
mòn, ẩm mốc; Các ngành công nghiệp khai thác (khoáng sản, rừng, hải sản) cũng phải tuân theo
nhịp điệu mùa, tính chất mùa của nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến cũng
phải tuân theo lịch thời vụ.
18
▪ Đối với giao thông vận tải: Mưa, bão gây ách tắc giao thông cả đường sắt, bộ, đặc biệt
là những tuyến đường từ đồng bằng lên miền núi.
▪ Đối với hoạt động du lịch, nghỉ dưỡng, tham quan,.v.v. Tính chất gió mùa cũng ảnh
hưởng khá sâu sắc, hiệu quả khai thác giảm hẳn mà rõ nhất là ở miền Bắc.
d. Tài nguyên nước
Khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về nước cho sản xuất và sinh hoạt ngày càng
tăng. Nhưng sự phân bố nước lại không đều giữa các vùng đã dẫn tới sự mất cân đối giữa cung-
cầu về nước sạch. Như vậy, loại tài nguyên này tưởng như là vô tận lại trở thành có hạn.
● Nước trên mặt.
Với địa hình 3/4 diện tích là đồi núi, lại bị chia cắt dữ dội, điều kiện khí hậu nhiệt đới-ẩm-
gió mùa, sông ngòi nước ta khá dày đặc. Mật độ sông ~ 0,5 - 1,2 km/km
2
. Cả nước có 2360 con
sông có chiều dài 10 km, bao gồm 124 hệ thống sông với tổng diện tích lưu vực 292.470km
2
.
Có 10 lưu vực sông chính (Bằng Giang-Kỳ Cùng; Hồng-Thái Bình; Mã; Cả; Thu Bồn; Đà Rằng;
Đồng Nai; Cửu Long; Xêsan; Xrêpốc); diện tích lưu vực > 10.000km
2
;

10 lưu vực này chiếm
80% diện tích; 70% nguồn nước và trên 80% dân số cả nước.
- Sông ngòi nhiều nước, giàu phù sa: Tổng lượng dòng chảy của tất cả các sông ~

880km
3
/năm (lượng dòng chảy sinh ra trong nước 325 km
3
, chiếm 37% tổng lượng dòng chảy
năm). tổng lượng cát bùn hàng năm do sông vận chuyển ra Biển Đông ~ 200 triệu tấn (sông Hồng
120 triệu tấn, sông Cửu long 70 triệu tấn)
- Những dòng chảy lớn: sông Mê Công, diện tích lưu vực 795.000 km
2
, thuộc phần lãnh
thổ Việt Nam 72.000 km
2
(~ 9%). Tổng lưu lượng nước 520,6 tỉ m
3
(Việt Nam 10%). Hệ thống
sông Hồng-Thái Bình, diện tích lưu vực 169.000 km
2
(thuộc phần lãnh thổ Việt Nam 51%), tổng
lượng dòng chảy 137 tỉ m
3
(Việt Nam 68%). Như vậy, nếu ở thượng nguồn của hai hệ thống sông
lớn này khai thác mạnh tài nguyên nước (đặc biệt trong mùa khô) thì nguồn nước có thể khai thác
ở Việt Nam sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát. Vì vậy, vấn đề sử dụng chung nguồn tài nguyên nước
của các sông này đã trở nên cấp bách trong thế kỷ XXI này, đây cũng là vấn đề cần hợp tác với
các nước có liên quan.
- Về thủy chế, do tính chất bất thường của chế độ mưa mùa, trạng thái bề mặt các lưu vực
và hình dáng sông ngòi nước ta mà dòng chảy có sự chênh lệch lớn trong mùa mưa và mùa khô:
+ Hệ thống sông Hồng: Thủy chế ít điều hòa, lũ vào tháng VI-X (chiếm 74% lưu lượng
nước cả năm). Lũ do 3 sông tạo nên (sông Đà 41-61%, sông Lô 20-34%, sông Thao 15-23%), khi
lũ của 3 sông gặp nhau gây lũ đột xuất. Với hình thái lưu vực dốc ở thượng nguồn và trung du ít

dốc ở hạ du, nên lũ lên nhanh nhưng rút lại chậm. Chính vì vậy mà hệ thống đê điều ở Đồng bằng
sông Hồng đã được hình thành từ rất sớm (thế kỷ XI) đến nay đã khá hoàn chỉnh. Việc xây dựng
các công trình thủy điện ở đây sẽ có ý nghĩa không chỉ về năng lượng mà còn có ý nghĩa trị thủy
(kiểm soát lũ) ở sông Hồng.
+ Hệ thống sông Mê Công: sông dài 4.500km chảy qua 5 nước Trung Quốc – Mianma -
Thái Lan – Lào - Cămpuchia vào Việt Nam ở hạ lưu, sông chảy qua nhiều miền khí hậu khác
nhau. Đây là sông có lượng dòng chảy lớn nhất, lũ từ tháng VI-XI, lũ lên chậm và rút chậm (do
19
có sự điều tiết của hồ Tônglêsáp (Biển Hồ). Lượng dòng chảy cũng chênh lệch lớn giữa mùa lũ
và kiệt (khoảng 7 lần). Người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long có kinh nghiệm sống chung
với lũ (tại đây không có hệ thống đê điều vững chắc như ở Đồng bằng sông Hồng). Ngay từ khi
con người đến khai thác vùng đất này và cả bây giờ chúng ta cũng chỉ chủ trương kiểm soát lũ
từng phần bằng cách đắp đê bao, các tuyến đường vượt lũ.
+ Hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ. Diện tích lưu vực 42.655 km
2
, thuộc phần lãnh thổ
Việt Nam 36.261 km
2
. Hệ thống sông Đồng Nai-Vàm Cỏ bao trùm gần như toàn bộ lãnh thổ
vùng Đông Nam Bộ, một phần phía Nam Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung. Lũ vào mùa Hạ,
lớn nhất là tháng VII-IV; mùa kiệt từ tháng III-V. Đây là lưu vực sông của vùng kinh tế phát triển
năng động nhất cả nước, vì vậy sử dụng hợp lý nguồn nước sông có ý nghĩa rất quan trọng.
+ Hệ thống sông ở Tây Nguyên có những sông nhánh của tả ngạn sông Mê Công (lớn hơn
cả là sông Xrêpốc và Xêsan), những sông này tuy nhỏ, nhưng có ý nghĩa rất lớn về nước tưới và
thủy điện. Trên sông Xêsan đã xây dựng thủy điện Yaly, sông Srêpốc đã xây dựng thủy điện
Đrây Hlinh, hiện nay đang tiếp tục xây dựng một vài công trình thủy điện khác.
+ Hệ thống sông Mã, sông Chu. Diện tích lưu vực 28.400 km
2
, chảy qua một phần vùng
Tây Bắc qua Lào vào Thanh Hóa. Hai sông này cung cấp phù sa cho đồng bằng Thanh Hóa (rộng

nhất trong các đồng bằng Duyên hải miền Trung). Lũ vào tháng VI - XI (cao nhất tháng IX).
+ Hệ thống sông Cả. Diện tích lưu vực 27.200 km
2
. Bắt nguồn từ Lào chảy vào Nghệ An,
tạo nên đồng bằng Nghệ An nối liền với đồng bằng Thanh Hóa. Do lưu vực sông mở rộng về
phía Tây, vì vậy đồng bằng cũng mở rộng sâu vào trong đất liền. Lũ vào tháng VI - X (cao nhất
tháng IX), kiệt vào tháng XI - V (kiệt nhất tháng III). Ở hạ lưu của hệ thống sông này có các
thành phố lớn như thành phố Vinh, trung tâm kinh tế lớn nhất của Bắc Trung Bộ.
+ Các sông ở miền Trung (Đông Trường Sơn) từ Hà Tĩnh - Bình Thuận có đặc điểm
chung là đều ngắn, dốc, lưu lượng nước nhỏ (nhiều sông chảy theo hướng Tây - Đông), lượng
dòng chảy nhỏ chủ yếu trong địa phận nước ta. Mùa lũ lệch vào mùa Thu Đông, lũ lớn nhất vào
tháng X, XI, lũ tiểu mãn vào tháng V, VI; tháng kiệt nhất vào IV hoặc VII, VIII. Các sông này
tạo nên các đồng bằng nhỏ hẹp, lại bị chia cắt bởi các nhánh nơi lan ra sát biển. Ở hạ lưu các sông
thường có các thị xã, thị trấn. Những sông lớn ở đây khi chảy qua các vùng lãnh thổ nào thường
mang tên các thị xã, thị trấn mà nó chảy qua (ví dụ Tam Kỳ, Vĩnh Điện, Sông Cầu .v.v.).
Do sông ngắn và dốc, ở hạ lưu lại không có đê nên lũ lên rất nhanh và rút cũng nhanh. Lũ
ở miền Trung rất nguy hiểm (đặc biệt là ở thượng nguồn) hiện tượng lũ quét thường đe dọa các
điểm dân cư, các công trình xây dựng, đường sá , còn ở đồng bằng thiệt hại do lũ gây ra cũng rất
lớn . Với Duyên hải miền Trung việc làm các hồ, xây dựng các đập chứa nước có ý nghĩa rất lớn
để điều tiết nước trong mùa lũ và giữ nước cho mùa khô.
Bảng 1.7. Phân bố nước trên mặt.
Các vùng lãnh thổ và lưu vực
Tổng số Riêng nội địa
Lưu lượng
(tỉ m
3
/năm)
%
Lưu lượng
(tỉ m

3
/năm)
%
20
Cả nước 840,0 100,0 328,0 100,0
1. Đồng bằng sông Hồng
- Lưu vực sông Hồng và Thái Bình 137,0 16,3 90,6 27,6
2. Đông Bắc
- Lưu vực sông vùng Quảng Ninh
- Lưu vực sông vùng Cao – Lạng
17,4
8,5
8,9
2,0
1,0
1,0
15,7
7,2
7,2
4,8
2,2
2,2
3. Bắc Trung Bộ
- Lưu vực sông Mã.
- Lưu vực sông Cả
- Lưu vực sông vùng Bình - Trị -Thiên
67,0
18,5
24,7
23,8

8,0
2,3
2,9
2,8
58,3
14,7
19,8
23,8
17,9
4,5
6,3
7,3
4. Duyên hải Nam Trung Bộ
- Khu vực Đà Nẵng và Quảng Nam
- Khu vực Quảng Ngãi – Bình Định.
- Khu vực Phú Khánh
48,7
21,6
14,6
12,5
5,8
2,6
1,7
1,4
48,7
21,6
14,6
12,5
14,8
6,6

3,2
4,4
5. Tây Nguyên 30,0 3,6 30,0 9,1
6. Đông Nam Bộ
- Lưu vực sông Đồng Nai
- Khu vực Ninh - Bình Thuận
34,9
30,0
8,4
4,2
3,0
1,0
34,9
8,4
10,6
2,6
7. Đồng bằng sông Cửu Long
- Lưu vực sông Cửu Long 505,0 60,1 50,0 15,2
Nguồn: Viện qui hoạch thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
● Nước ngầm.
Tài nguyên nước ngầm của Việt Nam hiện nay vẫn chưa được thăm dò, đánh giá đầy đủ.
Theo kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy phần lớn nước ngầm chứa trong các thành tạo ở độ
sâu từ 10-100 m. Các phức hệ có khả năng khai thác đó là phức hệ trầm tích rời bở tập trung ở
Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và một vài nơi ven biển miền Trung, phức hệ
trầm tích cácbonat phân bố chủ yếu ở Đông Bắc, Tây Bắc, vùng Bắc và Bắc Trung Bộ, phức hệ
đá phun trào (Tây Nguyên và Đông Nam Bộ).
Tổng trữ lượng động thiên nhiên của cả nước 1.513 tỉ m
3
/s (lưu lượng dòng ngầm ở một
cắt nào đó của tầng chứa nước). Trữ lượng khai thác thăm dò khoảng 3,3 tỉ m

3
. Nước ngầm phân
bố không đều trong cả nước, tập trung nhiều nhất ở các vùng đồng bằng (nhưng thường bị nhiễm
mặn, hàm lượng sắt và độ axit cao), rất hạn chế trong các vùng núi đá vôi và trong tầng ba dan.
Khai thác nước ngầm chủ yếu cung cấp nước cho đô thị, sản xuất công nghiệp, nước sạch cho các
vùng nông thôn, đối với các vùng chuyên canh cây công nghiệp (cà phê Tây Nguyên) lại càng
quan trọng.
● Ý nghĩa kinh tế của hệ thống sông ngòi nước ta
- Tạo nên các đồng bằng rộng lớn (Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long
Duyên hải miền Trung); thuận lợi cho nền nông nghiệp lúa nước, định canh. Tạo điều kiện tập
trung dân cư và phát triển các ngành kinh tế khác. Chính vì thế, ở ven sông thường tập trung các
đô thị lớn, các trung tâm công nghiệp, dịch vụ; Các vùng ven sông và các cửa sông còn hình
21
thành các cảng rất lớn (Cần Thơ); Nhiều cửa sông rộng (hình phễu) rất thuận lợi cho tàu bè ra
vào; Các sông ngòi nếu được nạo vét thường xuyên sẽ là hệ thống giao thông vận tải lý tưởng.
- Về thủy điện, sông ngòi nước ta có giá trị về thủy điện rất lớn. Tổng trữ năng (lý thuyết)
28-30 triệu kw. Sản lượng điện ~ 250 tỉ kw/h/năm (khả năng cho khai thác 60 tỉ kw/h/năm), hiện
nay chúng ta mới khai thác trên 50%. Như vậy khai thác thủy điện có ý nghía rất lớn cho phát
triển kinh tế - xã hội và sử dụng tổng hợp nguồn tài nguyên nước.
▪ Những hạn chế của nguồn tài nguyên nước.
- Tính chất bất thường của thủy chế (lũ và kiệt). Lũ lụt năm nào cũng xảy ra gây thiệt hại
rất lớn cả về người và của của nhân dân. Mùa kiệt, lượng dòng chảy nhỏ, nước mặn vào khá sâu
trong đất liền, riêng ở hai đồng bằng lớn trong phạm vi 30 - 50 km từ cửa sông vào là chịu ảnh
hưởng của triều biển sông Hồng (20km), sông Thái Bình (40km), sông Tiền (50km), sông Hậu
(40km).
- Dòng chảy cát, băn (phù sa) lớn, ước tính hàng năm các sông đổ ra biển ~ 200 triệu tấn
phù sa (sông Hồng 120 triệu tấn; sông Cửu Long 70 triệu tấn). Nếu ở thượng lưu, rừng bị khai
thác quá mức, hiện tượng xói mòn đất diễn ra ngày càng mạnh, thì lượng bùn đổ ra biển càng lớn.
Phù sa một mặt bồi đắp cho các đồng bằng, nhưng mặt khác nó còn lắng đọng trong hệ thống
kênh mương, hồ chứa nước, các đập thủy điện, đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nạo vét lòng

sông rất tốn kém.
▪ Để bảo vệ nguồn nước (trên mặt và nước ngầm):
Hạn chế việc làm ô nhiễm do chất thải (công nghiệp và sinh hoạt). Nâng cấp, cải tạo các
hệ thống thoát nước. Hạn chế việc dựng hóa chất trong nông nghiệp, đặc biệt là những vùng rau ở
Đà Lạt, Hà Nội, ở những vùng chè; ở vùng trồng lúa thâm canh thường gây ô nhiễm ở tầng nước
nông, đây lại là tầng nước phần lớn dùng cho sinh hoạt của nông dân.
e. Tài nguyên đất
● Các loại đất chính ở đồng bằng. Đất đồng bằng chủ yếu là đất phù sa; tùy theo từng
lưu vực mà thành phần cơ giới, đặc tính lý-hóa và độ phì của đất khác nhau. Đất phù sa đã được
cải tạo qua nhiều thế kỷ, được san bằng, đắp bờ giữ nước, cấy lúa, cho nên thành phần cơ giới, lý
- hóa đã bị biến đổi nhiều và trở thành loại đất đặc biệt ”Đất trồng lúa nước”. Các loại đất chính:
▪ Đất phù sa mới. ~ 3,40 triệu ha (Đồng bằng sông Hồng 0,6 triệu ha; Đồng bằng sông
Cửu Long 1,2 triệu ha).
- Đất phù sa ở Đồng bằng sông Hồng: Thành phần cơ giới chủ yếu từ cát pha đến thịt
trung bình (vùng trũng là thịt nặng). Độ pH 5,5-7,0, giàu N, P, K, Ca, Mg và chất hữu cơ. Do có
hệ thống đê điều khá vững chắc nên phù sa không được trải đều trong năm. Đất đã được sử dụng
với cường độ cao nhiều nơi đã bị bạc màu. Trong đồng bằng có nhiều ô trũng (Hà-Nam-Ninh) đất
bị hóa lầy, hiện tượng glây mạnh, đất giàu mùn, đạm, nghèo lân, trong đất chứa nhiều chất độc
hại cho cây trồng và thủy sản.
22
- Đất phù sa ở Đồng bằng sông Cửu Long: Thành phần cơ giới nặng hơn so với đất ở
Đồng bằng sông Hồng (từ thịt đến sét), lượng mùn và đạm trung bình, nghèo lân, nhưng cũng khá
phì nhiêu. Do chỉ mới có một số hệ thống đê bao, nên phù sa vẫn được trải đều. Riêng dải phù sa
ngọt ven sông Tiền và sông Hậu đã được thâm canh khá cao cả cây lương thực - thực phẩm và
cây ăn quả.
- Đất phù sa ở các đồng bằng Duyên hải miền Trung: Do tác động rõ rệt của biển trong
quá trình hình thành đồng bằng, nên đất có thành phần từ cát pha đến thịt nhẹ, chua, nghèo mùn,
kèm màu mỡ
▪ Đất phèn. 2,0 triệu ha, Đồng bằng sông Cửu Long gần 1,9 triệu ha tập trung nhiều ở tứ
giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, vùng trũng bán đảo Cà Mau; Đồng bằng sông Hồng (ven

biển Hải Phòng và Thái Bình). Đất phèn được hình thành trên các vùng biển cũ, nơi có nhiều xác
thực vật thối rữa của rừng ngập mặn trước đây. Phèn thường tồn tại dưới dạng tiềm tàng (FeS),
nếu bị ôxy hóa sẽ tạo thành H
2
SO
4
làm cho đất chua và nước trong đất chua (nếu trong đất và
nước: độ pH < 4,5 cá không sống được, độ pH < 3,0 thì tất cả các loài thủy sinh và cây cối
không sống được, kể cả cây ngập mặn). Muốn sử dụng loại đất này phải tiến hành thau chua - rửa
phèn, cần rất nhiều nước ngọt.
▪ Đất mặn. Khoảng 1,0 triệu ha. Tập trung ở các vùng cửa sông ven biển, nhiều nhất ở
Đồng bằng sông Cửu Long diện tích lên tới 744 000 ha (Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà
Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau), ở Đồng bằng sông Hồng (Thái Bình, Nam Định). Đất
nhiễm mặn do 2 nguyên nhân (do ngập nước triều mặn và nước ngầm mặn gây ra). Tùy theo hàm
lượng (CL
-
) trong đất mà phân ra mặn nhiều hay ít. Để khai thác đất mặn, nhân dân ta thường
quai đê lấn biển, rửa mặn bằng nước mưa, trồng cói trước - lúa sau. Hiện nay ở Đồng bằng sông
Cửu Long, nhiều vùng nhân dân đã trồng một vụ lúa nhờ vào nước trời và một vụ tôm cho năng
suất khá cao.
▪ Đất cát ven biển. ~ 50,0 vạn ha. Phân bố dọc bờ biển, nhiều nhất ở Trung Bộ. Có các
loại cồn cát sau:
Các cồn cát hiện đại (cồn cát vàng), nhiều nhất ở Quảng Bình. Các cồn cát cũ (cồn cát
trắng) kéo dài từ Quảng Trị đến Thừa Thiên Huế. Các cồn cát cổ (cát đỏ) có nhiều ở Bình Thuận.
Ngoài ra còn có các bãi cát biển khá bằng phẳng.
Đất cát nghèo mùn và N, P, K, có phản ứng chua. Thường thiếu nước cho sinh hoạt và
cây trồng gặp rất nhiều khó khăn. Các cồn cát hiện đại và cồn cát cũ lại thường hay di động, lấn
vào làng mạc, ruộng đồng nên việc trồng rừng chắn gió, chắn cát ở các tỉnh miền Trung là rất
quan trọng. Các cồn cát cổ đã ổn định, không di động, có thể tận dụng trồng hoa màu, cây công
nghiệp hay trồng rừng.

● Các loại đất ở vùng trung du - miền núi và cao nguyên.
* Đặc điểm chung.
Ở miền đồi núi, quá trình hình thành đất feralit là chủ yếu, đây là quá trình hình thành đất
đặc trưng cho vùng nhiệt đới ẩm trong điều kiện nhiệt-ẩm cao, quá trình phong hóa diễn ra rất
23
mạnh, các chất bazơ Ca
+
, Mg
+
, K
+
dễ hòa tan, rửa trôi làm cho đất bị chua; đồng thời ôxit sắt fe
3+
và nhôm AL
3+
được tích tụ làm cho đất có màu đỏ vàng, đất nói chung nghèo mùn. Quá trình
feralit diễn ra điển hình trên đá mẹ axit, cũng diễn ra cả trên đất bazơ và các thềm phù sa cổ.
* Các loại đất chính
▪ Đất feralit (có tên Việt Nam là đất đỏ - vàng) ~ 16,0 triệu ha. Có thể chia ra 7 loại:
Đất feralit nâu - đỏ trên đá bazơ, chủ yếu là badan ~ 2,0 triệu ha, nhiều nhất ở Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ; ngoài ra còn có ở rải rác phần phía tây tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An,
Quảng Bình, Quảng Trị và Phú Yên. Đất giàu cation Ca, Mg, Fe, Al, đạm và lân, nhưng nghèo
kali và lân dễ tiêu. Tầng đất dày, khá phì nhiêu thích hợp cho cây công nghiệp lâu năm như cà
phê, cao su, chè.
Đất nâu - vàng trên đá bazơ. ~ 0,4 triệu ha (tập trung trên cao nguyên, ở độ cao 800-
900m). Bên cạnh cây công nghiệp lâu năm, còn trồng được cây lương thực cạn (do lượng ẩm
trong đất khá).
Đất feralit đỏ - nâu trên đá vôi. ~ 0,3 triệu ha (tập trung ở vùng núi đá vôi và cao nguyên
đá vôi miền núi phía Bắc). Đất giàu mùn, đạm, tơi xốp, thuận lợi cho trồng ngô, đậu tương.
Đất feralit đỏ - vàng trên đá biến chất và đá sét. Trên 6,0 triệu ha (tập trung chủ yếu ở

Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Hồ Bình, Sơn La, Lai Châu). Đất có thành phần cơ
giới nặng, kém tơi xốp, tầng đất dày từ 1,5-2,0 m. Do địa hình dốc nên đất dễ bị xói mòn, chủ yếu
dành cho lâm nghiệp và nông-lâm kết hợp.
Đất Feralít vàng - đỏ trên đá mác ma axit. ~ 4,0 triệu ha. Phân bố tại các vùng đồi núi
granit và riolit. Tầng đất mỏng, lẫn nhiều đá, đất chua, nghèo mùn và lân. Địa hình thường dốc,
dễ bị xói mòn, việc khai thác không hợp lý nên hầu hết đã bị thoái hóa, cần trồng rừng để phục
hồi đất.
Đất feralit vàng nhạt trên đá cát. Trên 2,2 triệu ha, hình thành trên đá mẹ có thành phần
silic cao hơn các đá mác ma axit, tầng đất mỏng, thành phần cơ giới từ cát đến cát pha, đất nghèo,
chua, khô hạn. Phần lớn là đồi trọc.
Đất feralit nâu - vàng trên phù sa cổ. ~ 0,4 triệu ha, phân bố ở rìa các châu thổ, trên các
thềm sông cổ. Địa hình là những vùng đồi (độ cao 25 - 30m) đã bị thoái hóa, đất có kết von ôxit
sắt, nhôm (một số nơi có đá ong). Đất này cần cải tạo để trồng hoa màu, cây công nghiệp lâu
năm, ngắn ngày và cây ăn quả.
▪ Đất xám bạc màu. (có 2 loại đất chính)
- Đất xám bạc màu trên đá axit. Trên 80,0 vạn ha. Tập trung ở Tây Nguyên và rải rác ở
ven biển miền Trung. Đất nghèo mùn, thành phần cơ giới nhe từ cát pha đến cát thụ. Thảm thực
vật là rừng khộp hay cỏ tranh.
- Đất xám bạc màu trên phù sa cổ. ~ 1,2 triệu ha (Đông Nam Bộ 90,0 vạn ha), ngoài ra
còn có ở rìa Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải Nam Trung Bộ và dải đất cao ở Long An, Đồng
Tháp. Địa hình cao 15 - 20 m, đất bị rửa trôi lâu ngày nên nghèo phì liệu nhưng tơi xốp, thoát
nước tốt. Đất này nếu được cải tạo, có thể trồng được cây lương thực - thực phẩm, cây ăn quả và
cây công nghiệp
24
▪ Đất mùn đỏ - vàng trên núi. ~ 3,0 triệu ha. Phân bố ở độ cao từ 500 - 600m đến 1.600 -
1.700m. Đây là đai rừng cận nhiệt đới trên núi, nhiệt độ giảm nhưng lượng mưa tăng làm cho quá
trình Feralit yếu đi, quá trình tích lũy mùn tăng lên. Địa hình dốc, đất có tầng mỏng, thích hợp
cho lâm nghiệp. Một số nơi như Sa Pa có thể trồng các loại rau ôn đới.
▪ Đất mùn thụ trên núi cao (đất alit trên núi cao). Trên 28,0 vạn ha, phân bố ở độ cao
1.600 - 1.700 m, đây là đai rừng cận nhiệt đới mưa mù trên núi, quanh năm mây mù lạnh ẩm, quá

trình Feralit chấm dứt hoàn toàn. Đất chứa nhiều mùn thụ, tầng thảm mục dày, tầng đất mỏng, lại
là khu vực đầu nguồn nên cần bảo vệ nghiêm ngặt, phải trồng rừng phòng hộ.
▪ Ngoài ra, ở vùng đồi núi còn có: Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ khoảng 33,0 vạn
ha, thích hợp cho việc làm ruộng bậc thang (lúa nước thâm canh), trồng hoa màu, cây công
nghiệp ngắn ngày. Đất xói mòn trơ sỏi đá. (50,5 vạn ha). Đất bị thoái hóa nghiêm trọng, không
trồng trọt được. Việc cải tạo, phủ xanh diện tích này rất khó khăn. Đất lầy và than bùn > 7,0 vạn
ha, tập trung ở các thung lũng miền núi và ở vùng đồng bằng; Đất than bùn nhiều nhất ở U Minh
(Kiên Giang) và Cà Mau.
● Vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên đất
- Đất đai là tài nguyên vô cùng quớ giá, là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế
được của ngành nông - lâm. Là mặt bằng để bố trí các điểm dân cư (nông thôn, đô thị), các cơ sở
công nghiệp, các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt và các công trình quốc
phòng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, đất đai trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, việc
thay đổi mục đích sử dụng có thể làm thay đổi mạnh mẽ giá trị của đất đai. Chính vì vậy, sử dụng
hợp lý, có hiệu quả về kinh tế và sinh thái sẽ đảm bảo cho sự phát triển lâu bền trong tương lai.
Bảng 1.8. Hiện trạng sử dụng đất phân theo vùng tại thời điểm 01/01/2006 (đơn vị:1000 ha).
Các vùng Diện tích
Chia ra
Đất NN Đất LN Đất CD Đất TC Chưa SD
CẢ NƯỚC 33121,2 9412,2 14437,3 1401,0 602,7 7268,0
Đồng bằng sông Hồng 1486,2 760,3 123,3 230,5 116,5 255,6
Đông Bắc 6402,4 978,8 3551,0 202,7 79,9 1590,0
Tây Bắc 3753,4 499,5 1773,6 42,3 32,7 1405,3
Bắc Trung Bộ 5155,2 804,9 2854,0 194,1 97,9 1204,3
DH Nam Trung Bộ 3316,7 583,8 1459,8 193,8 54,2 1025,1
Tây Nguyên 5466,0 1597,1 3067,8 124,5 41,6 635,0
Đông Nam Bộ 3480,9 1611,9 1251,6 193,6 71,4 352,4
ĐB sông Cửu Long 4060,4 2575,9 356,2 219,5 108,5 800,3
Theo dự báo đến 2010: Chúng ta có thể sử dụng ~ 50% diện tích đất chưa sử dụng (~ 2,0
triệu ha), như vậy quĩ đất nông nghiệp sẽ vào khoảng gần 10,0 triệu ha và được phân bố như sau:

đất canh tác hàng năm 6,5 triệu ha (trong đó đất trồng lúa 4,3 triệu ha); đất trồng cây lâu năm 2,8
triệu ha; đất cỏ và nuôi trồng thuỷ sản 0,7 triệu ha. Như vậy, tài nguyên đất ở nước ta rất hạn chế;
BQ đất tự nhiên < 0,5 ha/người (thấp nhất thế giới); đất nông nghiệp tuy có tăng lên chút ít (năm
1989 là 6,9 triệu ha; 1999 tăng lên 7,8 triệu ha, năm 2006 tăng lên 9,4 triệu ha), song BQ cũng
chỉ ~ 0,1 ha/người. Vì vậy, việc chuyển mục đích sử dụng đất sang chuyên dùng hay thổ cư (tức
25

×