TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA KINH TẾ - CƠ SỞ THANH HÓA
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: KINH TẾ VI MÔ
ĐỀ TÀI: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG
RỬA TIỀN ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Giảng viên HD :
Sinh viên TH :
MSSV :
Lớp :
THANH HÓA, THÁNG 11 NĂM 2014
DANH SÁCH NHÓM 9:
HỌ VÀ TÊN MSSV GHI CHÚ
Trịnh Thị Minh
11014493
Nhóm trưởng,thuyết trình
Nguyễn Thị Thanh
Phạm Thị Thanh
Lê Thị Diệp Thuyết trình
Nhận xét của giáo viên:
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
Ngày… tháng……năm 2013
Giáo viên
MỤC LỤC
LỜI MỞ
ĐẦU 6
NỘI
DUNG 7
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỬA
TIỀN 7
1.1. Tóm tắt lịch sử hoạt động rửa
tiền 7
1.2. Định nghĩa hoạt động rửa
tiền 8
1.2.1. Định nghĩa theo các nhà tội phạm
học 8
1.2.2. Định nghĩa theo quan điểm kinh tế
học 8
1.2.3. Định nghĩa theo cơ sở pháp
luật 9
1.3. Quy trình rửa
tiền 10
1.4. Các hình thức rửa
tiền 13
1.5. Hậu quả chung của rửa
tiền 14
1.5.1. Những thị trường mới nổi dễ bị tổn
thương 15
1.5.2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư
nhân 15
1.5.3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài
chính 16
1.5.4. Làm mất sự kiểm soát chính sách kinh
tế 16
1.5.5. Sự sai lệch và mất ổn định về kinh
tế 17
1.5.6. Gây tổn hại Ngân khố quốc
gia 17
1.5.7. Gây nên rủi ro cho những nỗ lực tư nhân
hoá 18
1.5.8. Nguy cơ tổn hại danh
tiếng 18
1.5.9. Những cái giá phải trả về mặt xã
hội 18
1.6. Nạn rửa tiền ở một số quốc gia trên thế giới.
19
1.7. Văn bản pháp luật về chống rửa
tiền 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM –
TRỞ NGẠI CHO PHÁT TRIỂN KINH
TẾ 22
2.1. Khái quát chung hoạt động rửa tiền tại Việt
Nam 22
2.2. Phương thức, thủ đoạn rửa tiền điển hình tại Việt
Nam 23
2.2.1. Hoạt động thông qua hệ thống ngân hàng Việt
Nam 24
2.2.2. Hoạt động thông qua thị trường bất động
sản 24
2.2.3. Hoạt động thông qua các hình thức tài trợ thương mại….
… 26
2.2.4. Một số thủ đoạn rửa tiền
khác 26
2.3. Các vụ án rửa tiền và nghi ngờ có dấu hiệu rửa tiền được phát hiện ở Việt
Nam 2
7
2.3.1.Vụ án tội phạm nước ngoài vào Việt Nam để lừa đảo tín
dụng
.27
2.3.2. Hành vi rửa tiền trong vụ tham ô xăng dầu tại Công ty Chế biến
kinh doanh các sản phẩm dầu mỏ (đơn vị chủ quản của Xí nghiệp xăng
dầu dầu khí Vũng
Tàu) 27
2.3.3. Vụ án tội phạm nước ngoài dùng chứng từ giả mở tài khoản tại
các NHVN để thực hiện các giao dịch chuyển
tiền 28
2.3.4. Vụ án rửa tiền xuyên quốc gia đầu tiên tại Việt
Nam 28
2.3.5 Một vài vụ án khác cũng liên quan đến hành vi rửa tiền ViệtNam
tại
.28
2.4. Rửa tiền trở ngại cho sự phát triển kinh
tế 29
2.4.1. Tác động lên hệ thống tài
chính 30
2.4.2. Tác động đến các hoạt động chính
thức 31
2.4.3. Tác động lên khu vực nước
ngoài 31
2.5. Nguyên
nhân 32
2.5.1. Do đặc điểm nền kinh tế Việt
Nam 32
2.5.2. Do cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán còn lỏng lẻo …
33
2.5.3. Do hệ thống pháp luật tài chính, ngân hàng còn chưa được
hoàn
thiện
33
2.5.4. Do một số quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam còn mờ ám,
chưa được công khai, minh
bạch 34
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN
NGHỊ 35
3.1. Sự cần thiết của luật pháp về chống rửa tiền ở Việt Nam và định hướng
phát triển chống rửa
tiền 35
3.1.1. Sự cần thiết của luật pháp về chống rửa tiền ở Việt Nam 35
3.1.2. Định hướng phát
triển 36
3.2. Các kiến nghị với Việt
Nam 37
3.2.1. Với Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 37
3.2.2. Với hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam 37
3.2.2.1. Chính sách nhận diện khách
hàng 37
3.2.2.2. Giao dịch đáng
ngờ 40
3.2.2.3. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm toán nội
bộ… 41
3.2.2.4. Nâng cao hệ thống cơ sở vật chất của hệ thống ngân hàng
.trong nước, phát triển các hệ thống thanh toán điện tử, từ đó đẩy
lùi nền kinh tế tiền mặt.
42
3.2.3. Với nhà nước và chính phủ Việt Nam 42
3.2.3.1. Với hệ thống pháp
luật 42
3.2.3.2. Hợp tác quốc tế và phòng chống rửa
tiền 43
3.2.3.3. Phát triển các biện pháp tới người
dân 44
3.2.3.4. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có
liên
quan
44
3.2.3.5. Phát triển nguồn vốn trong nước
44
KẾT
LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động rửa tiền thường gắn liền với một hoặc nhiều hoạt động tội
phạm.Do vậy hậu quả của nạn rửa tiền là vô cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế
- xã hội, nó có thể phá huỷ nền kinh tế, an ninh và gây ra những hậu quả xấu cho
xã hội, đồng thời nó khuyến khích hoạt động mua bán ma tuý, khủng bố, các quan
chức Nhà nước tham nhũng và kéo theo những hoạt động phạm tội khác; nó tác
động rất lớn đến hiệu quả hoạt động và làm sai lệch quá trình hoạch định chính
sách kinh tế vĩ mô, làm tăng nguy cơ phá sản của các ngân hàng và làm mất đi vai
trò kiểm soát các chính sách của Chính phủ Nếu không kiểm soát được, nạn rửa
tiền có thể ăn mòn tình hình tài chính của một nước do gây ra những ảnh hưởng bất
lợi tới tỷ giá, lãi suất và tác động đến hệ thống tài chính toàn cầu. Có thể nói nạn
"rửa tiền" không chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật mà nó còn là mối
đe doạ nghiêm trọng nền an ninh của một quốc gia và cộng đồng quốc tế
Vì những lý do này mà chống rửa tiền đang là một yêu cầu cấp bách đối với
các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Với mong muốn góp ý kiến vào cuộc đấu tranh chống "rửa tiền " đầy khó
khăn này, nhằm từng bước làm trong sạch hệ thống tài chính, ổn định kinh tế xã
hội, nhóm mạnh dạn đưa ra đề tài: "Rửa tiền là gì? Hãy trình bày sự ảnh hưởng
của hoạt động rửa tiền đến nền kinh tế Việt Nam".
Do còn hạn chế về nhiều mặt, chắc chắn đề tài còn những thiếu sót nhất
định. Rất mong cô và bạn góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm
ơn!
NỘI DUNG:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.Tóm tắt lịch sử của hoạt động rửa tiền.
Các vụ liên quan tới rửa tiền xuất hiện từ năm 1920 tại Mỹ. Trong đó, trường
đua ngựa và chơi xổ số là hai hình thức sơ khai nhất của rửa tiền. Tội phạm bỏ tiền
ra mua xổ số trúng thưởng của người thắng cuộc trong khi chơi xổ số hoặc cược
đua ngựa với giá cao rồi lấy vé đó đi lĩnh tiền thưởng. Tuy nhiên, theo Billy-một
chuyên gia nghiên cứu rửa tiền tại Anh, phải đến năm 1973 cụm từ “money
laundering” (rửa tiền) lần đầu tiên mới thức được sử dụng trong một số văn bản
pháp luật.
Vào năm 1994, theo số liệu của Financial Times ra ngày 18/10/1994, số tiền
được rửa hàng năm trên thế giới được thống kê với con số xấp xỉ khoảng 500 tỷ
USD.
Dựa trên báo cáo năm 2000 của cơ quan chống các chất gây nghiện quốc tế
cho tới nay số các nước có tình trạng rửa tiền ở mức độ đáng lo ngại đã lên tới mức
hai con số. Cụ thể, chia mức độ rửa tiền ở các quốc gia thành ba cấp độ chủ yếu:
nhóm mức độ lo ngại cao; nhóm mức độ lo ngại trung bình; nhóm được theo dõi.
Sự phân chia này dựa trên các tiêu chí:
Có hay không những cơ quan tài chính của quốc gia tiến hành các giao dịch
có liên quan trực tiếp đến lượng tiền thu được từ những tội phạm nghiêm
trọng.
Phạm vi của hoạt động xét xử hay bất cập ảnh hưởng đến rửa tiền.
Bản chất và quy mô của tình trạng rửa tiền tại quốc gia (ví dụ: ở đó có hay
không có dính dáng đến ma túy hay những hoạt động buôn lậu).
Những cách thức mà mỗi quốc gia quan tâm đến tình hình cụ thể khi có chi
nhánh quốc tế.
Những tác động hiện tại mà mỗi quốc gia quan tâm.
Có hay không việc giới hạn các hành vi bảo vệ pháp luật được phép chỉ ra
các vấn đề cụ thể.
Có hay không việc thiếu thủ tục cho phép hoạt động và bỏ sót các trung tâm
buôn bán và tài chính nước ngoài.
Có hay không giới hạn pháp luật đang thực thi ngày càng hiệu quả; và có sự
hợp tác quốc tế trong việc chống rửa tiền
Dựa trên các tiêu chí này, INCSR đã đưa ra bảng danh sách các quốc gia/
nhóm mức độ lo ngại về rửa tiền năm 2000. Tới năm 2001, theo số liệu của Quỹ
quốc tế (Internationl Monetary Fund-IMF), con số ước tính về lượng tiền tham gia
quá trình rửa tiền nằm trong khoảng 2-5% tổng GDP toàn cầu.
Tới năm 2010, theo tính toán của ngân hàng Thế giới trong năm 2010,
lượng tiền được rửa đã nằm trong khoảng 645 đến 1612,63 tỷ USD (cao hơn GDP
của cả quốc gia đứng thứ 10 thế giới là Mexico với 637,2 tỷ USD). Đặc biệt, lượng
tiền được rửa qua các năm ngày càng cao theo sự phát triển của kinh tế thế giới nói
chung và của từng khu vực riêng lẻ nói riêng. Có thể nói, vấn đề rửa tiền không
phải là một vấn đề mới mà nó đã tồn tại rất lâu trên thế giới và có rất nhiều vấn đề
phức tạp cần phải nghiên cứu.
1.2. Định nghĩa về hoạt động của rửa tiền.
1.2.1. Định nghĩa theo các nhà tội phạm học.
Theo quan điểm của các nhà tội phạm học: Rửa tiền là hoạt động mà bọn
tội phạm tiến hành để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của những đồng tiền tội
lỗi. Hoạt động rửa tiền là hành vi hợp thức hóa những khoản tiền thu được từ hoạt
động phạm tội. Mục đích của hoạt động rửa tiền là tạo ra một khoảng cách xa nhất
giữa tài sản bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Hình thức biểu hiện lợi
nhuận có được ban đầu thông thường là tiền, nhưng sau các giai đoạn chuyển đổi
để hợp pháp hóa tiền đã có các hình thức biểu hiện khác như: Ngân phiếu, thẻ tín
dụng, bất động sản…Nhìn chung các hình thức biểu hiện lợi nhuận của hoạt động
rửa tiền bao gồm những lợi ích kinh tế của hoạt động rửa tiền mang lại được quy là
“ sản phẩm của tội phạm”.
1.2.2. Định nghĩa theo quan điểm kinh tế học.
Hoạt động rửa tiền được xem là một hành động kinh tế và nội dung khái
quát nhất của hoạt động rửa tiền đó chính là “hoạt động kinh tế siêu vĩ mô”.
Nghiên cứu “hoạt động kinh tế siêu vĩ mô” chính là nghiên cứu (tiền ảo),
bao gồm: sản xuất tiền ảo và biến tiền ảo thành tư bản; từ đó vạch ra được hình thái
của học thuyết mới về phát triển. Để hiểu rõ “tiền ảo” là gì có thể sử dụng ví dụ
sau: Nếu một cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức kinh tế tuyên bố rằng mình có
một khoản tiền nào đó gửi ở chi nhánh nước ngoài của một ngân hàng nào đó mà
được những cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức chịu sự chi phối của chủ thể đều
chấp nhận, thì khoản tiền đó, dù là không có, là ảo, cũng trở thành tiền thật. Từ đó
có thể nhận thấy “rửa tiền” cũng chính là một bộ phận của hoạt động kinh tế siêu vĩ
mô, trong đó tội phạm thông qua quá trình tạo tiền ảo tại các trung tâm tài chính
nước ngoài để thực hiện hoạt động rửa tiền của mình. Trong tác phẩm “Thế giới
toàn cảnh- Ramses 2001” có đề cập tới vấn đề này thông qua ví dụ sau: “Ngân
hàng Hawala: được thành lập dựa trên sự phối hợp giữa một số nhóm dân tộc.
Người gửi tiền bảo đảm là có một khoản tiền tương đương trong tài khoản một
ngân hàng nước ngoài. Tiền thù lao sẽ trả tiền thù lao thông qua các giao dịch
thông thường.
Đây có thể coi là một trong số rất nhiều cách để tội phạm lợi dụng nhằm
rửa tiền “bẩn” trên cơ sở kinh tế học. Ở đây, không tập trung áp đặt các định nghĩa
kinh tế học vào cho quá trình rửa tiền bởi lẽ rửa tiền là một phần rất nhỏ của kinh
tế học siêu vĩ mô mà quan trọng nhất các công cụ kinh tế không đủ sức mạnh kiểm
soát nó. Bởi vậy, để có định nghĩa đúng hơn vấn đề cần đứng trên quan điểm pháp
luật về vấn đề rửa tiền.
1.2.3. Định nghĩa theo cơ sở pháp luật.
Theo Nghị định số 74/CP về phòng chống rửa tiền có hiệu lực ngày 1/8/2005
của chính phủ Việt Nam:
Ngày 7/6/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng
chống rửa tiền. Trong điều 3, khoản 1 của nghị định này, lần đầu tiên thuật ngữ rửa
tiền được sử dụng và giải thích như sau:
Rửa tiền là hành vi của cá nhân,tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản
do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây:
Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài
sản do phạm tội mà có.
Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng,
vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc
tìm cách che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất
thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài
sản do phạm tội mà có.
Như vậy, thông qua các quan điểm kinh tế, pháp luật trên thế giới và tại Việt
Nam,có thể khái quát khái niệm rửa tiền như sau: Rửa tiền bản chất là quá trình
chuyển đổi các nguồn tiền bất hợp pháp (kiếm được do các hoạt động bất hợp
pháp: buôn bán thuốc phiện, ma túy, tham nhũng, …) thông qua các kênh tài
chính để che dấu nguồn gốc, khiến chúng có thể tái tham gia thị trường một
cách hợp pháp. Thông qua các số liệu và báo cáo qua các năm của các tổ chức
kinh tế lớn trên thế giới, có thể khẳng định hoạt động rửa tiền đã vượt qua giới
hạn kiểm soát của các chính sách kinh tế và trở thành một hoạt động phạm tội
thật sự, cần thông qua các biện pháp pháp luật để phòng chống.
1.3. Quy trình rửa tiền.
Việc rửa tiền gồm 3 bước và đôi khi cũng chồng chéo nhau: sắp xếp, chia
nhỏ và pha trộn.
Trong khâu sắp xếp, số tiền phải được chuyển đổi để che dấu nguồn
gốc bất hợp pháp. Ví dụ: tiền buôn bán ma tuý bất hợp pháp hầu hết là
các tờ giấy bạc nhỏ và số lượng thậm chí còn nặng nề và cồng kềnh
hơn lượng ma tuý bán ra.
Chuyển đổi những tờ giấy bạc này sang một đơn vị tiền tệ lớn hơn, séc, tiền
mặt hoặc những cách thức thanh toán khác, thường là sự trao đổi tiền mặt (như nhà
hàng, khách sạn, các công ty kinh doanh máy bán hàng tự động, sòng bạc và rửa
xe).
Trong khâu chia nhỏ, bọn rửa tiền thường cố gắng che dấu những đầu
mối của số tiền qua các hoạt động tội phạm bằng cách chia nhỏ số tiền
qua các vụ kiếm chác khổng lồ. Ví dụ, bọn tội phạm nếu muốn rửa số
tiền lớn thì sẽ thành lập các công ty buôn bán ở những nước mà chúng
biết rằng không có những quy định bảo mật ngân hàng tinh vi, khắt
khe hoặc những quy định về chống rửa tiền lỏng lẻo. Số tiền "bẩn"
này sau đó sẽ luân chuyển dưới những vỏ bọc này cho tới khi chúng
hoàn toàn trở nên "sạch sẽ".
Những vụ giao dịch như thế này thường được nguỵ trang và trà trộn với
hàng tỉ tỷ đô la giao dịch hợp pháp mỗi ngày. Hình thức "đòi nợ" và "hoá đơn đúp"
thường là những mánh khoé hay dùng. Trong hình thức "đòi nợ", bọn tội phạm
thường gửi tiền ở nước ngoài để bí mật kiểm soát và sau đó ném tiền vào các công
ty "đòi nợ" trở lại. Thủ tục này được sử dụng vì rất khó có thể xác định được coi
thực sự quản lý tài sản ở một số nước. Trong hình thức "Hoá đơn đúp", việc
chuyển tiền ra hoặc vào một nước - một ngân hàng nước ngoài thường quy ước giữ
hai quyển sổ hoá đơn. Để chuyển số tiền "sạch" này sang Mỹ đánh phí rất cao đối
với hàng hoá, dịch vụ. Để chuyển đi số tiền này (để tránh đánh thuế) các công ty
Mỹ lại bị đánh phí.
Các hình thức rửa tiền khác như mua các mặt hàng có giá trị lớn - chứng
khoán, ô tô, máy bay, séc du lịch - thường được đăng kí dưới tên một người khác
để tránh gây chú ý. Các sòng bạc cũng là nơi đôi khi được sử dụng vì họ sẵn sàng
lấy tiền mặt. Khi được chuyển tiền thành đồng séc, số tiền này sẽ thành tiền được
bạc và có thể rút séc tại ngân hàng của sòng bạc.
Khâu cuối cùng là pha trộn, là kỳ thâu tiền của bọn tội phạm. Ở khâu
này, bọn tội phạm sẽ chuyển số tiền để đầu tư các hoạt động kinh tế
lớn - thường là các hình thức đầu tư điển hình như bất động sản, mua
bán các hàng hoá xa xỉ.
Ngoài ra, người ta còn quan tâm việc rửa tiền dưới góc độ là các giao dịch
nhằm che đậy nguồn tài sản chính để những tài sản này được sử dụng không cần
phải thoả thuận với giới tội phạm - những kẻ đang cố gắng sử dụng chúng.
Với quan điểm như vậy thì các giao dịch rửa tiền được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn sắp đặt: quá trình sắp đặt các nguồn tiền bất hợp
pháp vào các tổ chức tài chính thông qua việc đặt cọc, ký quỹ, chuyển tiền hoặc
các phương tiện khác.
Giai đoạn 2: Giai đoạn phân loại: Quá trình chia tách nguồn tiền bất hợp
pháp khỏi nguồn gốc của nó bằng cách sử dụng một loạt các giao dịch tài chính để
làm "trong sạch" đồng tiền một cách hợp pháp.
Giai đoạn 3: Giai đoạn gộp lại: Tập trung thu hồi tiền về từ các tài khoản
nhưng không làm cho các cấp chính quyền nghi ngờ hay chính là việc sử dụng các
giao dịch có vẻ hợp pháp để che đậy nguồn tiền bất hợp pháp.
Bằng những quá trình này, tội phạm chuyển nguồn tiền có được từ những
hoạt động bất hợp pháp thành tiền với nguồn gốc có vẻ hợp pháp.
Quan niệm này có vẻ chưa phản ảnh đầy đủ khái niệm "rửa tiền " bởi mới
chỉ để cập chủ yếu tới "rửa tiền " liên quan tới hệ thống tài chính. Tuy nhên, cũng
giống như quan niệm ban đầu, nó cũng phản ánh được bản chất của "rửa tiền" là
biến các nguồn tiền thu nhập bất hợp pháp thành nguồn thu có vẻ hợp pháp .
Một mô hình khái quát về chu trình rửa tiền:
Hình 1.1 MÔ TẢ KHÁI QUÁT CHU TRÌNH RỬA TIỀN THÔNG THƯỜNG
1.4. Các hình thức rửa tiền.
Việc thực hiện các chu trình rửa tiền thường thông qua một số hình thức nhất
định. Ở đây xin đề cập một số hình thức rửa tiền mà các tổ chức phạm tội trên thế
giới thường sử dụng. Đó là:
Cơ cấu lại: Đây là hình thức tẩy rửa tiền thông dụng nhất. Nó liên
quan đến nhiều cá nhân, mỗi người giữ với một lượng tiền nhỏ hoặc
mua hối phiếu ngân hàng dưới 10.000 USD. Phương pháp này thông
dụng ở Mỹ và Canada.
Đổi tiền: Đổi tiền cung cấp một dịch vụ cho phép các cá nhân mua
ngoại tệ, và sau đó số ngoại tệ này được chuyển ra nước ngoài. Tiền
cũng có thể được gửi qua đường điện tín - tới các ngân hàng nước
ngoài ở mọi nơi trên thế giới.
Mua tài sản: Bọn chuyên rửa tiền thường mua những đồ vật đắt tiền
như ô tô, tàu thuyền, máy bay hoặc bất động sản. Trong nhiều trường
hợp bọn tội phạm có thể sử dụng bất động sản trên, nhưng thường
đăng ký bất động sản này dưới tên người khác.
Qua người môi giới cổ phiếu: Là hình thức mà bọn rửa tiền thông qua
người môi giới cổ phiếu dùng tiền mặt để mua một số lượng cổ phiếu
lớn và sau đó chúng trở thành cổ đông của các công ty cổ phần - chủ
sở hữu hợp pháp.
Chuyển tiền bằng điện tín hoặc thư chuyển tiền: Phương thức này cho
phép chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác hoặc sang quốc gia khác
mà không phải mang tiền đi.
Rửa tiền trong các sòng bạc: Thông qua hình thức cá cược, đánh bạc,
tiền thắng bạc có thể được coi như có nguồn gốc hợp pháp.
Làm sạch: Thông qua các cá nhân để đổi đồng tiền mệnh giá như lấy
tiền có mệnh giá lớn. Đây là một cách làm phổ thông, có thể đổi ở
nhiều ngân hàng mà không gây sự nghi ngờ.
Kinh doanh hợp pháp: Bọn tội phạm tiến hành kinh doanh hoặc đầu tư
kinh doanh nhằm mục đích trộn lẫn số tiền thu được từ hoạt động phi
pháp và hoạt động kinh doanh hợp pháp. Dưới hình thức này, bọn tội
phạm mua những nhà hàng, quán bar, hộp đêm, khách sạn, quầy thu
đổi tiền, các hãng máy móc, điểm rửa xe
Ngoài ra bọn rửa tiền có thể thoả thuận với người bán tài sản ghi trên hoá
đơn giá trị thấp hơn giá trị thực tế và hối lộ khoản chênh lệch cho người bán. Bằng
cách này bọn tội phạm rửa tiền có thể mua một tài sản có giá trị lớn với giá thấp.
Sau khi giữ tài sản trên một thời gian thì bọn rửa tiền bán ra với giá trị thực của tài
sản đó hoặc cao hơn.
Đặc biệt trong xu thế phát triển thị trường tài chính mới (các công cụ phát
sinh) được củng cố và nâng cao thì các hình thức rửa tiền mới sẽ phát sinh và ngày
càng khó nhận diện. Điều này xảy ra là vì:
- Một khối lượng lớn "tiền bẩn" được dấu kín nguồn gốc.
- Chứng khoán tính lỏng cao có thể mua bán nhanh trong một thời gian
ngắn (có thể một vài lần trong một ngày làm việc).
- Mục đích của việc chuyển tiền khó đánh giá.
- Rất ít và không có thời gian để điều tra sự nghi ngờ.
Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ được sử dụng lần đầu tiên trên vào năm 1976,
nghiệp vụ hoán đổi lãi suất được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1981. Tuy nhiên,
cho đến nay, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất đã chiếm một tỷ trọng lớn trong các giao
dịch công cụ tài chính mới.
Tóm lại, cho dù hình thức rửa tiền có tinh vi đến đâu cũng có kẽ hở. Vấn đề
là các quốc gia phải tận dụng được những kẽ hở này để nâng cao hiệu quả cuộc đấu
tranh "chống rửa tiền".
1.5. Hậu quả chung của rửa tiền.
Nếu nạn "rửa tiền " không được phát hiện và ngăn chặn sẽ dẫn đến những
hậu quả gì? Qua nghiên cứu và đánh giá cho thấy: Nạn rửa tiền có thể phá huỷ nền
kinh tế, an ninh và gây những hậu quả xấu cho xã hội. Nó khuyến khích, mua bán
ma tuý, khủng bố, buôn bán vũ khí trái phép, quan chức Nhà nước tham nhũng và
những hoạt động tội phạm khác. Những hậu quả của nạn "rửa tiền" phải kể đến là:
1.5.1. Những thị trường mới nổi dễ bị tổn thương.
Nạn "rửa tiền" không chỉ là một vấn đề của các thị trường tài chính lớn và
Trung tâm tài chính của thế giới mà còn là một vấn đề đối với những thị trường
mới nổi. Quả vậy, bất kỳ quốc gia nào trong hệ thống tài chính quốc tế đều bị nguy
hiểm. Vì các thị trường mới nổi của các khu vực tài chính và kinh tế, nên chúng
ngày càng trở thành cái đích để ngắm đối với các hoạt động rửa tiền.
Những nỗ lực ngày càng tăng của các Chính phủ ở những thị trường tài
chính lớn và những Trung tâm tài chính quốc tế nhằm chống lại hoạt động rửa tiền
lại khuyến khích những kẻ rửa tiền chuyển các hoạt động của chúng sang những thị
trường mới nổi. Như bằng chứng cho điều này là sự luân chuyển tiền mặt ngày
càng tăng qua biên giới để tới những thị trường quản lý lỏng lẻo trong việc phát
hiện việc rửa tiền vào hệ thống tài chính và sự đầu tư đang gia tăng của những
nhóm tội phạm có tổ chức vào bất động sản và kinh doanh trong những thị trường
đang nổi. Việc xem xét kỹ một số ảnh hưởng tiêu cực này trong cả nền kinh tế vi
mô và vĩ mô lý giải tại sao nạn rửa tiền lại là một mối đe doạ nghiêm trọng, đặc
biệt là ở những thị trường đang nổi.
1.5.2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân.
Một trong những tác động kinh tế vi mô nghiêm trọng nhất của nạn rửa tiền
là ở khu vực tư nhân. Những kẻ rửa tiền dùng những công ty nguỵ trang để trộn lẫn
khoản tiền từ những hoạt động bất chính với những khoản tiền hợp pháp để che
dấu khoản tiền bất hợp pháp. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, tội phạm có tổ chức đã dùng
những cửa hàng bán pizza để che đậy những khoản tiền bất chính từ buôn bán
heroin. Những công ty ngụy trang này có thể tiếp cận với những nguồn tiền bất
chính và những nguồn tiền này bao cấp toàn bộ sản phẩm và dịch vụ của công ty ở
mức độ thấp hơn tỷ giá thị trường.
Trong một số trường hợp các công ty ngụy trang này có thể đưa ra những
sản phẩm với giá thấp hơn giá thành sản phẩm. Do vậy, những công ty ngụy trang
có lợi thế cạnh tranh hơn so với những công ty hợp pháp trong thu hút vốn từ các
thị trường tài chính. Điều này làm cho các doanh nghiệp hợp pháp rất khó khăn
nếu không muốn nói là không thể cạnh tranh lại được với những công ty ngụy
trang với nguồn vốn được bao cấp, một tình huống mà các tổ chức tội phạm có thể
gây hại cho đa số các doanh nghiệp tư nhân.
Rõ ràng là sự quản lý của các công ty tội phạm này không phù hợp với
những nguyên tắc của các doanh nghiệp trong thị trường tự do truyền thống, điều
này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế vĩ mô.
1.5.3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính.
Tổ chức tài chính dựa vào các nguồn tiền bất chính gặp nhiều thử thách
trong việc quản lý một cách thích đáng tài sản, tiền nợ và sự hoạt động của nó. Ví
dụ như một số lượng tiền lớn được rửa có thể được chuyển đến một tổ chức tài
chính nhưng sau đó lại biến mất một cách đột ngột, không thông báo qua sự
chuyển giao hữu tuyến để đối phó với những nhân tố phi thị trường như những
hoạt động nhằm thực thi luật pháp. Điều này có thể gây ra những vấn đề cho khả
năng thanh toán tiền mặt và hoạt động của các ngân hàng.
Thực tế, các hoạt động phạm tội đã liên kết với một số ngân hàng thua lỗ
trên toàn cầu, bao gồm cả ngân hàng Internet đầu tiên- Ngân hàng của khối cộng
đồng chung châu Âu. Hơn nữa, một số cuộc khủng hoảng tài chính trong những
năm 90 như sự lừa đảo, nạn rửa tiền, những vụ ăn trộm ở BCCI và sự sụp đổ năm
1995 của Ngân hàng Barings như là một kế hoạch bắt nguồn từ sự liều lĩnh do
những nhà kinh doanh ở các công ty được bao cấp thực hiện- Có những yếu tố lừa
đảo hoặc tội phạm nghiêm trọng.
1.5.4. Làm mất sự kiểm soát chính sách kinh tế.
Micheal Camdesus, cựu giám đốc điều hành Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã dự
tính rằng qui mô to lớn của nạn rửa tiền đã chiếm từ 2 đến 5% tổng sản lượng quốc
nội của thế giới, hay ít nhất 600.000 triệu đô la. Tại một số nước có những thị
trường mới nổi, những khoản tiền bất hợp pháp này làm cho ngân khố của Chính
phủ nhỏ lại, kết quả là Chính phủ mất quyền kiểm soát chính sách kinh tế. Thực
vậy, trong một số trường hợp, số lượng khổng lồ của những tài sản có được do rửa
tiền có thể được sử dụng làm lũng đoạn thị trường trong khu vực và thậm chí cả
những nền kinh tế nhỏ.
Nạn rửa tiền có thể tác động bất lợi đến đồng tiền và tỷ lệ lãi suất vì những
kẻ rửa tiền tái đầu tư vào những tổ chức mà âm mưu của chúng ít có khả năng bị
phát hiện hơn là đầu tư vào những nơi mà tỷ lệ lợi nhuận cao. Chính điều này làm
cho chúng ta không xác định được những thay đổi về nhu cầu tiền tệ và sự biến
đổi gia tăng của các nguồn vốn dẫn tới mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia
không được thực hiện.
Nạn rửa tiền có thể làm tăng mối đe doạ về sự bất ổn của đồng tiền do không
xác định được nguồn gốc của những sai lệch trong giá cả tài sản và hàng hoá.
Tóm lại, nạn rửa tiền và tội phạm tài chính có thể gây ra những thay đổi
khôn lường trong nhu cầu về tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của luồng vốn quốc tế,
tỷ lệ lãi suất và tỷ giá hối đoái. Bản chất không lường trước được của nạn rửa tiền,
cùng với sự mất quyền kiểm soát chính sách kinh tế, đi kèm theo nó khó có thể có
được một chính sách kinh tế lành mạnh.
1.5.5. Sự sai lệch và mất ổn định về kinh tế.
Những kẻ rửa tiền không quan tâm đến việc tạo ra lợi nhuận từ những khoản
đầu tư bằng việc bảo vệ những khoản tiền của chúng. Vì thế, chúng "đầu tư " vốn
vào các hoạt động không cần thiết phải mang lại lợi ích về kinh tế ở những nước
lưu giữ các khoản tiền của chúng. Hơn thế, sự tăng trưởng kinh tế phải bị tổn hại,
vì tội phạm rửa tiền và tài chính chuyển vốn từ những dự án đầu tư lành mạnh sang
những dự án đầu tư chất lượng thấp miễn sao chúng che dấu được các khoản tiền
bất chính. Ví dụ: như tại một số nước, các ngành công nghiệp như xây dựng và
khách sạn được cung cấp tài chính không phải do những đòi hỏi thực tế mà do
những lợi ích trước mắt của những kẻ rửa tiền. Khi những ngành này không còn
phù hợp với những kẻ rửa tiền thì chúng bị loại bỏ, gây ra những sụp đổ và những
thiệt hại khổng lồ cho những nền kinh tế không thể chịu được những tổn thất như
vậy.
1.5.6. Gây tổn hại Ngân khố quốc gia.
Nạn rửa tiền làm giảm nguồn thu từ thuế của Chính phủ, bởi vậy nó trực tiếp
làm phương hại đến những người đóng thuế chân chính. Nó cũng làm cho việc thu
thuế của Chính phủ trở nên khó khăn hơn. Nhìn chung, việc tổn hại đến ngân khố
quốc gia có nghĩa là tỷ lệ thuế cao hơn so với thông thường nếu những khoản tiền
phạm tội không phải nộp thuế là hợp pháp.
1.5.7. Gây nên rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hoá.
Hoạt động "rửa tiền” sẽ đe doạ đối với các quốc gia muốn thực hiện cải cách
nền kinh tế của mình bằng việc thực hiện tư nhân hoá nền kinh tế. Thông qua "rửa
tiền”, các tổ chức tội phạm có nhiều tiền để trả quá cao hơn những người mua bằng
tiền hợp pháp để mua lại Doanh nghiệp Nhà nước. Kết quả là trong việc khởi đầu
của tư nhân hoá cùng với việc mang lại những lợi ích kinh tế thì chính nó là
phương tiện "rửa tiền” của bọn tội phạm.
Trước đây, những kẻ rửa tiền thường mua những bến cảng, du thuyền, khách
sạn, sòng bài và ngân hàng để che đậy những khoản tiền bất chính và để đẩy mạnh
những hoạt động tội phạm của chúng.
1.5.8. Nguy cơ tổn hại danh tiếng.
Các quốc gia không thể chấp nhận được việc tiếng tăm và những công ty tài
chính của họ bị một tổ chức rửa tiền làm ô uế, đặc biệt là trong nền kinh tế toàn
cầu ngày nay. Niềm tin vào thị trường và vào vai trò của lợi nhuận bị xói mòn do
nạn rửa tiền và những tội phạm tài chính như rửa những khoản tiền bất hợp pháp,
gian lận tài chính lan rộng, buôn bán những thông tin mật là tham ô. Tiếng xấu từ
những hoạt động như vậy đã làm giảm những cơ hội hợp pháp và sự tăng trưởng
bền vững, trong khi đó lại thu hút những tổ chức tội phạm quốc tế với tiếng xấu và
những mục tiêu ngắn hạn. Điều này có thể làm suy yếu sự phát triển và tăng trưởng
về kinh tế. Hơn thế nữa, một khi đất nước đã bị tiếng xấu về tài chính, thì việc gây
dựng lại tiếng tăm là rất khó khăn và cần nguồn lực đáng kể của Chính phủ để giải
quyết vấn đề mà lẽ ra đã có thể ngăn ngừa với sự kiểm soát chống lại nạn rửa tiền.
1.5.9. Những cái giá phải trả về mặt xã hội.
Có những nguy cơ và cái giá rất đắt phải trả về mặt xã hội có liên quan đến
nạn rửa tiền. Nạn rửa tiền là một quá trình quan trọng đối với những kẻ phạm tội.
Nó cho phép những kẻ buôn bán ma tuý, những tên buôn lậu và những kẻ phạm tội
khác mở rộng hoạt động của mình. Nó làm cho chi phí của Chính phủ tăng lên để
chống lại những hậu quả nghiêm trọng do việc rửa tiền gây ra, đó là các yêu cầu về
việc thực thi pháp luật gia tăng và những chi phí cho việc chăm sóc sức khoẻ (ví dụ
như điều trị những người nghiện ma tuý ).
Trong số những tác động tiêu cực khác đến nền kinh tế xã hội, việc rửa tiền
còn chuyển quyền lực kinh tế từ thị trường, Chính phủ và từ mọi người dân sang
những tên tội phạm. Tóm lại, chúng quay lại câu ngạn ngữ cổ rằng tội ác không trả
giá cho những gì chúng gây ra.
Hơn nữa, toàn bộ quyền lực đổ dồn vào những tên tội phạm, bằng việc rửa
tiền lại gây ra nạn tham nhũng của mọi bộ phận xã hội. Trong trường hợp nghiêm
trọng thì nó có thể dẫn đến việc nắm giữ Chính phủ hợp pháp.
Nhìn chung nạn rửa tiền đặt ra cho cộng đồng chung thế giới những thử
thách khó khăn và phức tạp. Thật vậy, tính chất toàn cầu của nạn rửa tiền đòi hỏi
phải có sự hợp tác và những chuẩn mực quốc tế nếu chúng ta muốn giảm khả năng
"rửa tiền” của những tên tội phạm và việc thực hiện những hành vi tội phạm của
chúng.
1.6. Nạn rửa tiền ở một số quốc gia trên thế giới.
Thuật “ngữ rửa” tiền ra đời đầu tiên ở Mỹ đồng thời Mỹ cũng là một trong
những nước có hoạt động rửa tiền diễn ra sôi động nhất. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển kinh tế của thế giới thì rửa tiền không còn là vấn đề riêng của nước Mỹ
hay riêng một quốc gia nào khác nữa mà đã trở thành thách thức của của toàn cầu.
chúng ta cùng hành trình đến một số quốc gia điển hình với những ví những vụ rửa
tiền lớn đã được phát hiện như Italia, Ấn Độ, Trung Quốc, Hồng Kông, Thái Lan.
Điển hình có thể kể đến các vụ rửa tiền của Mafia Italia với doanh thu lên tới
hơn 100 tỷ Eruo/năm. Mafia có ngân quỹ chiếm 7% GDP nước này, vì vậy việc rửa
tiền khổng lồ này là một điều tất yếu.
Tại thủ đô Niu Đêli của Ấn Độ đã bắt NaretKumaGien đã bị bắt hôm
6/12/2009 bởi chịu trách nhiệm một vụ rửa tiền có quy mô lớn có khả năng
chuyển tới 1,2 tỷ USD /năm với nhiều chân rết trên khắp thế giới. Khoản tiền này
là kết quả buôn bán ma túy ở Anbani, Italia cũng như hoạt động kinh doanh bất
hợp pháp của các bang nhóm mafia ở Mỹ, các tiểu vương quốc Arập thống nhất
(UAE), Pakixtan và Anh.
Thêm một vụ nữa kéo dài suốt năm năm đã được cảnh sát Trung Quốc vạch
trần vào năm 2009. Đường dây rửa tiền bao gồm 11 người do Ruan Zhizhing đứng
đầu đã chuyển bất hợp pháp 10 tỷ NDT (khoảng 1,46 tỷ USD ) ra nước ngoài kể
từ năm 2004. Số tiền được chuyển vào 77 tài khoản do Ruan Zhizhing mở và quản
lý cho thấy đối tượng này đã chuyển 7,2 NDT trong hơn 10000 lần chuyển khác
nhau, địa điểm khác nhau trong giai đoạn từ 11/2004 đến 3/2008. Ngay sau đó các
cơ quan an ninh trung Quốc đã cho lục soát “ngân hàng đen” ở Fangchengang đã
tiếp tay cho hoạt động rửa tiền này thu giữ 70% số tiền gửi, 590 thẻ ngân hàng và
phong tỏa 327 tài khoản ngân hàng có liên quan.
Trên đây chỉ là ba trong số rất nhiều hành vi rửa tiền khổng lồ đã được đưa
ra ngoài ánh sáng. Chắc chắn số lượng phi vụ chưa bị phát hiện còn lớn hơn rất
nhiều. Qua đó có thể thấy bọn tội phạm rửa tiền đang hoành hành ở khắp mọi nơi
với vô số thủ đoạn tinh vi xảo quyệt.
1.7. Văn bản pháp luật về chống rửa tiền.
Nhằm đảm bảo hiệu quả và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong công tác phòng ngừa, xử lý hành vi rửa tiền. Luật phòng,
chống rửa tiền 2012 đã được Quốc hội thông qua trong kỳ họp thứ 3 Quốc hội
Khóa XIII ngày 18/6/2012, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2013.
Luật Phòng, chống rửa tiền được Quốc hội ban hành là bước tiến quan trọng
trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động phòng chống rửa tiền ở
Việt Nam, góp phần minh bạch hóa nền tài chính quốc gia. Đồng thời việc ban
hành Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 cũng là hành động thực hiện cam kết của
Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế trong việc đấu tranh chống hoạt động rửa tiền.
Luật Phòng, chống rửa tiền có 5 Chương, 50 Điều, được xây dựng theo
hướng quy định, chi tiết cụ thể, số lượng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
không nhiều.
Về tổng thể, cơ chế phòng, chống rửa tiền theo Luật phòng chống rửa tiền
2012 được thực hiện chủ yếu thông qua việc thiết lập một cơ chế thu thập, xử lý
các thông tin về nhận dạng khách hàng, thông tin về giao dịch bất thường, giao
dịch có giá trị lớn để xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất, sàng lọc, xác định các
giao dịch có nguy cơ liên quan đến hành vi rửa tiền được thực hiện thông qua các
giao dịch tại các tổ chức tài chính, các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi
tài chính có liên quan.
Theo đó, tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng
trong trường hợp: Khách hàng mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch với tổ chức tài
chính; Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị lớn hoặc
thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài
khoản của người khởi tạo; Có nghi ngờ giao dịch liên quan đến hoạt động rửa tiền;
Có nghi ngờ về tính chính xác của các thông tin nhận biết khách hàng đã thu thập
trước đó.
Bên cạnh dó, đối tượng báo cáo (tổ chức tài chính; tổ chức, cá nhân kinh
doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan) phải giám sát đặc biệt đối với: Giao
dịch có giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp; Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại
quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính
công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo. Trường hợp có nghi ngờ về
tính trung thực, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải lập báo cáo về giao
dịch đáng ngờ gửi NHNN Việt Nam và có thể từ chối giao dịch đó.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM
–TRỞ NGẠI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
2.1. Khái quát chung hoạt động rửa tiền tại Việt Nam.
“Rửa tiền” là hình thức phạm tội mang tính chất quốc tế. Nó sẵn sàng thâm
nhập vào các quốc gia và gây tổn hại đến quốc gia, đặc biệt là những quốc gia mà
việc kiểm soát hoạt động này còn chưa chặt chẽ, trong đó có Việt Nam.
Ở nước ta “rửa tiền” cũng tồn tại dưới nhiều hình thức nhưng chủ yếu là qua
hoạt động kinh doanh và qua hệ thống ngân hàng. Phần lớn các đồng tiền phi pháp
qua hệ thống ngân hàng đều trở thành tiền sạch. Vì thế mà người ta gọi hệ thống
ngân hàng là cỗ máy rửa tiền (money – laundering machine) cho bọn tội phạm.
Rửa tiền là hình thức tội phạm có tổ chức và gây nhiều tác hại lớn cho nền kinh tế
vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tội phạm, đặc biệt là buôn lậu, bành
trướng hoạt động. Các nước sẽ phải chịu những khoản tổn thất khổng lồ vì các tội
phạm đó. Như trên đã nói, rửa tiền còn làm suy yếu và ảnh hưởng đến thanh danh
của hệ thống tài chính ngân hàng.
Trong một vụ án tham nhũng xét xử năm 1999 ở Việt Nam, các cơ quan
pháp luật đã phát hiện hai nhân vật trọng tâm của vụ án có tài khoản ở nước ngoài.
Mới đây, Ngân hàng đầu tư và phát triển đã nhận được e-mail từ Nigeria yêu cầu
ngân hàng mở tài khoản để nhận 28 triệu USD, bù lại sẽ nhận được 15% của số