Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây dẻ gai ấn độ (castanopsis indica a.d.c.) tại huyện lục nam tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 77 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM









SỐ LIỆU THÔ




NGUYỄN THANH HẢI



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH TỰ NHIÊN CỦA CÂY DẺ
GAI ẤN ĐỘ (Castanopsis Indica A.D.C)
TẠI HUYỆN LỤC NAM TỈNH BẮC GIANG









Thái Nguyên, năm 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Rừng có ý nghĩa đặc biệt lớn, không chỉ cung cấp của cải cho nền kinh
tế của đất nước mà còn có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh
học, bảo vệ, cải thiện môi trường và cân bằng sinh thái. Vai trò của rừng là
rất to lớn, thế nhưng trong những năm vừa qua diện tích rừng tự nhiên của
chúng ta ngày càng giảm sút cả về số lượng và chất lượng.
Theo các nhà khoa học các biện pháp bảo vệ, sử dụng và tái tạo lại
rừng chỉ có thể được giải quyết thỏa đáng khi có một sự hiểu biết đầy đủ về
bản chất các qui luật sống của rừng trước hết là các quá trình tái sinh, sự hình
thành và động thái biến đổi của rừng tương ứng với những điều kiện tự nhiên
môi trường khác nhau.
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái. Nó bảo đảm cho nguồn tài nguyên rừng có khả năng tái sản xuất mở
rộng, nếu chúng ta nắm được qui luật tái sinh, chúng sẽ điều khiển qui luật đó
phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh. Vì vậy, tái sinh rừng trở thành vấn đề
then chốt trong việc xác định các phương thức kinh doanh rừng.
Hiện nay trong nhiều vùng rừng tự nhiên của nước ta đã mất rừng do
sử dụng phương thức khai thác - tái sinh không đáp ứng được những lợi ích
lâu dài của nền kinh tế và bảo vệ môi trường. Các phương thức khai thác - tái

sinh không hợp lý đã và đang làm cho rừng tự nhiên suy giảm cả về số lượng
và chất lượng. Ở Việt Nam, năm 1943 diện tích rừng còn khoảng 14,3 triệu
ha, tỷ lệ che phủ khoảng 43%. Năm 2002, theo số liệu thống kê của Tổng cục
lâm nghiệp Việt Nam, cả nước còn 11,8 triệu ha rừng, với độ che phủ tương
ứng là 35,8%. Đến năm 2010, đất rừng của cả nước tăng cả về độ che phủ và
diện tích đất có rừng; diện tích rừng là 13,4 triệu ha và độ che phủ đạt 39,5%.
Do vậy, việc tái sinh tự nhiên là một trong những biện pháp và nhiệm vụ
quan trọng [29], [32].
Cấu trúc phản ánh kết quả của quá trình đấu tranh và thích ứng lẫn
nhau giữa các loài trong rừng. Cấu trúc là đặc điểm “Nổi bật nhất, là tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
nhân chi phối sự tái sinh và diễn thế rừng” (Nguyễn Văn Trương, 1993) [34].
Do đó phân tích được đặc điểm cấu trúc của một kiểu rừng là yêu cầu đầu
tiên của việc xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh, nhằm tác động vào
rừng có định hướng như: Xúc tiến tái sinh, làm giàu rừng, nuôi dưỡng rừng
hoặc đề xuất phương thức trồng rừng mô phỏng tự nhiên để cây Dẻ gai ấn
Độ sinh trưởng và phát triển thuận lợi.
Tổ thành tầng cây cao là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến
cấu trúc sinh thái và hình thái của rừng, do đó khi nghiên cứu về tổ
thành rừng cần quan tâm đến tổ thành tầng cây cao. Tổ thành rừng là chỉ
tiêu quan trọng dùng để đánh giá mức độ đa dạng sinh học, tính bền
vững, tính ổn định của hệ sinh thái. Cấu trúc tổ thành có ảnh hưởng lớn
đến các định hướng kinh doanh, lợi dụng rừng, đặc biệt là ảnh hưởng
đến khả năng tái sinh rừng. Vì vậy, nghiên cứu cấu trúc tổ thành được
xem như công việc quan trọng đầu tiên trong quá trình nghiên cứu cấu
trúc rừng và đề xuất, áp dụng các biện pháp bảo tồn và phát triển rừng
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng rừng.

Qua nghiên cứu của Vũ Đình Huề (1975) [21], ở mỗi kiểu trạng thái
rừng thực ra còn có nhiều xã hợp thực vật khác nhau. Vì vậy, ngoài việc phân
chia trạng thái hiện tại của đối tượng nghiên cứu, còn cần xác định các loại
hình xã hợp tiêu biểu cho từng loại trạng thái, nhằm xác định chi tiết thêm đối
tượng nghiên cứu. Do vậy việc chỉ dựa vào tổ thành loài như một số tác giả
trước đây đã dùng không nói rõ được vai trò của các loài trong ưu hợp cả về ý
nghĩa sinh thái lẫn ý nghĩa sử dụng rừng.
Lục Sơn là một xã miền núi thuộc huyện Lục Nam nằm ở phía Đông
Bắc Thành phố Bắc Giang. Về địa lý đây là vùng đất nằm gọn và bao quanh
của cánh cung Yên Tử kéo dài từ phía Đông đến Tây của xã và cũng là phân
cách ranh giới của xã Lục Sơn với tỉnh Quảng Ninh [37].
Xã Lục Sơn có diện tích rừng tự nhiên là 9.662,2 ha, với diện tích rừng
là 8.324 ha, trong đó rừng do cơ quan bảo tồn Tây Yên Tử quản lý 2.351 ha,
công ty lâm nghiệp Mai Sơn quản lý 2.868,3 ha. Rừng do xã quản lý 3.104,7
ha trong đó có 1.699 ha rừng sản xuất, 165 ha rừng hạt dẻ. Đây là cây có thu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

4
nhập cao cho đồng bào dân tộc Lục Sơn, hàng năm sản lượng Dẻ ước tính
khoảng 500 triệu đồng [37].
Ở Lục Sơn loài Dẻ Gai Ấn Độ được phân bố hầu như khắp các trạng
thái rừng, các đai khí hậu, nên khả năng tái sinh tương đối tốt. Với loài cây
Dẻ có giá trị kinh tế cao, nên những năm gần đây công tác nghiên cứu, đánh
giá thành phần loài, tính đa dạng thực vật tại huyện Lục Nam nói chung và xã
Lục Sơn nói riêng diễn ra tương đối mạnh mẽ. Tuy nhiên, các công trình đó
mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, chưa nghiên cứu sâu về đặc điểm tái
sinh, thành phần loài, sự phân bố và giá trị của từng họ, từng loài. Vì vậy việc
chọn đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây Dẻ Gai
Ấn Độ (Castanopsis Indica A.D.C) tại huyện Lục Nam’’ là hết sức cần thiết

cả về lí luận và thực tiễn
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu chỉ ra đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây Dẻ Gai Ấn Độ làm
cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp bảo vệ tái sinh tự nhiên cho loài này.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Chỉ ra được đặc điểm sinh vật học của cây Dẻ gai Ấn Độ.
- Chỉ ra được đặc điểm sinh thái học và vật hậu của cây Dẻ gai Ấn Độ.
- Đưa ra được đặc điểm tái sinh của cây Dẻ gai Ấn Độ.
- Dựa trên kết quả nghiên cứu, đề xuất các biện pháp bảo vệ tái sinh
của cây Dẻ gai Ấn Độ tái sinh tự nhiên tại xã Lục Sơn huyện Lục Nam









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở khoa học
Khái niệm về tái sinh rừng: Tái sinh rừng là một quá trình sinh học
mang đặc thù của hệ sinh thái rừng. Đó là sự xuất hiện các thế hệ cây con của

những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng như dưới tán rừng,
khoảng trống trong rừng, trên đất rừng sau khi khai thác hoặc sau khi làm
nương rẫy, các cây con sẽ thay thế các cây già cỗi (Nguyễn Xuân Cự và Đỗ
Đình Sâm, 2010) [10].
Theo nghĩa hẹp, tái sinh rừng là quá trình phục hồi lại thành phần cơ
bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Theo nghĩa rộng, tái sinh rừng là sự tái sinh nhằm đảm bảo cho sự tồn
tại liên tục của một hệ sinh thái rừng. Tái sinh rừng có thể diễn ra theo các
cách khác nhau.
Theo quan điểm triết học: Tái sinh rừng được xem như một quá trình
phủ định biện chứng, cây con thay thế cây già trên cơ sở được thừa hưởng
hoàn cảnh thuận lợi do thế hệ rừng ban đầu tạo nên. Về mặt kinh tế có thể
coi, tái sinh rừng là một quá trình tái sản xuất mở (Nguyễn Xuân Cự và Đỗ
Đình Sâm, 2010) [10].
Đặc điểm cấu trúc và phân loại rừng:
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp nội bộ của các thành phần sinh vật
trong hệ sinh thái rừng.
Nghiên

cứu
quy luật về cấu trúc rừng là cơ sở rất
quan trọng để nghiên cứu sinh thái học và để xây dựng những mô hình lâm
sinh đạt hiệu quả sản xuất cao, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững và ổn
định sinh thái.
Để xác định các trạng thái rừng, tác giả đã dựa vào tiêu chuẩn phân
loại của Loeschau [27]. Tiêu chuẩn phân loại như sau:
- Kiểu I: Đất không có rừng, có thể có cây bụi hoặc cây tái sinh mọc rải rác.
+ Kiểu I
A
: Đất trống và tràng cỏ.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6
+ Kiểu I
B
: Tràng cỏ và cây bụi.
+ Kiểu I
C
: Tràng cỏ và cây bụi đã xuất hiện một số loài cây tái sinh.
- Kiểu II: Là rừng thứ sinh phục hồi sau khai thác hoặc sau nương
rẫy, bao gồm các cây tiên phong ưa sáng mọc nhanh và rừng đang tiếp tục
phát triển.
+ Kiểu II
A
: Là trạng thái rừng phục hồi rừng còn non, bao gồm những
cây
tiên phong ưa sáng hoặc có
D

1.3
≤ 10cm và

G <
10

m
2
/ha.
+ Kiểu II

B
: Là rừng phục hồi bao gồm những cây tiên phong ưa sáng
hoặc
có tính chất tiên phong ưa sáng có
D

1.3
≥ 10cm và

G <
10

m
2
/ha.

- Kiểu III: Rừng đã bị tác động ở nhiều mức độ khác nhau, kết cấu
rừng bị phá vỡ và khả năng cung cấp ít nhiều bị phá vỡ.
+ Kiểu III
A
: Tổng tiết diện ngang < 21m
2
/ha.

- Kiểu III
A
1
: Rừng nghèo kiệt, kết cấu bị phá vỡ hoàn toàn, tầng trên
còn
một số cây mẹ kém phẩm chất, cong queo sâu bệnh, tầng dưới chủ yếu

là dây leo, bụi rậm, tre nứa xen lẫn và có độ tàn che < 0,3. Tổng tiết diện
ngang < 10 m
2
/ha. Tổng tiết diện ngang của những cây có D
1.3
≥ 40cm là ≤ 2
m
2
/ha.
- Kiểu III
A
2
: Là rừng bị khai thác kiệt nhưng đã có thời gian phục hồi
nên
đã hình thành tầng cây tương lai, có độ tàn che 0,3-0,5. Tổng tiết diện
ngang từ 10-16 m
2
/ha. Tổng tiết diện ngang của những cây có D
1.3
≥ 40cm là
≤ 2 m
2
/ha.
- Kiểu III
A
3
: Là rừng bị khai thác mạnh, cấu trúc rừng ít nhiều đã bị
phá vỡ, rừng có 2 tầng trở lên, rừng còn chất lượng khai thác, có độ tàn che
0,5-0,7. Tổng tiết diện ngang từ 16-21 m
2

/ha.
+ Kiểu III
B
: Là trạng thái rừng bị tác động rất ít, cấu trúc rừng chưa bị
phá vỡ, rừng có 2 tầng trở lên, rừng còn giàu về trữ lượng, có độ tàn che
>0,7. Tiết diện ngang > 21m
2
/ha, tổng tiết diện ngang của
những

cây
có D
1.3
≥ 40cm là 2-5
m
2
/ha.

- Kiểu IV: Là trạng thái rừng nguyên sinh hoặc thứ sinh phục hồi đã
phát triển đến giai đoạn ổn định.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

7
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Tái sinh rừng diễn ra thường xuyên và liên tục, tuỳ theo điều kiện, loài
cây cụ thể mà nó diễn ra theo các cách và các phương thức khác nhau.
Xét về mặt sinh học, tái sinh rừng diễn ra theo 3 cách: Tái sinh hạt, tái
sinh chồi và tái sinh thân ngầm.
Phương thức tái sinh rừng gồm: Tái sinh tự nhiên, tái sinh nhân tạo và

xúc tiến tái sinh. Tuỳ theo điều kiện cụ thể và mục đích tái sinh mà áp
dụng phương thức tái sinh cho phù hợp (Nguyễn Xuân Cự và Đỗ Đình
Sâm, 2010) [10].
Tuy nhiên để rừng tái sinh được cần có những biện pháp bảo vệ và
phát triển rừng hợp lý. Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004 quy định:
“Bảo vệ rừng là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
Hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm nguyên tắc quản lý rừng
bền vững; kết hợp bảo vệ và phát triển rừng với khai thác hợp lý để phát huy
hiệu quả tài nguyên rừng; kết hợp chặt chẽ giữa trồng rừng, khoanh nuôi tái
sinh phục hồi rừng, làm giàu rừng với bảo vệ diện tích rừng hiện có; kết hợp
lâm nghiệp với nông nghiệp và ngư nghiệp; đẩy mạnh trồng rừng kinh tế gắn
với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản nhằm nâng cao giá trị sản phẩm
rừng” (Luật bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004). Như vậy trong luật Bảo vệ
và phát triển rừng quy định là phải có tái sinh rừng thì mới phát triển được
rừng, làm giàu rừng…[26].
1.2. Tình hình nghiên cứu
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trong lĩnh vực sinh thái học, các chuyên gia đã khẳng định rừng là một
hệ sinh thái hoàn chỉnh nhất. Thực vật rừng có sự biến động cả về chất và
lượng khi các yếu tố ngoại cảnh thay đổi. Rừng cây và con người có quan hệ
mật thiết với nhau. Vì vậy, cây rừng được con người quan sát, xem xét,
nghiên cứu từ xa xưa. Một trong khía cạnh con người nghiên cứu để phục hồi
lại rừng là tái sinh rừng. Nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên đã trải qua hàng
trăm năm, nhưng ở rừng nhiệt đới, vấn đề này được đề cập từ năm 1930 trở
lại đây.
Từ đầu thế kỷ 19 khi công nghiệp phát triển mạnh, nhu cầu gỗ ngày
một lớn, con người phải tập trung khai thác rừng tự nhiên và tiến hành tái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


8
sinh nhân tạo. Nhưng từ những thất bại tái sinh rừng nhân tạo ở Đức nhiều
nhà khoa học ủng hộ và đồng nhất quan điểm “Hãy quay trở lại với tái sinh
tự nhiên”.
Van steenis (1956, khi nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên nhiệt đới đã
nêu hai đặc điểm tái sinh phổ biến: Tái sinh phân tán liên tục của các loài cây
chịu bóng và kiểu tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng. Những nghiên cứu
của A. Obrevin (1938) tại các khu rừng nhiệt đới ở Châu Phi, còn đưa ra lý
luận bức khảm hay lý luận tái sinh tuần hoàn ) [40].
Thế hệ cây tái sinh có tổ thành giống hay khác biệt với lớp cây mẹ là
đặc điểm tái sinh rừng được nhiều nhà lâm sinh quan tâm đến, Richards
(1965) [35].
Ở rừng nhiệt đới số lượng loài cây trên một đơn vị diện tích quá lớn,
nên kinh doanh tất cả các loài cây đó rất khó có thể mang lại hiệu quả mong
muốn. Trong thực tiễn lâm sinh, người ta chỉ khảo sát những loài cây có giá
trị kinh tế và đáp ứng nhu cầu thị trường.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập những nguyên nhân ảnh
hưởng tới tái sinh tự nhiên và có thể chia thành hai nhóm tác động chính:
* Nhóm nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh rừng không có sự
can thiệp con người:
Nhân tố sinh thái bao gồm nhiều nhân tố khác nhau (ánh sáng, ẩm độ,
nhiệt độ…) và mỗi nhân tố có ảnh hưởng khác nhau đến tái sinh rừng.
Sự thiếu hụt ánh sáng của cây con dưới tán rừng là nhân tố sinh thái
được nhiều tác giả quan tâm và tìm hiểu. Nếu ở trong rừng, cây con chết vì
thiếu nước thì cũng không nên loại trừ do thiếu ánh sáng. Trong rừng mưa
nhiệt đới, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng chủ yếu đến phát triển cây con, còn
đối với sự nảy mầm và phát triển mầm non thường không rõ (Baur 1962) [3].
Nghiên cứu về tái sinh tự nhiên (TSTN) của rừng, các tác giả nhận
định tầng cây cỏ và cây bụi đã ảnh hưởng tới cây tái sinh các loài cây gỗ. Ở
quần tụ kín tán, tuy thảm cỏ phát triểm kém nhưng cạnh tranh dinh dưỡng và

ánh sáng của chúng vẫn ảnh hưởng đến cây tái sinh. Những lâm phần đã qua
khai thác, thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ sẽ là trở ngại lớn cho tái
sinh rừng. Ngoài ra Ghent (1969) còn nhận xét: Thảm mục, chế độ thủy
nhiệt, tầng đất mặt quan hệ với tái sinh rừng cũng cần được làm rõ. Hiển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

9
nhiên, trong những trường hợp cụ thể ảnh hưởng của động vật và lửa rừng có
thể gây những tác hại đến TSTN ở mức độ khác nhau [39].
Sự ảnh hưởng của cấu trúc quần tụ tới tái sinh đã được Andel (1981),
chứng minh độ dầy tối ưu cho sự phát triển bình thường cây gỗ là 0,6-0,7m.
Độ khép tán của quần tụ có quan hệ với mật độ và sức sống của cây con.
Trong sự cạnh tranh giữa thực vật về dinh dưỡng khoáng, ánh sáng, ẩm độ tùy
thuộc vào đặc tính sinh vật học, tuổi của mỗi loài và điều kiện sinh thái của quần
thể thực vật [38].
Khi nghiên cứu về mối quan hệ qua lại giữa cây con và quần thụ
Karpov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh tranh về dinh
dưỡng của đất, ánh sáng, độ ẩm và tính chất thuần nhất của quan hệ qua lại
giữa các thực vật tùy thuộc đặc tính sinh vật học, tuổi và điều kiện sinh thái
của quần thể thực vật. Nakhteenko (1973) thì cho rằng sự trùng hợp cao của
sự hấp thụ dinh dưỡng giữa 2 loài có thể gây cho nhau sự kìm hãm sinh
trưởng và làm tăng áp lực cạnh tranh giữa 2 loài.
Nhiều nghiên cứu tái sinh tự nhiên của rừng đều nhận thấy rằng cỏ và
cây bụi, qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng
của tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây tái sinh của các loài cây gỗ.
Những quần thụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng, thảm cỏ phát
triển kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ non không đáng kể. Ngược
lại những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện phát
sinh mạnh mẽ, trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở ngại rất lớn cho

tái sinh rừng (Bannikov, 1967; Vipper, 1973).
Trong rừng tự nhiên thì hiện tượng tái sinh hạt là chủ yếu, do đó sự ra
hoa kết trải của cây rừng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tái sinh. Cây rừng
ra hoa mang tính định kỳ rõ rệt, cây rừng ra hoa quả nhiều hay ít bị ảnh
hưởng sâu sắc của thời tiết. Nhiều nhà lâm học cho rằng biến động mùa hoa
quả cây rừng cần nghiên cứu theo các vùng địa lý khác nhau và các khía cạnh
cấu trúc, độ dày, độ khép tán, tuổi lâm phần.
* Nhóm nhân tố ảnh hƣởng đến tái sinh rừng có sự can thiệp
của con ngƣời:
Nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh rừng có sự tham gia của con người là
việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm tác động có mục đích vào
các lâm phần rừng tự nhiên. Từ các xử lý lâm sinh tác động vào các loài cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

10
tái sinh mục đích, các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều
phương thức chặt tái sinh điển hình như công trình của Kennedy (1935),
Taylor (1954), Gana (1960) ở Xurinam và Rosevear (1974) ở Nigiêria với
phương thức chặt dần tái sinh dưới tán lá; Brooks (1941), Ayolife (1952) với
phương thức chặt dần nhiệt đới ở Trinidat; Donis và Maudouz (1951, 1954)
với phương thức đồng nhất hóa tầng trên ở Zava; Wayatt (1961, 1963) với
phương thức chặt rừng đều tuổi ở Malaysia.
Một chuyên gia hàng đầu về lâm sinh nhiệt đới, ông Catinot (1974) với
nhiều thập kỷ kinh nghiệm ở rừng nhiệt đới Châu Phi, khi áp dụng các biện
pháp lâm sinh cho rừng tự nhiên; Ông rất quan tâm đến lớp cây tái sinh phía
dưới tán rừng. Ông cho rằng các nhà lâm sinh nhiệt đới sẽ không hoàn thành
trách nhiệm của mình nếu họ chỉ thay thế rừng tự nhiên bằng các khu rừng
trồng Thông và Bạch Đàn, ông cũng cho rằng bắt buộc phải làm, tuyệt đối
cần thiết là tìm ra phương pháp cho phép sử dụng các hệ sinh thái nguyên

sinh vốn có của nhiệt đới một cách có hiệu quả mà không phá vỡ nó.
Cùng quan điểm với Catinot, Rovet (1984) đã đưa ra những yêu cầu tối
thiếu, bắt buộc các giấy phép khai thác rừng phải thể hiện được cụ thể là:
muộn nhất là 2 năm trước khai thác phải tiến hành điều tra kết hợp với chặt
bỏ dây leo cây bụi; chỉ được khai thác những lâm phần có ít nhất 10 - 15 cây
thuộc loại giá trị kinh tế có D1.3 ≥ 60cm và phải có tái sinh đạt yêu cầu; phải
để lại ít nhất 5 - 7 cây mẹ gieo trồng có kích thước lớn, phân bố đều trên diện
tích; trong trường hợp cần thiết các lỗ trống hình thành do khai thác phải
được mở rộng thêm để thúc đẩy xúc tiến tái sinh tự nhiên. Quá trình sinh
trưởng, phát triển cây tái sinh, trên các lỗ trống phải được kiểm soát và cần thiết
phải chăm sóc ít nhất 10 năm sau khai thác.
Phân bố cây tái sinh tự nhiên là một vấn đề mà nhiều công trình đề cập
đến, đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Richards (1965), tác giả cuốn
rừng mưa nhiệt đới, Roller (1974) tổng kết các công trình nghiên cứu về phân
bố số cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét: Trong các ô tiêu chuẩn kích thước
nhỏ (1 x 1m, 1 x 1,5m) cây tái sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít
có phân bố điểm. Ở Châu Phi, trên cơ sở các số liệu thu thập Taylor (1954),
Barnard (1955) xác định số lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt,
cần thiết phải bổ sung bằng trồng rừng nhân tạo. Ngược lại, các tác giả
nghiên cứu về tái sinh tự nhiên nhiệt đới Châu Á như Bava (1954), Budowski
(1956), Kationt (1965) lại nhận định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

11
đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra
cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng [35].
Điều tra tái sinh tự nhiên có nhiều phương pháp khác nhau, trong đó
nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống do. Tác giả
Lowdermilk (1972) đã đề nghị, với diện tích ô dạng bản thông thường từ 1 -

4m
2
. Bên cạnh đó cũng có nhiều tác giả đề nghị sử dụng phương pháp điều
tra theo dải hẹp với các ô đo đếm có diện tích biến động từ 10 - 100m
2
.
Phương pháp này trong điều tra tái sinh sẽ khó xác định được quy luật phân
bố hình thái của lớp cây tái sinh trên mặt đất rừng. Để giảm sai số trong khi
thống kê Barnard (1950) đã đề nghị một phương pháp “điều tra chẩn đoán”,
theo đó kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển của
cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác nhau. Phương pháp này được áp dụng
nhiều hơn vì nó thích hợp cho từng đối tượng rừng cụ thể.
Khi điều tra và đánh giá tái sinh tự nhiên trong rừng nhiệt đới,
Loeschau (1977) đã đưa ra một số đề nghị như: để đánh giá một khu bằng
cách rút mẫu ngẫu nhiên, trừ trường hợp đặc biệt có thể dựa vào những nhận
xét tổng quát về mật độ tái sinh như nơi có lượng cây tái sinh rất lớn. Các số
liệu này sẽ là cơ sở cho các quyết định trong từng kế hoạch lâm sinh cụ thể,
đặc biệt là xét lâm phần có xứng đáng được chăm sóc hay không? Việc chăm
sóc cấp bách đến mức độ nào? Cường độ chăm sóc phải ra sao? Tác giả cũng
đề nghị những chỉ tiêu cần phải điều tra gồm có mật độ, chất lượng cây tái
sinh cũng như đường kính ngang ngực của những cây có giá trị kinh tế lớn
trong khoảng từ 1 cm (cây tái sinh đã đảm bảo) đến 12,6 cm (giới hạn dưới
của kích thước sản phẩm) [27].
Theo tính toán về mặt sai số cũng như về mặt tổ chức thực hiện thì các
ô được chọn là những hình vuông có diện tích là 25 m
2
dễ dàng xác lập bằng
gậy tre. Tất cả những cây tái sinh của những loài có giá trị kinh tế (đường
kính gốc = 1 ÷ 2,5 cm) có nguồn gốc hạt và thân thẳng đẹp sẽ được đếm và
đo hay ước lượng đường kính theo hai cấp 1 - 5cm và 5 - 12,5cm. Các ô đo

đếm được xác lập theo từng nhóm, mỗi nhóm gồm 4 ô, bố trí liên tiếp theo
kiểu phân bố hệ thống không đồng đều. Như vậy các ô vừa đại diện được đầy
đủ toàn bộ khu vực điều tra, mặt khác những nhân tố điều tra vừa có dạng
gần với phân bố chuẩn.
Qua những kết quả nghiên cứu về tái sinh rừng của các nhà sinh thái
học và lâm sinh học đã làm sáng tỏ phần nào các đặc điểm tái sinh, các nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

12
tố ảnh hưởng đến tái sinh và những nguyên lý chung để xây dựng phương
thức xúc tiến tái sinh rừng. Tuy nhiên những nghiên cứu về tái sinh rừng
nhiệt đới nói chung vẫn chưa thật đầy đủ hệ thống cho từng loại rừng, từng
trạng thái rừng cụ thể.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, các nhà khoa học Việt Nam bắt đầu
nghiên cứu về tái sinh rừng. Một trong những nhà khoa học của Việt Nam
tiên phong nghiên cứu về tái sinh là Thái Văn Trừng. Trong những công trình
nghiên cứu của ông vào giai đoạn (1963, 1978) về “Thảm thực vật rừng Việt
Nam”, Ông đã nhấn mạnh ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và điều
khiển quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên sinh và thứ sinh. §ång thêi
theo ông, có một nhóm nhân tố sinh thái trong nhóm khí hậu đã khống chế và
điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong thảm thực vật rừng, đó là nhân tố
ánh sáng. Nếu các điều kiện khác của môi trường như đất rừng, nhiệt độ, độ
ẩm dưới tán rừng chưa thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có
những biến đổi lớn và cũng không diễn thế một cách tuần hoàn trong không
gian và thời gian.
Trong giai đoạn 1962 - 1969, Viện Điều tra Qui hoạch rừng đã có điều
tra tình hình tái sinh tự nhiên cho các vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc
Việt Nam như: Yên Bái (1965), Quỳ Châu sông Hiếu Nghệ An (1962 -

1964), Quảng Bình (1969), Lạng Sơn (1969).
Khi đánh giá tố thành rừng nhiệt đới, Nguyễn Hữu Hiến (1970) đã
cho rằng loài cây tham gia vào loại hình thì nhiều, trên diện tích một ha có
khi có tới hàng trăm loài, cùng một lúc không thể kể hết được. Vì vậy,
người ta chỉ kể đến loài nào có số lượng cá thể nhiều nhất trong các tầng
quan trọng (tính theo loài cây ưu thế hoặc nhóm loài ưu thế) tác giả đã đưa
ra công thức tính tổ thành là X ≥ N/a với X là trị số bình quân cá thể của một
loài, N là số cây điều tra và a là số loài điều tra. Một loài được gọi là thành
phần chính của một loại hình phải có số lượng cá thể bằng hoặc lớn hơn X .
Đây là một cách đánh giá thuận tiện trong khi phân tích nghiên cứu phân
bố các loài, diễn thế và sự phân bố các quần lạc thực vật [15].
Qua những công trình nghiên cứu về tái sinh rừng tự nhiên ở miền Bắc
Việt Nam, tác giả Vũ Đình Huề (1975) đưa ra kết luận: Tái sinh tự nhiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

13
rừng miền Bắc Việt Nam có đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Trong rừng
nguyên sinh tổ thành cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ, ở rừng thứ sinh
tồn tại nhiều cây gỗ mềm kém giá trị. Hiện tượng tái sinh theo đám tạo nên sự
phân bố số cây không đều trên mặt đất rừng. Từ những kết quả trên tác giả
xây dựng tiêu chuẩn đánh giá tái sinh tự nhiên áp dụng cho các đối tượng
rừng lá rộng ở miền Bắc nước ta [21].
Nghiên cứu về bảo đảm tái sinh trong khai thác rừng, Phùng Ngọc Lan
(1984) đã cho biết do cây mẹ có tính chịu bóng, cho nên một số lượng lớn
cây tái sinh phân bố chủ yếu ở cấp chiều cao thấp, trừ một số loài cây ưa sáng
cực đoan, tổ thành loài tái sinh dưới tán rừng ít nhiều đều lặp lại giống tổ
thành tầng cây cao của quần thể. Kết quả điều tra khu rừng chưa khai thác ở
Tam Tấu, Lâm trường Bắc Sơn - Lạng Sơn cho thấy có gần 30 loài tái sinh
với số lượng từ 14.000 - 16.000 cây/ha. Điều đó chứng tỏ tiềm năng phong

phú của tái sinh rừng ở nước ta, tác giả cũng đã nhận xét phương thức khai
thác có ảnh hưởng quyết định đến tái sinh rừng và thực tiễn đã cho thấy:
Thông qua việc xác định tổ thành loài cây giữ lại gieo giống, điều tiết độ
khép tán hợp lý không chỉ có tác dụng điều khiển số lượng, chất lượng tái
sinh mà còn điều khiển được tổ thành loài cây tái sinh phù hợp với ý muốn và
tác giả cũng đã đưa ra đề nghị. Nếu số lượng và chất lượng cây mục đích tái
sinh hiện có không đủ thì cần tiến hành trồng dặm để đảm bảo trữ lượng cho
các luân kỳ khai thác tiếp theo và phương án tối ưu là lựa chọn những loài
cây mục đích phù hợp với loài cây ưu thế của quần thể vì nguồn giống có
nhiều và đã thích hợp với hoàn cảnh sinh thái [25].
Nguyễn Hồng Quân (1984) đã nghiên cứu kết hợp chặt chẽ khai thác
với tái sinh và nuôi dưỡng rừng, đối với rừng không đồng tuổi cần thực hiện
cả 4 nội dung chủ yếu là: Thu hoạch cây thành thục, chặt tái sinh, chặt nuôi
dưỡng và chuẩn hóa cấu trúc rừng về trạng thái mong muốn. Đối chiếu 4 nội
dung nói trên vào thực tế kinh doanh rừng ở nước ta thì cách khai thác của ta
chỉ đạt được một nội dung duy nhất là thu hoạch sản phẩm còn 3 nội dung kia
hầu như bị bỏ rơi nên đã thể hiện rất nhiều nhược điểm như chủng loại cây
phi mục đích ngày càng tăng, kích thước cây tái sinh ngày càng giảm và từ đó
tác giả cũng đã đưa ra những biện pháp trước mắt khắc phục tình trạng trên
để khai thác vẫn bảo đảm được tái sinh và nuôi dưỡng rừng [28].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

14
Vũ Tiến Hinh (1991), khi nghiên cứu về đặc điểm tái sinh của rừng tự
nhiên tác giả đã đề cập đến đặc điểm tái sinh theo thời gian của cây rừng và
ý nghĩa của nó trong điều tra cũng như trong kinh doanh rừng. Tác giả đã sử
dụng phương pháp chặt hết cây gỗ D1.3 ≥ 8cm ở hai ô tiêu chuẩn (một ô là
lâm phần sau phục hồi trên đất rừng tự nhiên sau khai thác kiệt và một ô
thuộc trạng thái rừng IIIA3. Kết quả nghiên cứu tác giả cho biết: Với đối

tượng rừng Sau sau phục hồi phân bố số cây theo đường kính và theo tuổi
đều là dạng phân bố giảm. Điều đó, chứng tỏ mặc dù là loài cây ưa sáng
mạnh, loài Sau sau vẫn có đặc điểm tái sinh liên tục qua nhiều thế hệ, càng
về sau tốc độ tái sinh càng mạnh. Đối với rừng tự nhiên thứ sinh hỗn giao
thì phân bố số cây theo tuổi của cây cao và cây tái sinh đều có dạng phân bố
giảm và nhìn chung toàn lâm phần tự nhiên cây rừng tái sinh liên tục và
càng ở tuổi nhỏ số cây càng tăng. Tác giả còn cho biết hệ số tổ thành tính
theo phần trăm của tầng cây cao và tầng cây tái sinh có sự liên hệ chặt chẽ.
Đa phần các loài có hệ số tổ thành tầng cây cao càng lớn thì hệ số tổ thành
tầng cây tái sinh cũng vậy và chúng có quan hệ đường thẳng theo phương
trình: n% = a + b.N% (với n% và N% lần lượt là hệ số tổ thành tính theo
phần trăm số cây của tầng tái sinh, tầng cây tự nhiên và tác giả có đưa ra đề
nghị: Do khó nhận biết tên cây của tầng tái sinh nên có thể sử dụng quan hệ
giữa hệ số tổ thành tầng tái sinh và tầng cây cao để xác định hệ số tổ thành
tầng tái sinh [16].
Khi nghiên cứu quy luật phân bố cây tái sinh tự nhiên rừng lá rộng
thường xanh hỗn loài vùng Quỳ Châu - Nghệ An, tác giả Nguyễn Duy
Chuyên (1995) đã thu được kết quả nghiên cứu về phân bố cây tái sinh theo
chiều cao, nguồn gốc và chất lượng, tác giả cho biết trong tổng số 13.657 ô
đo đếm có 8.444 ô có ít nhất một cây tái sinh. Thống kê tập hợp số lượng cây
này theo chiều cao, nguồn gốc và chất lượng tác giả cho thấy 35% cây tái
sinh có chiều cao từ 2m trở lên, 80% cây tái sinh có nguồn gốc hạt, 20% cây
chồi, 47% cây tái sinh chất lượng tốt, 37% cây tái sinh có chất lượng trung
bình và 16% cây chất lượng xấu. Phân bố tổ thành cây tái sinh tác giả cho
thấy cây tái sinh tự nhiên trong khu vực gồm 46 loài thuộc 22 họ. Trong đó
có 24 loài cây có giá trị kinh tế và 22 loài cây có giá trị kinh tế thấp, Ràng
ràng và Máu chó là 2 loài có tần số xuất hiện thực tế lớn nhất trên 20%. Về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


15
phân bố số lượng cây tái sinh tác giả cho thấy ở rừng giàu, có chất lượng tốt
(rừng loại IV và IIIB) có số cây tái sinh lớn nhất (3.200 - 4.000 cây/ha). Ở
rừng nghèo số cây tái sinh chỉ có 1.500 cây/ha (rừng IIIA1), trong rừng thuần
tre nứa số cây lá rộng tái sinh tự nhiên thấp nhất 527 cây/ha. Trong toàn lâm
phần phân bố lý thuyết của cây tái sinh tự nhiên ở rừng trung bình (IIIA2) cây
tái sinh tự nhiên có dạng phân bố Possion, các loại rừng khác cây tái sinh có
phân bố cụm [8].
Tác giả Nguyễn Văn Trương (1993) đã đề cập đến cơ sở sinh thái rừng
trong tái sinh rừng, ông cho rằng muốn phát huy tái sinh tự nhiên và nhân tạo
thì phải hiểu biết hoàn cảnh sinh thái của các loài cây mục đích mà chúng ta
cần tái sinh. Khi khai thác cây đủ kích thước cho phép đã gây nên một sự
thay đổi đột ngột nguy hại cho cây tái sinh, chỗ trống mở ra làm cho đất nóng
và khô, không cho phép hạt nảy mầm, những hạt nảy mầm thì bị nắng đốt;
đất khô mà chết rụi hết, ngược lại chỗ có ít cây lớn thì lại quá rậm rạp, cây
thảm tươi, dây leo, cây bụi chằng chịt, hạt nảy mầm được thì cây con lại
không có khoảng sống. Tác giả cho rằng ta vẫn đánh giá đúng ý nghĩa kinh tế
và sinh thái của tái sinh tự nhiên nhưng trong hành động thực tiễn thì chính
chúng ta lại vi phạm quy luật sinh thái chi phối chặt chẽ sự tái sinh và tăng
trưởng cây rừng vốn lâu đời thích nghi với hoàn cảnh sinh thái rừng. Vì thế,
tác giả đã nhấn mạnh cần hiểu biết đầy đủ về hoàn cảnh sinh thái để phát huy
tái sinh tự nhiên được tốt nhất [34].
Tiếp tục nghiên cứu vai trò của tái sinh và phục hồi rừng tự nhiên ở các
vùng miền Bắc, Trần Xuân Thiệp (1996) đã cho biết: Ở vùng Tây Bắc, dù ở
vùng thấp hay vùng cao đều có khả năng tái sinh tự nhiên khá tốt về số lượng
cây từ 500 - 8.000 cây/ha. Rừng Tây Bắc thể hiện rõ các mặt ảnh hưởng đến
chất lượng tái sinh, nghèo về trữ lượng, diễn thế rừng ở nhiều vùng xuất hiện
nhóm cây ưa sáng, chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và nhỡ là chủ yếu
và nhóm loài cây lá kim rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ.
Vùng trung tâm tác giả nhận xét sự nghèo kiệt nhanh chóng của rừng đưa đến

số lượng và chất lượng tái sinh tự nhiên vào loại thấp, số lượng cây tái sinh
thấp hơn nhiều so với khu vực Tây Bắc nhưng khác với Tây Bắc vùng này
môi trường rừng còn giữ được tốt hơn nên ít thể hiện chiều hướng cây ưa
sáng chịu hạn xuất hiện trong tái sinh. Vùng Đông Bắc, tác giả cho thấy số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

16
lượng cây tái sinh trong rừng tự nhiên biến động bình quân từ 8.000 - 12.000
cây/ha lớn hơn các vùng khác, về chất lượng: có một tập đoàn cây thứ sinh
kích thước trung bình chiếm tổ thành ưu thế trong các địa phương như: Chẹo,
Giẻ, Trám, Sồi phảng, Sau sau, Lõi thọ,…phát triển thành cây tái sinh có
triển vọng (H ≥ 1,5m). So với các vùng khác, vùng Đông Bắc có khả năng tái
sinh tự nhiên tốt. Đối với các vùng Bắc Trung Bộ tác giả nhận xét tái sinh tự
nhiên ở vùng này khá thuận lợi và đây là vùng có tái sinh tự nhiên tốt nhất ở
miền Bắc nước ta. Số lượng cây tái sinh từ 7.000 ÷ 10.000 cây/ha, trong đó
25% là số cây có triển vọng trở thành gỗ lớn, rừng IIIA1 nghèo tái sinh nhất là
ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng đạt được đến 4.000 ÷ 5.000 cây/ha với
số cây triển vọng từ 1.000 ÷ 1.200 cây/ha, về chất lượng tỷ lệ cây gỗ tái sinh
xuất hiện với tần suất cao [31].
Năm 1987, Lâm Công Định trong nghiên cứu về tái sinh, ông cho rằng
tái sinh là chìa khóa để quyết định nội dung điều chế rừng. Tác giả kết luận
hiệu quả của việc điều chế đối với một khu rừng cụ thể là phải hướng tới đạt
được 3 yêu cầu mấu chốt sau đây: 1- Giữ vững được vốn rừng về cả mấy mặt
hiện tại trong đó: Địa bàn, diện tích, thành phần loài cây mục đích, năng suất
sinh học, sản lượng, phẩm chất vật liệu và giá trị môi sinh. 2 - Đảm bảo được
sản lượng khai thác hàng năm theo chu kỳ ổn định. 3 - Nâng thêm được giá
trị vốn rừng chủ yếu về 3 mặt: Thành phần loài cây mục đích, năng suất sinh
học và sản lượng thu hoạch. Ông nhấn mạnh tất cả 3 yêu cầu trên hoàn toàn
tùy thuộc vào khả năng phương pháp và điều kiện đảm bảo tái sinh. Nghĩa là

cuối cùng tùy thuộc vào đặc tính sinh học của từng loài cây, quy luật lâm học
của rừng, hiệu lực tác động của các biện pháp kinh tế và ảnh hưởng tốt xấu
của từng cách thức khai thác cùng với từng loại dụng cụ máy móc thi công,
không có đầy đủ hiểu biết trên để làm cơ sở lựa chọn con đường tái sinh khai
thác tối ưu chắc chắn không thể đảm bảo được tái sinh [14].
Ngô Văn Trai (1999) đã nghiên cứu đặc điểm tái sinh rừng tự nhiên
sau khai thác chọn làm cơ sở đề xuất một số biện pháp kinh tế xúc tiến tái
sinh tự nhiên cho kinh doanh gỗ lớn ở Lâm trường Trạm Lập huyện K’Bang
– Gia Lai. Tác giả đã có một số kết luận: Cấu trúc cấu thành loài cây gỗ lớn ở
rừng IIIB và IVB trước và sau khai thác không có sự thay đổi lớn. Tổ thành
cây mẹ sau khai thác có quan hệ chặt chẽ với tổ thành loài cây tái sinh. Mật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

17
độ cây tái sinh sau khai thác ở trạng thái IIIB và IVB ở các rừng độ khai thác
khác nhau biến động từ 6.500 - 16.480 cây/ha. Đặc biệt có một số loài cây tái
sinh lớn có tái sinh cao đạt trên 500 cây/ha như: Ràng ràng mít, Re bầu, Giổi
xanh, Thông nàng,…về chất lượng thì tỷ lệ cây tốt ở 2 trạng thái trên chiếm
trên 62,46%, cây cao nhất ở rừng IVB đạt 79%, tỷ lệ cây tái sinh xấu đều
dưới 15%. Các loài cây tái sinh gỗ lớn xuất hiện lớn hơn 50% ở trạng thái
IIIB (cường độ khai thác 26%) là 6 loài và cường độ khai thác là 45% là 6
loài còn trạng thái IVB với cường độ khai thác là 30% là 8 loài và cường độ
khai thác 39% là 7 loài thấp nhất là ở cường độ khai thác 51% chỉ có 5 loài từ
đó tác giả cũng đưa ra một số đề nghị về các biện pháp xúc tiến tái sinh tự
nhiên để kinh doanh gỗ lớn ở Lâm trường Trạm Lập [33].
Họ Dẻ tuy đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Song do địa
hình, tiểu khí hậu từng vùng đã tạo nên khu phân bố riêng. Tình hình sinh
trưởng và phát triển của mỗi vùng đã tạo nên các tài liệu đó chỉ có ý nghĩa
tham khảo, đặc biệt là các tài liệu nghiên cứu tái sinh về từng loài trong họ

Dẻ là chưa có. Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên
của Việt Nam nói chung và khu vực Lục Sơn nói riêng còn ít. Đặc biệt là
các công trình nghiên cứu riêng tái sinh tự nhiên của loài Dẻ Gai Ấn Độ
chưa có, phần lớn các tác giả mới chỉ nghiên cứu về đặc điểm lâm học. Vì
vậy, để bổ xung thêm cho các nghiên cứu trên, luận văn này tiến hành
Nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây Dẻ gai Ấn Độ
(Castanopsis Indica A.D.C) tại xã Lục Sơn huyện Lục Nam.
1.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý: Lục Sơn là một xã miền núi nằm ở phía Đông Bắc
Thành phố Bắc Giang có diện tích tự nhiên là 9.662,0 ha, dân số tính tới thời
điểm điều tra là 6.431 người với 7 dân tộc anh em chung sống trong đó dân
tộc thiểu số chiếm trên 52%, toàn xã có 17 thôn bản. Với vị trí địa lý:
- Phía Đông giáp huyện Sơn Động.
- Phía Tây giáp xã Trường Sơn.
- Phía Nam giáp huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
- Phía Bắc giáp xã Bình Sơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

18
* Địa hình: Lục Sơn có địa hình của một xã miền núi, với những dãy
núi cao. Đặc biệt xã được bao quanh của cánh cung Yên Tử, chính dãy núi
này nằm từ phía Đông đến phía Tây của xã và cũng là phân cách danh giới
của xã Lục Sơn với tỉnh Quảng Ninh.
* Khí hậu: Xã Lục Sơn mang đặc điểm chung của khí hậu vùng miền
núi phía Bắc. Khí hậu được chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4
đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
- Nhiệt độ trung bình năm là 21,2
0

C.
- Nhiệt độ tối cao là 37,9
0
C.
- Nhiệt độ tối thấp là 6,3
0
C.
- Độ ẩm không khí trung bình 80 - 85%.
- Lượng mưa tập trung vào tháng 6, 7, 8 chiếm 70% lượng mưa cả
năm. Vào mùa này, hiện tượng úng lụt dễ xảy ra.
Ngoài các yếu tố khí hậu trên, hàng năm xã Lục Sơn còn chịu ảnh
hưởng của gió lớn, kèm theo mây mưa gây ra lũ lụt cục bộ cản trở việc sản
xuất và đi lại của nhân dân.
* Các nguồn tài nguyên
- Tài nguyên nước: Toàn xã có 18,6ha sông suối; 3,7ha đất thủy lợi và
mặt nước chuyên dùng; 11,3ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Đây là nguồn
nước mặt tự nhiên quý giá phục vụ cho một phần nhu cầu sản xuất và sinh
hoạt của nhân dân, nhưng chưa được khai thác một cách triệt để và có hiệu
quả để đưa vào sản xuất và sinh hoạt. Nguồn nước ngầm ở độ sâu trung bình
8m đến 15m, đây là nguồn nước tương đối sạch dùng cung cấp cho nhân dân
trong xã [36].
- Tài nguyên rừng: Xã Lục Sơn có diện tích rừng là 8.324 ha, trong
đó: rừng do cơ quan Bảo tồn Tây Yên tử quản lý 2.351 ha, Công ty Lâm
nghiệp Mai Sơn quản lý 2.868,30 ha, rừng do xã quản lý là 3.104,70 ha, trong
đó có 1.699 ha rừng sản xuất, 165 ha rừng Dẻ. Đây là cây cho thu nhập cao
cho đồng bào dân tộc Lục Sơn, hàng năm sản lượng Dẻ ước tính khoảng 500
triệu đồng. Diện tích trồng rừng kinh tế là 465 ha, chủ yếu là cây Keo lai và
Bạch đàn [36].
- Tài nguyên đất: Theo báo cáo quy hoạch sử dụng đất đai xã Lục Sơn
năm 2011, hiện trạng đất đai xã Lục Sơn được chia chi tiết theo bảng sau:


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

19
Bảng 1.1. Hiện trạng sử dụng đất xã Lục Sơn năm 2011
Đơn vị tính: ha
Loại đất
Diện
tích
Phân loại theo đối tƣợng sử dụng
Đất chƣa
dao, cho
thuê, sử
dụng
Hộ gia
đình, cá
nhân
Các tổ
chức
kinh tế
UBND xã
Các tổ
chức
khác
Tổng điện tích
9.662,0
648,61
2.954,20
2.984,99
2.363

710,85
1. Đất nông nghiệp
8.775,80
616,80
2.868,30
2.939,70
2.351
0.00
1.1 Đất sản xuất nông
nghiệp
451,80
451,8




1.1.1. Đất trồng cây hàng
năm
232,96
232,96




1.1.2. Đất vườn tạp
38,34
38,34





1.1.3. Đất trồng cây lâu
năm
164,00
164,00




1.1.4. Đất cỏ mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản
16,50
16,50




1.2. Đất lâm nghiệp
8.324,0
165,0
2.868,3
2.939,7
2.351

1.2.1. Đất rừng đặc
dụng, rừng phòng hộ
3.591,7
0,00
0,00
1.240,7

2.351

1.2.2. Đất rừng sản xuất
4.732,3
165,0
2.868,3
1.699


2. Đất phi nông nghiệp
175,35
31,81
85,9
45,29
12,35

2.1. Đất chuyên dùng
143,59
0,5
85,9
45,29
12,35

2.2. Đất ở
31,76
31,76





3. Đất chƣa sử dụng
710,85




710,85
3.1. Đất bằng chưa sử
dụng
8,00




8,00
3.2. Đất đồi núi chưa sử
dụng
702,85




702,85
(Nguồn: UBDN xã Lục Sơn) [36]
Đất sản xuất nông nghiệp xã Lục Sơn chia thành 2 loại chính:
+ Đất đồi núi chiếm trên 95,90% tổng diện tích đất tự nhiên. Đất
được hình thành trên phiến thạch và đá mẹ có màu vàng đỏ, tầng đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


20
mỏng, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, đất nghèo dinh dưỡng
và có độ dốc khá. Loại đất này thích hợp cho cây công nghiệp lâu năm và
cây lâm nghiệp [36].
+ Đất ruộng: Chủ yếu là do tích tụ phù sa của các sông suối, đất có tầng
dày, màu xám đen, hàm lượng mùn, đạm ở mức khá, hàm lượng lân, kali ở mức
trung bình đến khá, loại đất này thích hợp cho loại cây lương thực và cây màu
[36].
1.3.2. T
Tình hình kinh tế-xã hội năm 2011 tiếp tục có sự chuyển biến tích cực,
hầu hết trên các lĩnh vực sản xuất Nông-Lâm-Ngư nghiệp, năng suất và sản
lượng, xây dựng cơ bản, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ổn định.
a, Thực trạng phát triển kinh tế
* Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ.
Sản xuất công nghiệp phát triển tăng dần và đã thu được những thành
quả. Những sản phẩm chính như: Xay xát lương thực, gỗ xẻ, cơ khí gò hàn,
đóng mới bàn ghế các loại.v.v [36]
* Sản xuất nông lâm nghiệp.
- Trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng 451,8 ha. Trong đó, Cây
lúa vụ chiêm xuân 196,3 ha, năng suất bình quân 63,8 tạ/ha. Sản lượng
1.252,4 tấn; Bình quân sản lượng lương thực quy thóc đạt 455
kg/người/năm. Tổng giá trị ước cho thu hoạch khoảng 3 tỷ đồng [36].
- Chăn nuôi: Tổng đàn Trâu có 455 con; đàn Bò 136 con; đàn Lợn
6530 con; đàn gia cầm 30 500 con, tăng 25 % so cùng kỳ 2010; đàn Dê 171
con [36].
- Thuỷ sản: UBND xã chỉ đạo tận dụng các diện tích ao hồ để thả cá.
Toàn xã có 16,5 ha cho thu hoạch 38,5 tấn cá các loại [36].
- Lâm nghiệp: Công tác trồng, chăm sóc, khoanh nuôi, bảo vệ rừng tái
sinh được quan tâm chỉ đạo. Trồng mới được 65 ha rừng, trồng rừng tập
trung là theo Quyết định 147/QĐ- CP 65 ha đạt 81,5 % KH năm. Diện tích

bảo vệ rừng tự nhiên theo dự án 661 là 1.515 ha, với 776 hộ, độ che phủ
rừng đạt 68 % tăng 0,5 % so với cùng kỳ năm 2010. Diện tích cây Dẻ là 600
ha. Nguồn thu tư rừng trồng ước đạt 1.200 m
3
gỗ keo bạch đàn [36].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

21
b, Tình hình dân số và lao động của xã Lục Sơn
Dân số 1.700 hộ, tăng 8,4 %; 6.431 khẩu tăng 0.5% so với năm 2010.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,13 % so với cùng kỳ 2010. Mức sinh 150
tăng 150 % so với cùng kỳ năm 2010 [36].
c, Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng của xã Lục Sơn
* Xây dựng cơ bản: Các công trình cơ bản của xã đều đã được xây dựng.
Nhưng để đáp ứng kịp thời, trong thời gian tới cần phải quy hoạch và xây dựng
thêm một số công trình công cộng và phân khu chức năng khác theo quy hoạch
xây dựng khu trung tâm [36].
* Giao thông: Trong những năm qua, phong trào làm đường giao thông
phát triển khá mạnh. Một số tuyến đường giao thông chính được đầu tư mở
rộng, các tuyến đường giao thông liên thôn và các tuyến đường ra đồng, lên
đồi bắt đầu được đầu tư sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương
buôn bán của dân cư [36].
* Nguồn điện: Đến nay 100% hộ dân cư trong thị trấn đều đã sử dụng
điện nên đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được nâng cao [36].
* Y tế: Trạm Y tế Có tổng số 06 cán bộ, nhân viên y tế [36].
* Giáo dục: Công tác giáo dục đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu, kế hoạch
và nhiệm vụ năm học 2010-2011, xây dựng chỉ tiêu năm học 2011-2012, sự
nghiệp giáo dục được giữ vững ngày càng phát triển, chất lượng giáo dục
ngày được nâng lên [36].












Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

22
CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng
Cây Dẻ gai Ấn Độ (Castanopsis Indica A.D.C) ở trạng thái rừng IIIA
2

và IIIA
3
.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Tháng 5/2011 đến tháng 10/2012.
- Địa điểm: Xã Lục Sơn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của cây hạt dẻ gai Ấn Độ.

2.4. Nội dung nghiên cứu
Căn cứ vào mục tiêu và đối tượng nghiên cứu, nội dung của đề tài
được xác định như sau:
2.4.1. Một số đặc điểm hình thái và vật hậu của loài Dẻ gai Ấn Độ
2.4.2. Một số đặc điểm sinh thái nơi loài Dẻ gai Ấn Độ phân bố
2.4.3. Một số đặc điểm cấu trúc quần xã thực vật rừng ảnh hưởng đến
TSTN của cây Dẻ gai Ấn Độ ở các trạng thái IIIA2 và IIIA3
- Một số đặc điểm cấu trúc của rừng.
- Cấu trúc tổ thành tầng cây cao.
- Cấu trúc tầng thứ.
- Mật độ tầng cây cao.
- Thành phần loài cây đi kèm.
- Đặc điểm phân bố số cây N/Hvn của Dẻ gai Ấn Độ.
- Cấu trúc độ tàn che tầng cây cao.
2.4.4. Một số đặc điểm tái sinh của loài Dẻ gai Ấn Độ ở trạng thái rừng
IIIA
2
và IIIA
3

- Cấu trúc tổ thành loài cây tái sinh.
- Mật độ cây tái sinh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

23
- Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao và theo nguồn gốc.
- Ảnh hưởng của tầng cây bụi, thảm tươi.
- Phân bố tần suất cây tái sinh.
- Chất lượng cây tái sinh.

2.4.5. Khả năng tái sinh của Dẻ gai Ấn Độ ở các trạng thái rừng IIIA
2

IIIA
3
do các tác động của con người
2.4.6. Đề xuất một số biện pháp bảo vệ tái sinh tự nhiên cho cây Dẻ gai Ấn
Độ ở các trạng thái rừng IIIA2 và IIIA3
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm về phương pháp luận
- Về quan niệm tái sinh rừng: Rừng là một hệ sinh thái, tái sinh
rừng là tái sinh của một hệ sinh thái. Tái sinh rừng là quá trình phục hồi
thành phần cơ bản của rừng, biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng là sự
xuất hiện một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn
cảnh rừng, lỗ trống trong rừng, rừng sau khai thác, trên đất rừng sau
nương rẫy…. Phùng Ngọc Lan (1986) [23] tái sinh rừng thúc đẩy quá
trình hình thành cân bằng sinh học trong rừng, đảm bảo cho rừng tồn tại
liên tục và sử dụng tài nguyên rừng bền vững.
- Khái niệm về cây tái sinh được quan niệm trong đề tài này bao
gồm những cây con của loài Dẻ gai Ấn Độ sống dưới tán rừng, chiều cao
thấp hơn tán rừng chính.
- Tái sinh rừng có quy luật riêng và trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau. Tái sinh hạt trải qua
3

giai
đoạn: Ra hoa kết quả và phân tán hạt
giống, giai
đoạn hạt giống nảy mầm, giai đoạn sinh trưởng cây tái sinh.
Giai đoạn sinh

trưởng cây tái sinh gồm có 2 thời kỳ: Cây mạ và cây con.
Thời kỳ cây mạ là giai đoạn cây tái sinh có hình thái chưa ổn định, dễ bị
thảm tươi cạnh tranh về dinh dưỡng khoáng, độ ẩm và ánh sáng. Thời kỳ
cây con là giai đoạn cây tái sinh có tính chịu bóng giảm, tính ổn định cao
vượt khỏi tầng thảm tươi. Sử dụng đồng hoá tổng hợp chất hữu cơ từ môi
trường để nuôi cấy đến khi cây rừng đạt chiều cao tham gia vào tán rừng thì
kết thúc giai đoạn tái sinh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

24
- Về chất lượng tái sinh: Căn cứ vào hình thái chia thành 3 cấp Ngô
Văn Trai (1999) [33]:
+ Cây tốt (A) là những cây có tán lá phát triển đều đặn, tròn, xanh
biếc, có trục chính rõ ràng.
+ Cây trung bình (B) là những cây có tán lá thưa, số lá ít, tăng trưởng
chiều cao ít hơn hoặc bằng so với chồi bên.
+ Cây xấu (C) là những cây có tán lá kém phát triển, lệch tán,
chồi ngọn gần như không phát triển, lá gần như tập trung ở ngọn, cây
cong queo, bị sâu bệnh.
- Tiểu hoàn cảnh rừng như tiểu điều kiện khí hậu luôn là những
nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến số lượng và chất lượng của quá
trình tái sinh rừng.
Trong đó tầng cây cao và cây bụi thảm tươi là nhân tố chi phối tiểu
hoàn cảnh rừng. Các biện pháp bảo vệ tái sinh rừng nhằm giải quyết mối
quan hệ giữa các tầng cây của quần xã thực vật khác nhau. Vì vậy, việc tìm
ra các nhân tố ảnh hưởng của tầng cây cao và cây bụi thảm tươi đến cây tái
sinh là việc làm hết sức cần thiết.
- Tái sinh rừng tự nhiên là quá trình tạo thành thế hệ rừng mới bằng
con đường tự nhiên, về cơ bản không có sự tác động của con người. Kết

quả của tái sinh tự nhiên phụ thuộc vào qui luật khách quan của tự nhiên.
Quá trình tái sinh tự nhiên thì ít đạt được kết quả mong muốn. Chúng ta
cần phải tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm của tái sinh tự nhiên, nhằm lợi
dụng được năng lực gieo giống và tiểu hoàn cảnh rừng sẵn có đồng thời
kết hợp với các biện pháp bảo vệ tái sinh tự nhiên. Muốn giải quyết vấn
đề trên thì cần phải nắm được các đặc điểm tái
sinh tự nhiên của loài Dẻ
gai Ấn Độ trong từng trạng thái rừng cụ thể.

2.5.2. Phương pháp xác định vị trí nghiên cứu
Căn cứ vào thảm thực vật và địa hình đề tài nghiên cứu chia làm 2 khu:
- Khu vực 1: Trạng thái rừng IIIA
2
có Dẻ gai Ấn độ tái sinh thuộc xã
Lục Sơn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

25
- Khu vực 2: Trạng thái rừng IIIA
3
có Dẻ gai Ấn độ tài sinh thuộc xã
Lục Sơn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
2.5.3. Phương pháp thu thập số liệu
* Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:
Thu thập kế thừa các tài liệu cơ bản về khu vực nghiên cứu có liên
quan đến đề tài.
+ Tài liệu về điều kiện tự nhiên và dân sinh kinh tế trong khu vực
nghiên cứu.
+ Các loại bản đồ chuyên dùng của khu vực nghiên cứu.

+ Tài liệu khí tượng của trạm khí tượng thuỷ văn của tỉnh Bắc Giang.
+ Các tài liệu tham khảo về lĩnh vực nghiên cứu của các tác giả trong
và ngoài nước.
+ Các công trình nghiên cứu của các tác giả khác liên quan đến khu
vực và vấn đề nghiên cứu.
* Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp:
1) Lập ô tiêu chuẩn (OTC) và dung lƣợng mẫu:
a. Lập OTC điển hình để nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng có Dẻ
gai Ấn Độ tái sinh phân bố:
- Ô tiêu chuẩn phải bố trí tại các vị trí có tính đại diện cao ở 2 khu vực
nghiên cứu. Địa hình trong ô phải tương đối đồng đều, các loài cây phân bố
tương đối đều, cây sinh trưởng bình thường, ô tiểu chẩn không đi qua các
khe, qua đỉnh hoặc có đường mòn hay ô tô chạy qua.
- Phương pháp lập OTC: Sử dụng địa bàn, thước dây để đo đạc (có thể
lập theo phương pháp tam giác vuông Pitago).
- Tổng số OTC là 12 ô, trong đó khu vực 1 là 6 ô, khu vực 2 là 6 ô.
Diện tích mỗi OTC là 1.000m
2
(20m x 50m; 25m x 40m), tùy theo địa hình
của khu vực điều tra.
Để thuận lợi cho việc đo đếm đề tài tiến hành lập OTC với chiều dài
cùng với đường đồng mức, chiều rộng vuông góc với đường đồng mức.
* Điều tra sinh trưởng của cây mẹ (Dẻ gai Ấn Độ):

×