Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Trình tự, thủ thục tuyên bố phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.83 KB, 28 trang )

Đề tài : Trình tự tuyên bố phá sản đối với DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Bước chân vào thương trường, chắc hẳn bất kì chủ thể kinh tế nào cũng đều
mong muốn công việc kinh doanh, thương mại của mình diễn ra tốt đẹp và ngày
càng thịnh vượng. Tuy nhiên theo chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta;
hàng trăm doanh nghiệp, hợp tác xã xuất hiện với nhiều loại hình, ngành nghề kinh
doanh khác nhau, hết sức đa dạng. Bên cạnh đó pháp luật lại cho phép các doanh
nghiệp kinh doanh bình đẳng và tự do cạnh tranh với nhau. Do đó, với quy luật
cạnh tranh khốc liệt trên thương trường theo nguyên tắc “mạnh được yếu thua” sẽ
khiến nhiều doanh nghiệp yếu thế hơn lâm vào tình trạng “phá sản”.
Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản sẽ phải nảy
sinh nhiều quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Việc giải quyết các vấn đề xoay
quay tình trạng này đòi hỏi một quy trình thủ tục bài bản và đầy đủ. Điều này có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã nói riêng và đối với nền
kinh tế nói chung. Do đó yêu cầu nắm chắc và hiểu biết về trình tự, thủ thục của quá
trình này rất là thiết thực, do đó nhóm chúng tôi chọn đề tài: “Trình tự, thủ thục
tuyên bố phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản”.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, chắc chắn không thể tránh
khỏi những sai sót, mong giảng viên và các bạn đọc đưa ra những góp ý để bài làm
của nhóm hoàn thiện hơn, nhóm chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: Giải thích thuật ngữ và điểu kiện tuyên bố DN,
HTX phá sản
B. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
1. GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ VÀ ĐIỀU KIỆN TUYÊN BỐ DOANH NGHIỆP, HỢP
TÁC XÃ PHÁ SẢN
1.1. Giải thích thuật ngữ
I. - Phá sản: Các đạo luật về phá sản không đưa ra một khái niêm về
phá sản mà Luật phá sản 2004 chỉ quy định: Doanh nghiệp, hợp tác xã


lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả
năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi
là lâm vào tình trạng phá sản .Theo đó doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là
lâm vào tình trạng phá sản khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
II. + Có các khoản nợ đến hạn.
III. Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có
bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên xác
nhận, có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp;
IV. + Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán, nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã
không có khả năng thanh toán.
V. Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ
chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp,
hợp tác xã thanh toán như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ
của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 2 NQ 03/2005)
VI. - Chủ nợ có bảo đảm: Là chủ nợ mà quyền đòi nợ của họ được bảo
đảm bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
VII. - Chủ nợ có bảo đảm một phần: Là chủ nợ có khoản nợ được bảo
đảm bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ mà giá trị tài sản bảo đảm đó ít hơn
khoản nợ.
VIII. - Chủ nợ không có bảo đảm: Là chủ nợ có khoản nợ không được bảo
đảm bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
1.2. Điều kiện tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản:
IX. -Trường hợp doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã
được nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh
doanh, nhưng vẫn không phục hồi được và không thanh toán được các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu .
X. -Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác
xã không tham gia Hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính đáng hoặc sau khi Hội
nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
là chủ nợ và người lao động.

Trang 2/28
Chương 1: Giải thích thuật ngữ và điểu kiện tuyên bố DN,
HTX phá sản
XI. -Không đủ số chủ tham gia Hội nghị chủ nợ sau khi Hội nghị chủ nợ đã
được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ doanh
nghiệp hoặc đại diện hợp pháp doanh nghiệp, hợp tác xã; chủ sở hữu doanh nghiệp
nhà nước; cổ đông công ty cổ phần; thành viên hợp danh công ty hợp danh.
XII. -Doanh nghiệp, hợp tác xã không xây dựng được phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh trong thời hạn quy định
XIII. -Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã
XIV. -Doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực
hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh khác.
XV. -Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không còn tiền và tài sản khác để
nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì Toà án ra quyết định tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
Trang 3/28
Chương 2: Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá
sản
2. NỘP ĐƠN YÊU CẦU VÀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN
2.1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
2.1.1. Đối tượng áp dụng của Luật Phá sản 2004
XVI. Theo Điều 2 Luật phá sản 2004, đối tượng áp dụng là doanh nghiệp,
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã gọi
chung là Hợp tác xã) và doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc
phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên,
trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu được thành lập
và hoạt động theo quy định của pháp luật.

XVII. Như vậy, Luật Phá sản được áp dụng đối với các loại hình doanh
nghiệp, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo qui định
của pháp luật, trong đó: Công ty nhà nước; công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên; công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; công
ty cổ phần; công ty hợp danh; doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp của
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội; hợp tác xã; liên hiệp hợp
tác xã; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài; các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã khác theo quy định của
pháp luật Việt Nam(Điều 1 NQ 03/2005).
XVIII. Đối với công ty nhà nước, doanh nghiệp hợp tác xã thường xuyên,
trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu và doanh nghiệp
phục vụ quốc phòng, an ninh đều thuộc đối tượng điều chỉnh của luật phá
sản; Chính phủ đã qui định cụ thể về việc áp dụng Luật Phá sản đối với
các đối tượng này tại nghị định 67/2006 NĐ-CP ngày 11/7/2006.
XIX. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, tài chính, ngân
hàng là những lĩnh vực đặc thù, có ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế
xã hội nhưng những chủ thể đó vẫn là những chủ thể kinh doanh hoạt
động trên thị trường và bình đẳng với các chủ thể kinh doanh khác nên
những chủ thể này vẫn thuộc sự điều chỉnh của Luật Phá sản. Chính phủ
đã có qui định cụ thể về việc áp dụng luật phá sản đối với các chủ thể này
tại nghị định 114/2008/ NĐ-CP và nghị định 05/2010 NĐ-CP
2.1.2. Chủ thể có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
XX. + Quyền nộp đơn yêu cầu của chủ nợ (Điều 13):
XXI. Xét về bản chất của cơ chế phá sản trước tiên nhằm bảo vệ lợi ích của
các chủ nợ nên luật phá sản luôn xem chủ nợ là chủ thể số một có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ.
XXII. Luật phá sản 2004 chia chủ nợ làm 3 loại: chủ nợ có đảm bào, chủ nợ
không bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần. Trong đó, luật chỉ qui
Trang 4/28
Chương 2: Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá

sản
định cho chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác
xã khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Qui định như vậy là hợp lí vì chủ nợ có đảm bảo một phần vẫn có quyền
yêu cầu con nợ phải trả nốt phần nợ không có đảm bảo.
XXIII. Thêm vào đó, luật không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bởi lợi ích của họ đã được đảm bảo bằng
tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp. Vì thế trong mọi trường hợp,
lợi ích của chủ nợ có bảo đảm đều được bảo vệ và việc qui định cho họ
quyền nộp đơn là không cần thiết.
XXIV. Đơn yêu cầu thủ tục phá sản phải ghi rõ các khoản nợ không có hoặc
có bảo đảm một phần đến hạn mà không được doanh nghiệp, hợp tác xã
thanh toán. Phần điều kiện mà họ phải đáp ứng khi nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đơn giản hơn nhiều so với yêu cầu tại luật phá sản 1993
quy định chủ nợ phải cung cấp các giấy tờ, tài liệu để chứng minh doanh
nghiệp đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và quy định này thực sự
đã gây cho các chủ nợ nhiều khó khăn và cản trở.
XXV. + Quyền nộp đơn yêu cầu của người lao động (Điều 14):
XXVI. Theo qui định của Luật phá sản 2004, dấu hiệu để người lao động
được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là khi doanh nghiệp,
hợp tác xã không trả được lương cho người lao động. Bên cạnh đó Khoản
1 Điều 14 đưa ra thêm dấu hiệu là khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản để mở rộng điều kiện quyền nộp đơn yêu
cầu của người lao động. Việc, luật không hề qui định thời hạn nợ lương
của doanh nghiệp, hợp tác xã với người lao động nên hạn chế được
những trường hợp các doanh nghiệp lợi dụng để kéo dài việc bị tuyên bố
phá sản.
XXVII. Nếu như doanh nghiệp, hợp tác xã có tổ chức công đoàn thì người lao
động sẽ thông qua người đại diện công đoàn. Tuy nhiên, về thủ tục cử

người đại diện cho người lao động khi doanh nghiệp, hợp tác xã không có
tổ chức công đoàn để xác định rõ người có quyền đại diện cho tập thể lao
động được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, luật phá sản qui định
phải là quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán
thành bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ kí.
XXVIII. + Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản (Điều 15):
XXIX. Theo quy định tại Điều 15 Luật Phá sản, khi doanh nghiệp, hợp tác xã
hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, phải nộp kèm theo một số giấy tờ, tài liệu; trong đó, có báo cáo tài chính
Trang 5/28
Chương 2: Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá
sản
doanh nghiệp, hợp tác xã (Khoản 4). Tuy nhiên, trong tất cả các loại hình doanh
nghiệp, hợp tác xã thì Luật Phá sản chỉ quy định nghĩa vụ này đối với công ty cổ
phần mà không quy định với tất cả loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã. Vì vậy, khi
nhận đơn của các doanh nghiệp không phải là công ty cổ phần, Tòa án không có
điều kiện để xác minh ngay về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã là
đã mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn hay không. Thêm vào đó,
Khoản 4 Điều 15 Luật Phá sản không quy định các báo cáo, tài liệu phải được
doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện trong khoảng thời gian nào khiến việc thực
thi nghĩa vụ của các doanh nghiệp, hợp tác xã bị kéo dài, chậm trễ.
XXX. + Quyền nộp đơn yêu cầu của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước
(Điều 16):
XXXI. Theo luật phá sản thì quyền nộp đơn yêu cầu của đại diện chủ sở hữu
DNNN là một quyền có điều kiện vì chỉ được thực hiện quyền này khi
nhận thấy DNNN lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không
thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
XXXII. + Quyền nộp đơn yêu cầu của các cổ đông công ty cổ phần (Điều 17):
XXXIII. Luật phá sản 2004 qui định cổ đông, nhóm cổ đông công ty cổ phần có

quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo qui định của điều lệ công
ty khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào trình trạng phá sản. Để tránh
việc nộp đơn tùy tiện của cổ đông, luật đã qui định về việc nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản theo qui định của điều lệ công ty; trong trường
hợp điều lệ của công ty không qui định về vấn đề này nhưng có thể tiến
hành Đại hội đồng cổ đông thì Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông phải
được thông qua tại cuộc họp khi được số cổ đông còn lại đại diện ít nhất
51% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận. Tỷ lệ
cụ thể do điều lệ qui định. Trường hợp điều lệ công ty không quy định mà
không tiến hành được đại hội cổ đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở
hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6
tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty cổ
phần đó.
XXXIV. + Quyền nộp đơn yêu cầu của thành viên hợp danh (Điều 18):
XXXV. Để đảm bảo quyền lợi của thành viên hợp danh khi công ty hợp danh
không còn có thể hoạt động bình thường được nữa, Luật phá sản 2004,
Điều 18 đã mở rộng quyền nộp đơn mở thủ tục phá sản của thành viên
hợp danh.
2.1.3. Thụ lý đơn và một số công việc sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản:
XXXVI. + Thụ lý đơn và thông báo việc thụ lý đơn:
Trang 6/28
Chương 2: Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá
sản
XXXVII. Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu thấy cần sửa
đổi đơn, bổ sung tài liệu thì Toà án yêu cầu người nộp đơn thực hiện việc
sửa đổi, bổ sung trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu
của Toà án. Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, kể từ ngày
người nộp đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng phí phá sản. Trường
hợp người nộp đơn không phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì ngày thụ

lý đơn là ngày Toà án nhận được đơn. Toà án phải cấp cho người nộp đơn
giấy báo đã thụ lý đơn (Điều 22)
XXXVIII. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nếu thấy việc giải
quyết phá sản không thuộc thẩm quyền của mình thì Toà án đã thụ lý đơn
chuyển việc giải quyết phá sản cho Toà án có thẩm quyền và thông báo
cho người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản biết. Tranh chấp về thẩm
quyền giữa các Toà án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh do Chánh
án Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết. Tranh chấp về thẩm quyền giữa
các Toà án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh khác nhau hoặc giữa các
Toà án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân tối cao giải quyết
(Điều 26).
XXXIX. Tại Điều quy định về việc thông báo việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, trong trường hợp người nộp đơn không phải là chủ doanh
nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản thì trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn,
Toà án phải thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó biết. Trong thời
hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án, doanh
nghiệp, hợp tác xã phải xuất trình cho Toà án các giấy tờ, tài liệu quy
định tại Khoản 4 Điều 15; nếu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản là người bảo lãnh cho người khác thì trong thời hạn năm
ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án, doanh nghiệp, hợp tác
xã phải thông báo việc mình bị yêu cầu mở thủ tục phá sản cho những
người có liên quan biết.
XL. + Các trường hợp trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
XLI. Toà án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong
những trường hợp quy định tại Điều 24:
• Người nộp đơn không nộp tiền tạm ứng phí phá sản trong thời hạn do
Toà án ấn định;
• Người nộp đơn không có quyền nộp đơn;
• Có Toà án khác đã mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã

lâm vào tình trạng phá sản;
• Có căn cứ rõ ràng cho thấy việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản do
không khách quan gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động
Trang 7/28
Chương 2: Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá
sản
kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc có sự gian dối trong việc
yêu cầu mở thủ tục phá sản;
• Doanh nghiệp, hợp tác xã chứng minh được mình không lâm vào tình
trạng phá sản.
XLII. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của Toà
án trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, người làm đơn có quyền khiếu
nại với Chánh án Toà án đó. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận
được đơn khiếu nại đối với quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, Chánh án Toà án phải ra một trong các quyết định sau đây:
• Giữ nguyên quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
• Huỷ quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và thụ lý đơn theo
quy định của Luật này.
XLIII. + Tạm đình chỉ giải quyết yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ về tài sản: Kể từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản, việc giải quyết các yêu cầu sau đây đòi doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ về tài sản phải tạm đình chỉ
• Thi hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải
thi hành án;
• Giải quyết vụ án đòi doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài
sản;
• Xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với các chủ nợ có
bảo đảm, trừ trường hợp được Toà án cho phép.
XLIV. + Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản:
XLV. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ

tục phá sản, Toà án phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá
sản. Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản khi có các căn cứ chứng
minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường
hợp cần thiết, trước khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án có thể
triệu tập phiên họp với sự tham gia của người nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp,
hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, cá nhân, tổ chức có liên quan
để xem xét, kiểm tra các căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản. Toà án ra quyết định không mở thủ tục phá sản
nếu xét thấy doanh nghiệp, hợp tác xã chưa lâm vào tình trạng phá sản
qui định tại Điều 28.
XLVI. Điều kiện để tòa án xác định doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào tình
trạng phá sản hay chưa qui định tại Luật phá sản 2004 và mục 2 Phần II
Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP.
XLVII. + Thông báo quyết định mở thủ tục phá sản:
XLVIII. Quyết định của Toà án về mở thủ tục phá sản được gửi cho doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, Viện kiểm sát cùng cấp và
đăng trên báo địa phương nơi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
Trang 8/28
Chương 2: Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá
sản
trạng phá sản có địa chỉ chính, báo hàng ngày của Trung ương trong ba
số liên tiếp.
XLIX. Quyết định của Toà án về mở thủ tục phá sản phải được thông báo cho
các chủ nợ, những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản.
L. + Thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản :
LI. Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán ra
quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý,
thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

LII. Thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản gồm có:
• Một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng;
• Một cán bộ của Toà án;
• Một đại diện chủ nợ;
• Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản;
• Trường hợp cần thiết có đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại
diện các cơ quan chuyên môn tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản thì
Thẩm phán xem xét, quyết định.
LIII. Căn cứ vào các quy định của Luật Phá sản 2004, pháp luật về thi hành
án dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan, Chính phủ ban
hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản sau
khi thống nhất ý kiến với Toà án nhân dân tối cao.
LIV. Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 9
Luật Phá sản, thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải có Đại diện
hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên,
trên thực tế, do nhiều lý do mà đại diện hợp pháp doanh nghiệp, hợp tác
xã không có mặt. Trong trường hợp này, Tòa án không thể ra quyết định
thành lập Tổ Quản lý, thanh lý tài sản và không đủ điều kiện để Toà án
thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Tòa án áp dụng khoản 5 Điều 24
Luật Phá sản để trả lại đơn). Điều này dẫn đến tình trạng vụ việc giải
quyết phá sản không thể giải quyết.
LV. + Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có
quyết định mở thủ tục phá sản:
LVI. Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có
quyết định mở thủ tục phá sản vẫn được tiến hành bình thường, nhưng
phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài
sản.
LVII. Trong trường hợp xét thấy người quản lý của doanh nghiệp, hợp tác
xã không có khả năng điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động
kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp,

hợp tác xã thì theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán ra quyết định
Trang 9/28
Chương 2: Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá
sản
cử người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã.
LVIII. Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm
doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động sau đây (Điều 31):
• Cất giấu, tẩu tán tài sản;
• Thanh toán nợ không có bảo đảm;
• Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
• Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài
sản của doanh nghiệp.
LIX. Sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hoạt động sau
đây của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự đồng ý bằng văn bản của
Thẩm phán trước khi thực hiện:
• Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản;
• Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng;
• Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
• Vay tiền;
• Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản;
• Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh
nghiệp, hợp tác xã.
LX.
LXI. + Khiếu nại quyết định không mở thủ tục phá sản (Điều 32):
LXII. Quyết định không mở thủ tục phá sản phải được Toà án gửi cho người
làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày
nhận được quyết định không mở thủ tục phá sản, người làm đơn yêu cầu
có quyền khiếu nại với Chánh án Toà án đó.

LXIII. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại đối với
quyết định không mở thủ tục phá sản, Chánh án Toà án phải ra một trong
các quyết định sau đây:
• Giữ nguyên quyết định không mở thủ tục phá sản;
• Huỷ quyết định không mở thủ tục phá sản và ra quyết định mở thủ tục
phá sản.
Trang 10/28
Chương 3: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh
3. THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
3.1. Áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
LXIV. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh được quy định từ Điều 68 đến
Điều 77 Luật phá sản 2004. Cụ thể:
LXV. - Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh sau khi Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với các
giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ
và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh.
LXVI. - Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ
nhất thông qua Nghị quyết, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của mình và nộp cho Toà
án; nếu thấy cần phải có thời gian dài hơn thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán
gia hạn. Thời hạn gia hạn không quá ba mươi ngày.
LXVII. Trong thời hạn nói trên, bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã đều có quyền xây
dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp
tác xã và nộp cho Toà án.
LXVIII. - Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh, Thẩm phán phải xem xét phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh để ra một trong các quyết định:

LXIX. • Đưa phương án ra Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định;
LXX. • Đề nghị sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
nếu thấy phương án đó chưa bảo đảm các nội dung sau:
LXXI. - Các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh, bao gồm:
Huy động vốn mới; Thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh; Đổi mới công nghệ sản
xuất; Tổ chức lại bộ máy quản lý, sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất; Bán lại cổ phần cho chủ nợ; Bán hoặc cho
thuê tài sản không cần thiết; Các biện pháp khác không trái pháp luật.
LXXII. - Các điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ.
LXXIII. - Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày quyết định đưa phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản ra Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét,
thông qua phương án phục hồi.
LXXIV. - Hội nghị chủ nợ xem xét, thảo luận phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh. Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có
mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết
tán thành.
3.2. Thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
LXXV. Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản là ba năm, kể từ
ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Toà án công nhận Nghị quyết của Hội
Trang 11/28
Chương 3: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh
nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp
tác xã.
3.3. Những bất cập trong thủ tục phục hồi
LXXVI. - Quy định về nội dung, giá trị pháp lý của Hội nghị chủ nợ chưa đề
cao quyền “tự quyết” của doanh nghiệp, hợp tác xã và chủ nợ trong việc áp dụng

thủ tục thanh toán hoặc áp dụng thủ tục tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản nên chưa tạo được sự linh hoạt, mềm dẻo và phù hợp với thực trạng
tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã.
LXXVII. Các quy định có liên quan tại Điều 50, Điều 61 và Điều 64 của Luật
Phá sản, việc triệu tập Hội nghị chủ nợ là bắt buộc trước khi Tòa án ra các
quyết định về việc áp dụng các thủ tục phục hồi hoặc thủ tục thanh toán hoặc
thủ tục tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. Về mặt bản chất, việc đưa ra quyết
định cuối cùng về các vấn đề liên quan do doanh nghiệp, hợp tác xã đề nghị và
chủ nợ tại Hội nghị chủ nợ quyết định. Tuy nhiên, Điều 64 Luật Phá sản không
đề cập đến quyền đề xuất của chủ nợ về việc áp dụng thủ tục thanh toán hoặc
áp dụng thủ tục tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản tại Hội nghị chủ nợ. Nếu cho
phép chủ nợ, thậm chí cả doanh nghiệp, hợp tác xã có những quyền hạn này, thì
tiến trình giải quyết việc phá sản sẽ linh hoạt, hiệu quả hơn.
LXXVIII. - Các quy định có liên quan đến thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã còn thiếu cụ thể nên chưa phát huy được
hiệu quả trên thực tế.
LXXIX. Các quy định có liên quan đến phục hồi hoạt động kinh doanh
doanh nghiệp, hợp tác xã được thể hiện tại các điều từ Điều 72 đến Điều 76 của
Luật phá sản 2004 còn khá đơn giản, chưa đề cập đến nhiều vấn đề khác như:
cách thức thực hiện việc giám sát của chủ nợ đối với việc thực hiện phương án
phục hồi kinh doanh; quyền hạn của Tòa án, của chủ nợ khi giám sát mà phát
hiện doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực hiện được
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; cách thức thông qua việc sửa đổi,
bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác
xã; yêu cầu thi hành án dân sự mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi
hành án; về việc giải quyết quyền lợi của chủ nợ mới phát sinh trong giai đoạn
doanh nghiệp tiến hành phương án phục hồi khi Tòa án chuyển sang áp dụng
thủ tục thanh lý tài sản hoặc tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
Trang 12/28
Chương 4: Thủ tục thanh lý tài sản và các

khoản nợ
4. THỦ TỤC THANH LÝ TÀI SẢN VÀ CÁC KHOẢN NỢ
4.1. Các trường hợp ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản:
LXXX. Thủ tục thanh lý tài sản được bắt đầu bằng quyết định mở thủ tục
thanh lý. Khi có quyết định mở thủ tục thanh lý thì Toà án sẽ tiến hành thanh lý tài
sản và các khoản nợ cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản để
“giải phóng nợ” cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Thẩm phán phụ trách tiến hành
thủ tục phá sản là người có thẩm quyền ban hành quyết định mở thủ tục thanh lý.
Khi có quyết định mở thủ tục thanh lý, các khoản nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã
mắc nợ sẽ được phân chia theo nguyên tắc và trật tự nhất định, không chịu sự chi
phối của bản thân của người mắc nợ và các chủ nợ.
LXXXI. Theo quy định của Luật Phá sản năm 2004, quyết định mở thủ tục
thanh lý tài sản được Thẩm phán ban hành trong ba trường hợp:
LXXXII. + Trường hợp đặc biệt;
LXXXIII. + Trường hợp Hội nghị chủ nợ không thành;
LXXXIV. + Trường hợp sau khi có Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất.
LXXXV. Ngoài ra, tuỳ vào tình hình cụ thể mà Thẩm phán quyết định chuyển
từ việc áp dụng thủ tục phục hồi sang áp dụng thủ tục thanh lý.
- Về áp dụng thủ tục thanh lý trong trường hợp đặc biệt:
LXXXVI. Trường hợp đặc biệt để áp dụng thủ tục thanh lý là khi doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã được Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt để
phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng vẫn không phục hồi được và không thanh
toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Việc nhà nước áp dụng biện
pháp đặc biệt có thể được coi như quá trình áp dụng một thủ tục nhằm giúp doanh
nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản nhưng không thành công. Khi đó Toà án sẽ ra
ngay quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp mà không cần phải
triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét việc áp dụng thủ tục phục hồi.
LXXXVII. - Về áp dụng thủ tục thanh lý trong trường hợp Hội nghị chủ nợ
không thành:
LXXXVIII. Khi có đủ căn cứ để chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm

vào tình trạng phá sản, Toà án sẽ ra quyết định mở thủ tục phá sản. Từ khi có quyết
định mở thủ tục phá sản, mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã
bị yêu cầu mở thủ tục phá sản vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự
giám sát kiểm tra của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
LXXXIX. Như vậy, ngay sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, Tổ quản lý,
thanh lý tài sản đã được thành lập. Tuy nhiên, lúc này nhiệm vụ của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản mới chỉ là giám sát các hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã
mắc nợ và tiến hành các hoạt động để lập danh sách chủ nợ và tổ chức Hội nghị chủ
nợ. Nếu Hội nghị chủ nợ không thành thì Thẩm phán phụ trách việc phá sản sẽ ra
quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. Cụ thể theo quy định của Luật Phá sản năm
2004, Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản khi Hội nghị chủ nợ
không thành trong những trường hợp sau đây:
XC. Thứ nhất, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp, hợp tác xã không tham gia Hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính đáng:
Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào
tình trạng phá sản có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán phụ trách
Trang 13/28
Chương 4: Thủ tục thanh lý tài sản và các
khoản nợ
thủ tục phá sản triệu tập. Việc chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp, hợp tác xã không tham gia Hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính đáng
đồng nghĩa với việc bản thân chủ doanh nghiệp từ chối cơ hội được phục hồi hoạt
động kinh doanh. Khi đó Toà án sẽ tiến hành việc thanh lý tài sản, các khoản nợ để
chấm dứt nợ cho doanh nghiệp và tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
XCI. Thứ hai, sau khi Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần đối với trường
hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là các chủ nợ không có bảo đảm, có
bảo đảm một phần hoặc người lao động. Sau khi Hội nghị chủ nợ được hoãn một
lần, trong thời hạn 30 ngày, Thẩm phán phải triệu tập lại Hội nghị chủ nợ. Nếu vẫn
không đủ số chủ nợ hợp lệ tham gia Hội nghị chủ nợ đối với trường hợp người nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chính doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu doanh

nghiệp nhà nước, các cổ đông công ty cổ phần và các thành viên của công ty hợp
danh thì Thẩm phán sẽ ra quyết định thanh lý tài sản; hoặc các chủ nợ không mong
muốn áp dụng việc phục hồi cho doanh nghiệp hoặc điều kiện để áp dụng thủ tục
phục hồi không được thỏa mãn, khi đó Toà án cũng áp dụng thủ tục thanh lý tài sản
đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ.
XCII. - Về áp dụng thủ tục thanh lý sau khi có nghị quyết của Hội nghị chủ
nợ lần thứ nhất:
XCIII. Sau khi Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với
dự kiến các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho
các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh, nếu rơi vào một trong các trường hợp sau đây, Toà án sẽ ra
quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã:
XCIV. + Trường hợp thứ nhất, doanh nghiệp, hợp tác xã không xây dựng
được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong thời hạn 30 ngày (hoặc
trong thời hạn 60 ngày nếu được gia hạn) kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất
thông qua nghị quyết;
XCV. + Trường hợp thứ hai, nếu phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, hợp tác xã không được Hội nghị chủ nợ thông qua hoặc doanh
nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực hiện được phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp các bên liên quan có thỏa thuận
khác thì Toà án cũng sẽ áp dụng thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp.
4.2. Nội dung của quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản:
XCVI. Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản phải có các nội dung chính
được pháp luật quy định tại Điều 81 của Luật Phá sản năm 2004. Đó là các nội
dung cơ bản của quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản, trong đó nội dung về căn
cứ của việc áp dụng thủ tục và phương án phân chia tài sản thể hiện tính chất pháp
lý đặc thù của quyết định này. Có thể nói phương án phân chia tài sản được quy
định trong quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản được coi như là phán quyết về
việc giải quyết các khoản nợ của Toà án đối với người mắc nợ và các chủ nợ.
XCVII. Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã

lâm vào tình trạng phá sản phải được Toà án gửi và thông báo công khai theo quy
định tại Điều 29 LPS 2004.
XCVIII. Vì quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản thể hiện phán quyết của Toà
án về việc giải quyết các khoản nợ của Toà án đối với người mắc nợ và các chủ nợ
Trang 14/28
Chương 4: Thủ tục thanh lý tài sản và các
khoản nợ
nên nó liên quan đến quyền lợi không chỉ của các chủ nợ, bản thân doanh nghiệp
mắc nợ mà còn liên quan đến quyền lợi của chính những người mắc nợ. Quyết định
mở thủ tục thanh lý tài sản phải được gửi cho các bên có liên quan và có thể bị
khiếu nại hoặc kháng nghị.
XCIX. Sau khi ban hành quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản, Toà án phải
gửi và thông báo quyết định này đến các đối tượng sau:
C. - Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản;
CI. - Viện kiểm sát cùng cấp;
CII. - Các chủ nợ, những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản.
CIII. Ngoài ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản phải được đăng trên
báo địa phương nơi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có địa chỉ
chính và đăng báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp. Thời hạn gửi và
thông báo quyết định mở thủ tục thanh lý là 7 ngày kể từ ngày Toà án ra quyết
định. Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ là các chủ
thể có quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của Toà án. Những
người mắc nợ doanh nghiệp, hợp tác xã cũng có quyền khiếu nại quyết định mở thủ
tục thanh lý tài sản đối với quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã liên quan đến nghĩa vụ trả nợ của họ. Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản.
CIV. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ phá sản kèm theo đơn khiếu nại,
quyết định kháng nghị, Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp chỉ định một tổ gồm 3
Thẩm phán xem xét, giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định mở thủ tục thanh

lý tài sản:
CV. + Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ phá sản, tổ
Thẩm phán phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định mở thủ tục
thanh lý tài sản.
CVI. + Quyết định giải quyết khiếu nại, kháng nghị của Toà án cấp trên trực
tiếp là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ban hành.
4.3. Hậu quả pháp lý của quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản
CVII. Khi Toà án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản thì kể từ ngày
nhận được quyết định của Toà án áp dụng thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã, ngân hàng nơi doanh nghiệp, hợp tác xã có tài khoản bị nghiêm cấm
thực hiện hành vi thanh toán các khoản nợ trừ khi được phép của Thẩm phán.
Ngân hàng cũng không được thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm bù trừ hoặc thanh
toán các khoản mà doanh nghiệp, hợp tác xã vay của ngân hàng. Đây được coi là
biện pháp nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để thi hành quyết
định mở thủ tục thanh lý tài sản.
CVIII. Mặt khác, các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh
lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời
hạn chưa đến hạn; các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố
được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên
thanh toán bằng tài sản đó; nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ
thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố
Trang 15/28
Chương 4: Thủ tục thanh lý tài sản và các
khoản nợ
lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh
nghiệp, hợp tác xã.
4.4. Thi hành quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản
CIX. Thi hành quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản thực chất là thực hiện
việc phân chia tài sản. Việc phân chia tài sản được thực hiện bởi Tổ quản lý, thanh

lý tài sản, dưới sự điều hành của Tổ trưởng.
CX. Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản là người điều hành hoạt động
của Tổ, tổ chức việc thi hành các quyết định của Thẩm phán phụ trách thủ tục phá
sản, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình.
CXI. Tổ quản lý, thanh lý tài sản không thể tiến hành phân chia tài sản của
doanh nghiệp phá sản nếu không xác định được tài sản của doanh nghiệp. Nói cách
khác, để thanh toán nợ trước hết phải xác định được nguồn thanh toán. Tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm:
CXII. + Tài sản và quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời
điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
CXIII. + Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà doanh
nghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Toà
án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
CXIV. + Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp
tác xã. Trường hợp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có
bảo đảm, nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh
toán thì phần vượt đó là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
CXV. + Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã. Giá trị này
được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai.
CXVI. + Riêng tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh lâm vào
tình trạng phá sản thì ngoài những tài sản nêu trên, còn bao gồm những tài sản của
chủ doanh nghiệp, thành viên hợp danh mà không trực tiếp dùng vào hoạt động
kinh doanh.
CXVII. + Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có tài
sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên
hợp danh đó được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác
của pháp luật về quyền sở hữu tài sản.
CXVIII. Doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản phải xác định giá trị các tài sản
đó. Trong trường hợp thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp

không chính xác, Tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị
một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp theo giá thị trường tại thời điểm
kiểm kê. Khi đã xác định được tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản có nghĩa là xác định được nguồn thanh toán thì Tổ quản lý, thanh lý
tài sản phải xác định danh sách các chủ thể được thanh toán. Danh sách này giúp
cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản xác định được cụ thể tên, địa chỉ của các chủ nợ,
trong đó có phân định rõ các khoản nợ có bảo đảm, nợ không có bảo đảm, nợ đến
hạn, nợ chưa đến hạn. Bên cạnh việc lập danh sách các chủ nợ, Tổ quản lý, thanh lý
tài sản còn phải lập danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản. Danh sách này cũng ghi rõ số nợ của mỗi người mắc
Trang 16/28
Chương 4: Thủ tục thanh lý tài sản và các
khoản nợ
nợ, trong đó phân định rõ các khoản nợ có bảo đảm, nợ không có bảo đảm, nợ đến
hạn, nợ chưa đến hạn. Như vậy tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ và
danh sách các chủ nợ cũng như người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tiến
hành thủ tục phá sản đã được xác định trước khi có quyết định mở thủ tục thanh lý
tài sản.
Trang 17/28
Chương 5: Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản
5. TUYÊN BỐ DOANH NGHIỆP, HỢP TÁC XÃ BỊ PHÁ SẢN
CXIX. Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản là chấm dứt sự tồn tại
của doanh nghiệp, hợp tác xã về mặt pháp lý. Tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản là
một trong những hoạt động của thủ tục phá sản được pháp luật phá sản ghi nhận.
Cơ sở pháp lý của việc tuyên bố một doanh nghiệp bị phá sản được thể hiện qua
quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Khi có quyết định tuyên bố phá sản
doanh nghiệp thì doanh nghiệp thực sự bị coi là phá sản.
5.1. C ăn cứ pháp lý của Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
CXX. Theo quy định của Luật Phá sản 2004 thì thời điểm để Thẩm phán ra

quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản là thời điểm Thẩm phán ra quyết định
đình chỉ thủ tục thanh lý (Điều 86 Luật phá sản 2004). Như vậy, khi doanh nghiệp,
hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản rơi vào các trường hợp sau:
CXXI. - Doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản để thực hiện phương án
phân chia tài sản;
CXXII. - Phương án phân chia tài sản đã được thực hiện xong thì cùng với
việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản, Thẩm phán ra quyết định tuyên
bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
CXXIII. Ngoài ra, Luật Phá sản 2004 có quy định thêm trường hợp phá sản
đặc biệt được quy định tại Điều 87 như Doanh nghiệp không nộp tiền tạm ứng lệ
phí phá sản do Tòa án ấn định khi hết thời hạn 30 ngày và sau khi thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản và nhận các tài liệu, giấy tờ do các bên có liên quan gửi đến
mà doanh nghiệp không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí
phá sản. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp đã thực sự phá sản, không còn cơ hội
cứu vãn, việc ngay lập tức tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản là giải pháp pháp lý để
cho doanh nghiệp được chấm dứt sự tồn tại “hữu danh vô thực” của nó.
CXXIV. Quy định mới này của Luật Phá sản năm 2004 đã khắc phục được tình
trạng trước đây, khi doanh nghiệp đệ đơn xin phá sản, doanh nghiệp đã thực sự
phá sản nhưng vẫn phải thực hiện các thủ tục rườm rà khác để được “khai tử”.
5.2. Về nội dung của quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
CXXV. Điều 88 Luật phá sản 2004 quy định chi tiết nội dung quyết định tuyên
bố phá sản doanh nghiệp. Như vậy, khác với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993,
quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo quy định của Luật Phá sản năm
2004 đã không còn nội dung ngày và số thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp bởi nội dung này đã được ghi ở quyết định mở thủ tục phá sản. Đặc biệt,
phương án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp cũng không còn là nội dung
của quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp (Phương án phân chia giá trị tài sản
của doanh nghiệp thuộc nội dung của quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản).
Ngoài ra, nội dung của quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo Luật Phá
Trang 18/28

Chương 5: Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản
sản mới có thêm nội dung cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, hợp tác
xã bị tuyên bố phá sản.
5.3. Về việc gửi và thông báo quyết định tuyên bố phá sản:
CXXVI. Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải được gửi, thông báo
đến các đối tượng theo điều 29 của Luật Phá Sản 2004. Ngoài ra, quyết định tuyên
bố phá sản doanh nghiệp phải được đăng trên báo địa phương nơi doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có địa chỉ chính và đăng báo hàng ngày của
Trung ương trong ba số liên tiếp. Thời hạn để thực hiện việc gửi và thông báo công
khai là 15 ngày kể từ ngày ra quyết định (Điều 89 Luật Phá sản năm 2004).Trong
thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định tuyên bố phá sản có hiệu lực pháp luật, Toà
án phải gửi quyết định cho cơ quan đăng ký kinh doanh để xóa tên doanh nghiệp,
hợp tác xã trong sổ đăng ký kinh doanh. Thời hạn này có thể dài hơn nhưng cũng
không quá 25 ngày trong trường hợp Toà án nhân dân tối cao ra quyết định giải
quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
5.4. Về việc khiếu nại, kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản doanh
nghiệp và giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định tuyên bố phá
sản doanh nghiệp.
CXXVII. Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có thể bị khiếu nại hoặc bị
kháng nghị. Khi bị khiếu nại, kháng nghị thì quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp
tác xã bị phá sản chưa có hiệu lực pháp luật. Nếu không có khiếu nại, kháng nghị
thì quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn
khiếu nại, kháng nghị. Thời hạn khiếu nại, kháng nghị là 20 ngày kể từ ngày cuối
cùng đăng báo về quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
CXXVIII. Theo quy định của Luật phá sản 2004 thì các chủ thể sau đây có quyền
khiếu nại quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản của Toà án:
CXXIX. + Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản;
CXXX. + Các chủ nợ, những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản.

CXXXI. Người khiếu nại phải làm đơn khiếu nại và gửi cho Toà án giải quyết
việc phá sản. Đơn khiếu nại và hồ sơ về phá sản sẽ được gửi lên Toà án cấp trên
trực tiếp để xem xét, giải quyết trong thời hạn năm ngày kể từ ngày hết thời hạn
khiếu nại. Sau khi nhận được hồ sơ về phá sản và đơn khiếu nại, Chánh án Toà án
cấp trên trực tiếp sẽ chỉ định ba Thẩm phán để xem xét, giải quyết việc khiếu nại. Tổ
Thẩm phán này phải xem xét, giải quyết việc khiếu nại trong thời hạn bốn mươi
lăm ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ về phá sản và đơn khiếu nại gửi kèm. Sau khi
xem xét, Tổ Thẩm phán có quyền ra một trong các quyết định sau:
CXXXII. - Không chấp nhận khiếu nại, kháng nghị và giữ nguyên quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản của Toà án cấp dưới;
Trang 19/28
Chương 5: Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản
CXXXIII. - Huỷ quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản của
Toà án cấp dưới và giao hồ sơ về phá sản cho Toà án cấp dưới tiếp tục tiến hành
thủ tục phá sản.Quyết định giải quyết khiếu nại của Toà án cấp trên là quyết định
cuối cùng và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.Quyết định tuyên bố
doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản cũng có thể bị kháng nghị. Thẩm quyền kháng
nghị thuộc về Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Thủ tục kháng nghị và giải quyết
việc kháng nghị giống như thủ tục giải quyết việc khiếu nại.
5.5. Hậu quả pháp lý của quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
CXXXIV. Quyết định tuyên bố phá sản có hiệu lực sẽ “đặt dấu chấm hết” cho sự
tồn tại về mặt pháp lý của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Tên của
doanh nghiệp sẽ bị xóa khỏi sổ đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh.
Mặc dù doanh nghiệp đã bị xóa sổ nhưng nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp bị
phá sản không hoàn toàn được giải phóng. Đối với trường hợp doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì chủ doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh không được miễn trừ
nghĩa vụ về tài sản đối với chủ nợ chưa được thanh toán, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Điều này có nghĩa là đối với chủ

doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh nghĩa vụ trả nợ của họ bị ràng buộc
suốt đời Nhưng phải xác định rõ rằng nghĩa vụ này chỉ ràng buộc khi chủ doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh tiếp tục có tài sản và các chủ nợ đã được đưa
vào danh sách chủ nợ, không bị mất quyền đòi nợ. Nghĩa vụ trả nợ có thể được miễn
trừ nếu chủ nợ đồng ý xóa nợ hoặc pháp luật có quy định. Đối với các nghĩa vụ về
tài sản phát sinh sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá
sản được giải quyết theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và các quy
định khác của pháp luật có liên quan.
5.6. Một số vướng mắc khi áp dụng các quy định của Luật Phá sản năm
2004 về quyết định tuyên bố Doanh nghiệp, Hợp tác xã bị phá sản:
CXXXV. Thứ nhất, vướng mắc về quy định không được miễn trừ nghĩa vụ về
tài sản đối với chủ nợ chưa được thanh toán. Nhiều ý kiến cho rằng, quy định tại
Điều 90 Luật Phá sản năm 2004 là quá khắt khe và cứng nhắc. Các chủ doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh không được miễn trừ
nghĩa vụ về tài sản đối với các chủ nợ chưa được thanh toán, tức là họ phải trả
bằng tài sản của mình có trong tương lai để tiếp tục trả các món nợ còn thiếu đối
với các chủ nợ. Trên thế giới, thông thường các nước quy định đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần khi bị phá sản thì các thành viên công ty chỉ phải
chịu trách nhiệm một cách hữu hạn, tức là phải trả nợ cho đến hết số tài sản mà họ
góp vào công ty mà thôi. Đối với người mắc nợ bị phá sản là cá nhân thì các nước
quy định khác nhau; tuy nhiên chủ yếu có hai cách thức xử sự:
Trang 20/28
Chương 5: Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản
CXXXVI. - Cách thứ nhất: Sau khi cá nhân đã trả nợ bằng toàn bộ tài sản của
mình (bao gồm cả tài sản kinh doanh và tài sản thuộc sở hữu cá nhân) mà vẫn còn
thiếu thì phải tiếp tục trả các món nợ còn thiếu - tức là phải trả nợ đến cùng.
CXXXVII. - Cách thứ hai: Sau khi trả nợ bằng toàn bộ tài sản của mình
mà vẫn còn thiếu thì về nguyên tắc, những người mắc nợ này được giải phóng
thoát khỏi nghĩa vụ tiếp tục trả nợ nếu họ không rơi vào trường hợp mà Luật Phá

sản đã quy định.Thông thường người mắc nợ là cá nhân phải tiếp tục trả nợ trong
những trường hợp sau đây:
CXXXVIII. + Trì hoãn làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi đã thấy
không có bất kỳ triển vọng nào cho việc cải thiện tình hình tài chính của doanh
nghiệp mà mình đang quản lý, điều hành;
CXXXIX. + Có hành vi tẩu tán, hủy hoại hoặc sử dụng lãng phí tài sản trước và
sau khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu phá sản;
CXL. + Vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, nghĩa vụ hợp tác với Toà án,
Hội nghị chủ nợ và vi phạm các thiết chế quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình
giải quyết phá sản;
CXLI. + Đã được hưởng quy chế giải phóng nợ trong một vụ phá sản khác
trong một thời hạn nhất định (6 năm hoặc 10 năm) trước ngày thụ lý đơn yêu cầu
giải quyết việc phá sản…Nhiều ý kiến cho rằng trong tương lai chúng ta cần nghiên
cứu, tiếp thu những quy định của pháp luật nước ngoài nhằm đảm bảo tính công
bằng giữa các loại hình doanh nghiệp như nêu trên. Theo đó, về nguyên tắc người
mắc nợ là cá nhân sẽ được giải phóng nợ, trừ một số trường hợp nhất định đã được
quy định trong Luật Phá sản.
CXLII. Thứ hai, vướng mắc về việc chuyển hồ sơ cho Toà án khi có khiếu nại,
kháng nghị liên quan đến quyền khiếu nại và kháng nghị thì tại Khoản 3 Điều 83 và
Khoản 2 Điều 91 Luật phá sản 2004 quy định về mở thủ tục thanh lý tài sản của
doanh nghiệp, quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản phải gửi hồ
sơ về phá sản kèm theo đơn khiếu nại, quyết định kháng nghị cho Toà án cấp trên
trực tiếp để xem xét, giải quyết khiếu nại, kháng nghị. Khi thực hiện quy định này,
Toà án các cấp nhận thức không thống nhất, có quan điểm cho rằng phải chuyển
toàn bộ hồ sơ vụ việc có liên quan đến khiếu nại; có quan điểm cho rằng vì hồ sơ
một vụ phá sản gồm rất nhiều tài liệu, sổ sách, bút lục; hồ sơ liên quan đến nhiều cá
nhân, đơn vị… nếu chuyển hết cho Toà án cấp trên xem xét thì khó có thể kiểm đếm
được, do đó chỉ cần chuyển những nội dung liên quan đến khiếu nại, kháng nghị.
Trang 21/28
Chương 6: Những điểm tiến bộ về trình tự tuyên bố phá

sản qua từng thời kỳ
6. NHỮNG ĐIỂM TIẾN BỘ VỀ TRÌNH TỰ TUYÊN BỐ PHÁ SẢN QUA TỪNG
THỜI KỲ
6.1. Những điểm tiến bộ của Luật phá sản 2004 so với Luật phá sản doanh
nghiệp 1993:
CXLIII. - Chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản:
CXLIV. Luật phá sản 2004 đã bổ sung thêm những chủ thể khác cũng có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản như đại diện chủ sở hữu của doanh
nghiệp có quyền nộp đơn mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản (Điều 16); cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty, trường hợp điều lệ
công ty không quy định thì việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của đại hội
cổ đông, trường hợp điều lệ công ty không quy định và không tiến hành được đại
hội cổ đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông
trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản(Điều 17); thành viên hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
đối với Công ty hợp danh (Điều 18).
CXLV. - Về thời điểm chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản:
CXLVI. + Đối với các chủ nợ:
CXLVII. Tại Điều 7 Luật phá sản doanh nghiệp 1993 quy định: Sau thời hạn ba
mươi ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được doanh nghiệp thanh
toán nợ, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp
đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Đến Luật phá sản 2004,
Điều 13 đã quy định lại: Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản thì các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Luật phá
sản 2004 đã cho phép chủ nợ khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm lâm vào
tình trạng phá sản tức là:(1) có khoản nợ đến hạn phải thanh toán, (2) khi chủ nợ

có yêu cầu,(3) không có khả năng thanh toán được các khoản nợ này thì các chủ nợ
được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
CXLVIII. + Người lao động nộp đơn:
CXLIX. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 quy định: Trong trường hợp Doanh
nghiệp không trả được lương người lao động ba tháng liên tiếp, thì đại diện công
đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn có quyền nộp
đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên tại Luật phá
sản 2004 chỉ ghi nhận 2 trường hợp đó là: Doanh nghiệp, hợp tác xã không trả
được lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoặc
Trang 22/28
Chương 6: Những điểm tiến bộ về trình tự tuyên bố phá
sản qua từng thời kỳ
thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã đó.
- Hội nghị chủ nợ
CL. + Triệu tập hội nghị chủ nợ:
CLI. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 chỉ đề cập đến nội dung của hội nghị
chủ nợ mà không hề có quy dịnh về điều kiện triệu tập hội nghị chủ nợ, chính về thế
gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân khi áp dụng pháp luật đặc biệt là khi có phát
sinh tranh chấp xảy ra. Khắc phục được nhược điểm này Luật phá sản 2004 đã quy
định về điều kiện triệu tập Hội nghị chủ nợ như sau: Trường hợp việc kiểm kê tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản kết thúc trước ngày
lập xong danh sách chủ nợ thì trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày lập xong
danh sách chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập hội nghị chủ nợ; nếu việc kiểm kê tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã kết thúc sau ngày lập xong danh sách chủ nợ thì
thời hạn này tính từ ngày kiểm kê xong tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.Các
hội nghị chủ nợ tiếp theo có thể được Thẩm phán triệu tập vào bất kỳ ngày làm việc
nào trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo đề nghị của Tổ quản lý, thanh lý
tài sản hoặc của các chủ nợ đại diện cho ít nhất một phần ba tổng số nợ không có

bảo đảm (Điều 61).
CLII. + Nội dung hội nghị chủ nợ:
CLIII. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 chỉ ghi nhận nội dung Hội nghị chủ
nợ mà không có sự phân tách giữa Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất và các Hội nghị
chủ nợ tiếp theo, theo đó tại Hội nghị chủ nợ thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện
hợp pháp của doanh nghiệp phải có mặt ở Hội nghị chủ nợ để trình bày phương án
hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trả
lời các vấn đề nêu ra tại hội nghị chủ nợ. Đến Luật phá sản 2004 đã ghi nhận có sự
phân biệt giữa Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất và các Hội nghị chủ nợ tiếp theo. Luật
phá sản 2004 cũng đã xóa bỏ về thủ tục hòa giải tại Hội nghị chủ nợ mà thay vào đó
là ghi nhận nhiệm vụ của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản và Chủ doanh
nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã tại Hội nghị
chủ nợ.
CLIV. + Điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ và điều kiện để hoãn Hội nghị
chủ nợ:
CLV. Luật phá sản 2004 quy định thêm về một điều kiện hợp lệ của hội nghị
chủ nợ nợ so với Luật phá sản doanh nghiệp 1993 đó là: Có sự tham gia của người
có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ (Điều 65) và ghi nhận thêm về một điều kiện
hoãn hội nghị chủ nợ so với Luật phá sản doanh nghiệp 1993: Người có nghĩa vụ
tham gia Hội nghị chủ nợ vắng mặt có lý do chính đáng (Điều 66).
- Thủ tục thanh lý tài sản:
CLVI. + Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản trong trường hợp đặc biệt:
CLVII. Luật phá sản 2004 đã quy định thêm trường hợp quyết định mở thủ
tục thanh lý tài sản trong trường hợp doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua
Trang 23/28
Chương 6: Những điểm tiến bộ về trình tự tuyên bố phá
sản qua từng thời kỳ
lỗ đã được Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh,
nhưng vẫn không phục hồi được và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn
khi chủ nợ có yêu cầu thì Toà án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của

doanh nghiệp mà không cần phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét việc áp dụng
thủ tục phục hồi.
CLVIII. + Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản khi Hội nghị chủ nợ không
thành:
CLIX. Luật phá sản 2004 quy định thêm trường hợp Tòa án ra quyết định
mở thủ tục thanh lý tài sản khi Hội nghị chủ nợ không thành, tức là không đủ
những điều kiện để triệu tập hội nghị chủ nợ và hệ quả là dẫn đến việc Tòa án áp
dụng thủ tục thanh lí tài sản (Điều 79).
CLX. + Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản sau khi có Nghị quyết của Hội
nghị chủ nợ lần thứ nhất: Luật phá sản 2004 quy định thêm trường hợp Tòa án ra
quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản sản sau khi có Nghị quyết của Hội nghị chủ
nợ lần thứ nhất là doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực
hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp các bên liên
quan có thoả thuận khác.
- Tuyên bố phá sản:
CLXI. + Quyết định tuyên bố Doanh nghiệp, Hợp tác xã bị phá sản
CLXII. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 đã đồng nhất khái niệm mở thủ tục
thanh lý tài sản và quyết định tuyên bố phá sản gây ra nhiều bất cập và cách hiểu
chưa đồng nhất. Đến Luật phá sản 2004 đã có sự tách bạch các khái niệm này vì
giữa chúng có sự khác biệt về bản chất, theo đó thẩm phán ra quyết định tuyên bố
doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ
tục thanh lý tài sản. Luật phá sản 2004 quy định mới về việc tuyên bố bị phá sản
trong trường hợp mà các chủ thể có nghĩa vụ về tạm ứng phí phá sản mà lại không
còn tiền và tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì toà án ra quyết định
tuyên bị phá sản.
6.2. Những điểm tiến bộ của L uật phá sản 2014 s o với Luật phá sản 2004 :
CLXIII. + Quy định rõ thời điểm chủ nợ, người lao động bắt đầu có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, cụ thể là hết 03 tháng kể từ ngày khoản
nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Đặc
biệt, nếu như trước đây người lao động muốn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải

thông qua đại diện thì theo Luật phá sản 2014, bản thân người lao động được
quyền trực tiếp nộp đơn yêu cầu.
CLXIV. + Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
CLXV.So với Luật phá sản 2004, Luật mới quy định theo hướng mở rộng
phạm vi và tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản để đảm bảo quyền lợi của mình, cụ thể: Trong Luật mới, người lao động
Trang 24/28
Chương 6: Những điểm tiến bộ về trình tự tuyên bố phá
sản qua từng thời kỳ
có quyền tự mình nộp đơn và không cần phải thông qua đại diện; Đối với Công ty cổ
phần, trong Luật Phá sản mới vẫn giữ nguyên quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông
sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có
quyền nộp đơn, đồng thời cũng cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới
20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn
nếu điều lệ công ty có quy định.
CLXVI. + Phương thức nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
CLXVII. Luật phá sản năm 2014 quy định người yêu cầu thủ tục phá sản
phải nộp đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền
bằng một trong hai phương thức sau: nộp trực tiếp tại Tòa án nhân dân hoặc gửi
đến Tòa án nhân dân qua bưu điện, ngày nộp đơn tính từ ngày có dấu bưu điện nơi
gửi.
CLXVIII. + Luật phá sản năm 2014 bổ sung phương án thương lượng
giữa các bên trước khi Tòa thụ lý đơn yêu cầu của chủ nợ:
CLXIX. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân
nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán và chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền đề nghị
bằng văn bản gửi Tòa án nhân dân để các bên thương lượng việc rút đơn. Tòa án
nhân dân ấn định thời gian thương lượng nhưng không quá 20 ngày kể từ ngày
nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ. Trường hợp các bên thỏa thuận
được với nhau về việc rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Tòa án nhân dân trả

lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trường hợp thương lượng không thành hoặc
hết thời hạn thương lượng mà các bên không tiến hành thương lượng thì Tòa án
nhân dân thông báo cho người nộp đơn nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản
và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của Luật phá sản 2014. Việc
thương lượng của các bên theo quy định tại Điều này không được trái với quy định
của pháp luật về phá sản.
CLXX.+ Thứ tự phân chia tài sản:
CLXXI. Bổ sung khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm
mục đích phục hồi được ưu tiên thanh toán ngay sau các khoản nợ với người lao
động. Đồng thời, quy định rõ những khoản nợ cùng thứ tự thanh toán với khoản nợ
không có bảo đảm, bao gồm: nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, nợ có bảo đảm chưa
được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ.
CLXXII. Ngoài ra, Luật phá sản năm 2014 còn quy định một số nội dung
mới khác như: Quy định thay đổi về chủ thể thông báo và chủ thể được thông báo
việc doanh nghiệp, hợp tác xã đã thỏa mãn dấu hiệu để có thể tiến hành nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản; thời điểm chuyển đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho
tòa án có thẩm quyền giải quyết được đẩy lên sớm hơn; thay đổi quy định về căn cứ
trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; thay đổi căn cứ mở thủ tục phá sản; quy
Trang 25/28

×