ÔN TẬP NGỮ VĂN LỚP 9 PHẦN TẬP LÀM VĂN
Đề bài: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim
Lân
Bài làm:
“Làng” của nhà văn Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc về chủ đề
tình yèu quê hương đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng
chiến chống Pháp. Nhân vật chính của tác phẩm - ông Hai - chảng những là
một người nông dân chất phác, hồn hậu như bao người nông dân khác mà
còn là một người có tình yêu làng quê, đất nước thật đặc biệt.
Tác phẩm ra dời năm 1948 lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến cùa
nhân dân ông Hai là người dân làng Dầu nhưng để phục vụ kháng chiến ông
cùng gia đinh tản cư đến một nơi khác. Chính tại nơi đây ông luôn trăn trờ
về cái làng thân yêu của mình với bao tình cảm, suy nghĩ vô cùng cảm
động
Trước hết, ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân
chất như bao người nông dân khác. Đến nơi tản cư mới, ông thường đến
nhà hàng xóm để cởi mở giãi bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái
làng Dầu thân yêu, về cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông
đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng
chiến, Ông Hai không biết chữ, ông rất ghét những anh nào “ra vẻ ta đây”
biết chữ đọc báo mà chỉ đọc thầm không đọc to lên cho người khác còn biết.
Ông ít học nhưng lại rất thích nói chữ, đi đính chính tin làng mình theo giặc
ông sung sướng nói to với mọi người: “Toàn là sai sự mục đích cả!” Tất
cả những điều đó không làm ông Hai xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ
càng khiến ông đáng yêu, đáng mến hơn lên.
Không chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông Hai chính là tấm lòng
yêu làng tha thiết. Và biểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt.
Cái làng đối với người nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho
cộng đồng, họ mạc. Đời này qua dời.khác, người nông dân gắn bó với cái
làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tồ tiên, là hiện thân cho
đất nước đối với hộ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố
rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt
đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn,
Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trỏ về
quê hương bản quán. Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực.
Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ,
một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say
mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe
cái dinh phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái
dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.". Và mặc dù
chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả
hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đá động gì đến cái lăng
ấy nữa", vì ông nhặn thức được nó làm khổ mình, làm khố mọi người, là kẻ
thù cùa cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập
đá, làm phu hồ cho nó. [ ] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy"
Bây giờ ông khoe làng ông khới nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi
kì còn trong bóng tối", rồi những buối tập quân sự, khoe những hố, những ụ,
những giao thông hào cùa làng ông, Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông
nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi
tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào
cũng lầm lầm . Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm
việc cùng với anh em: sao mà độ ấy vui thế. ổng thấy mình như trẻ ra.[ ]
Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.". Lúc này, niềm vui của ông chỉ
là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng Chợ
Dầu của ông đánh Tây.
Ông lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì
những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Một người đàn bà tản cư
vừa cho con bú vừa ngấm nguýt khi nhắc đến làng Dầu. Cô ta cho biết làng
Dầu đã theo giặc chẳng “tinh thần” gì dâu. Ông Hai nhận cái tin ấy như bị
sét dánh ngang tai. Càng yêu làng, hãnh diện tự hào về làng bao nhiẻu thì
bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân
dã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động
trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm
trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến ccí này.
Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: "Cổ ông lão
nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến không
thở được. Một lúc lâu ông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ [ ]
giọng lạc hẳn đi", "ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bĩu
của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm.
Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước
mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng
nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi dầu ". Nỗi
nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: ''Chao ôi! Cực
nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người
ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta
ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước ". Cả nhà ông Hai
sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng
nhờ nhò ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của
ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nồi lên, nghe như tiếng thở
của gian nhà." ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm
nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải
gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ây". Ông tuyệt giao với tất cả mọi
người, "không dám bước chân ra đến ngoài" vi xấu hổ. Và cái chuyện vợ
chổng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuối gia đình ông, chỉ
vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng
thẳng. Ống Hai phải đối mặt với tình cảnh khỏ khăn nhất: "Thật là tuyệt
đường sinh sống! [ ] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như
đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa,
thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu."
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về
làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. về làng tức là bỏ kháng
chiến. Bỏ Cụ Hồ l. Và "nước mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống
nô lệ tảm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày
cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:
- Hức kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ỏ làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dẩu không?
Thầng bé nép đẩu ưào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Cô. ‘
Ông Lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
- À, thẩy hòi con nhé. Thế con ùng hộ ai?
Thàng bè giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- ủng hộ Cụ Hồ Clú Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ồng nói thủ thỉ:
- ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai,
một người láy danh dự của làng quê làm danh dự cùa chính mình, một người
son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng
con tré như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề dinh
ninh vang lên từ đáy lòng ông:
"Anh em đồng chí biết cho bô con ông
Cụ Hồ trên đẩu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bổ con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có
bao giờ dám đơn sai".
Nhà văn đã nhìn thấy nhừng nét đáng trân trọng bên trang người nông
dân chân lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay
khoe làng, thích nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân
thực ở đặc điếm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của
làng và chân thực ớ những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trư¬ng
của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội.
Nếu như trong biến cô ây tâm trạng cùa ông Hai đau đớn, túi cực bao nhiêu
thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu cùa ông
không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hè bấy nhièu. Ỏng Hai
như người vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đối cùa trạng thái
tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thiu mọi ngày
bổng tươi vui, rạng rờ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung
đỏ hâ'p háy ". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ Đốt nhẵn!
[ ] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả., "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông
chủ ậ. Đốt nhẵn.[ ] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục
đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ây chứ? Nhưng ông đang tràn
ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách "người làng Việt gian" Cái tin ấy
xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy
khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe
khoang dáng yêu của mình, Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này
cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn
Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của
mình như thế. Lúc ông nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận
thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bấc Bộ:
"Nắng này là bỏ mẹ chúng nó", "không đọc thành tiếng cho người khác nghe
nhờ mấy", "Thì vườn", "có bao giờ dám đơn sai", Đặc biệt là nhà văn cố ý
thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn của ông Hai. Những
từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dâu ấn ngôn ngữ của người nông dân ứ thời
điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa
hiếu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của cảu chuyện phẩn nào cũng nhờ
vào dặc điểm ngôn ngữ này. Trong tác phẩm, nhà văn cũng thê hiện rõ sự
thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê. Kim Lân đả vận dụng những
hiểu biết đó hết sức khéo léo vào việc xáy dựng tâm lí, hành dộng, ngôn ngữ
nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm
trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có
sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc dáo.
Tình yêu làng của ông Hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ riêng
đôi với nơi ông sinh ra và lớn lên. I.Ê-ren-bua từng tâm đắc: “Tình yêu làng
xóm trở nên tình yêu quê hương đất nước”. Và bởi thế, tình yêu làng của
ông Hai gán bó chặt chẽ với tình yêu nước với tinh thần kháng chiến đang
lên cao của cả dân tộc. Đó cũng chính là biểu hiện chung của tình yêu đất
nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chô'ng Pháp.
Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có
thế quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung với kháng
chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một
ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi
nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết tin
làng mình không theo giặc, Ai đó đã một lần thấy nhà vàn Kim Lán, nghe
ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng
rồi thì phải.
Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu
biêu cho người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng
đồng thời cũng mang những đác điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã
trở thành linh hồn của Làng và thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác
phẩm
Đề bài: Phân tích tác phâm Làng của nhà Kim Lân ( Bài văn ngắn)
Bài làm:
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là
nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách
mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và nông
thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của
người nông dân. Truyện ngắn “Làng” là một trong những truyện ngắn hay
nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc khánh chiến chống
Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết về lòng yêu nước của ông
Hai Tu, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê hương, yêu làng sâu sắc
của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người nông
dân VN ta trong những ngày đầu chống Pháp.
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết , yêu đến
nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông nói
một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông
khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng
đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân.
Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt
thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự
hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi
cách mạng thành công, nó đã giúp ông hiểu dc sự sai lầm của mình. Và từ
đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập,
những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn
khoe cả những hố , những ụ, những hào, lắm công trình không để đâu hết.
Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải
xa làng. Xa làng ông mang theo tất cả nỗi niền thương nhớ. Vì vậy, nên lúc
tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của
ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “ chôn rau
cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lý chung của mọi người
nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn
giản, nhỏ : cây đa, giếng nướ, sân đình… và nâng cao lên đó chính là : tình
yêu đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-
ren-bua : “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu TQ “.
Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức
về làng chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo tây. Cổ ông lão “
nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân” ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở
được. Ông cảm thấy đâu đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của
mình theo giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây : “chúng bay ăn miếng cơm
hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã
thế này”. Cũng chình từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú
trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho gia
đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra ý định: “hay
là quay về làng ?” nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối ngay vì : “
làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù.” Có thể nói với ông Hai,
làng và nước bay giờ đã trở thành đối địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến
cuộc xung đột nội tâm trong lòng ông. Nhưng trong đó, tình yêu đất nước
được ông Hai đặt lên trên hết. Phải thực sự am hiểu sâu sắc về con người,
nhất là tâm lí của người dân thì Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trang nhân
vật như vậy. trong những ngày này, nỗi niềm và tâm sự của ông được thể
hiện trong những lời trò chuyện của ông với đứa con út. Trò chuyện với con
như là để thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con:
“con ủng hộ ai?”
Thằng bé giơ tay mạnh bạo và rành rọt:
“ Ùng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm”.
Cái lòng của bố con ông là thế đấy “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.
Thế rồi, một tin khác lại đính chính rằng làng ông không theo giặc. Những
nỗi lo âu, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi vui mừng, sung sướng. Ông đi
từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả
cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê: “ bác Thứ đâu rồi !
Bác Thứ làm gì đấy ? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn ! ông chủ tịch
làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… cái tin, cái tin làng
chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục
đích cả” Qua lời khoe củ ông Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề
tiếc hay buồn khi ngôi nhà của ông bị đốt . Niềm vui vì làng không theo giặc
đã choáng hết tâm trí ông. Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch. Quả thật,
Kim Lân rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh của ông Hai, một
trong những người dân bấy giờ, đơn giản, chất phác, tiêu biểu cho tầng lớp
nông dân VN sau cách mạng tháng 8. Họ đã đặt tình yêu đất nước lên trên
tình yêu làng. Kim Lân thật thành công trong nghệ thuật xây xựng truyện,
nhất là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là điển hình. Lời
nói của ông hai đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy giờ, kể
cả những từ dung sai: “bác Thứ đâu rồi… Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự mục
đích cả”. Bên cạnh đó Kim Lân còn thành công trong việc miêu tả tâm lý
nhân vật. Diễn biến tâm lý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm
đông. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi
theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục, và khi biết làng mình không theo giặc,
ông sung sướng, thậm chí còn khoe cả tin nhà mình bị đố cháy một cách vui
sướng, hả hê. Xây dựng được những chi tiết ấy, miêu tả sự phát triển tâm lý
nhân vật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình. Truyện
“Làng” là một tác phẩm khá thành công khi viết về lòng yêu nước, yêu làng
của người nông dân VN thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã thể hiện
được tài năng của mình qua tác phẩm này. Đọc tác phẩm giúp ta hình dung
được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một lòng theo
Bác, theo Đảng khánh chiến đến cùng, có lẽ vì vẫy mà cuộc chiến của ta đã
dành được thắng lợi vẻ vang.
Đề bài: Phân Tích bài thơ đồng chí- Chính Hữu ( bài văn ngắn)
Bài làm:
Tình đồng chí là thứ tình cảm rất thiêng liêng và đáng quý của những
người lính. Tình đồng chí cũng là đề tài làm tốn biết bao giấy mực của các
nhà văn, nhà thơ. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu đã phản ánh chân thực, sinh
động về tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng.
Đồng chí là bài thơ tiêu biểu viết về người lính trong thời kì đầu cửa
kháng chiến chống Pháp. Tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm rất chân
thật, giản dị. Bài thơ không chỉ thể hiện cơ sở xuất phát của tình đồng chí mà
còn thể hiện tình đồng chí đó trong những gian khổ, thiếu thốn nơi chiến
trường, trong chiến đấu khó khăn.
Cơ sở của tình đồng chí xuất phát từ những con người cùng chí
hướng, cùng đích là cầm súng đứng lên bảo vệ độc lập của đất nước.
Không chỉ có vậy, tình đồng chí của những người lính còn xuất phát từ
những người cùng cánh ngộ, những người cùng tầng lớp nhân dân:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
Tuy mỗi người ở một nơi khác nhau, người đến từ miền ven biển, đất
chiêm trũng, người lại đến từ vùng trung du đất cằn nhưng họ đều sát cánh
bên nhau, cùng đứng trong hàng ngũ chiến sĩ cách mạng. Tình đồng chí của
họ còn có cơ sở từ tình bạn gắn bó, cùng nhau chia sẻ. Chỉ đơn giản là đêm
rét chung chăn thôi nhưng cũng đủ để trở thành tri kỉ. Tình đồng chí của
những chiến sĩ cách mạng là tình cảm gắn bó bền chặt bởi cơ sở của nó là
tình bạn của những người cùng chí hướng, cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng
giai cấp, cùng hàng ngũ.
Tình đồng chí của những người chiến sĩ cách mạng được thể hiện
trong những gian khổ, thiếu thốn nơi chiến trường. Họ phải trải qua
những cơn sốt rét rừng rất khắc nghiệt, rét đến run người nhưng trán vẫn đổ
mồ hôi. Họ phải chia sẻ nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Mỗi người lính khi
ra trận đều có một điểm tựa, một nơi để hướng về, đó là nỗi nhớ nhà, nhớ
người mẹ, người vợ nơi quê nhà. Hình ảnh giếng nước gốc đa là hình ảnh
gần gũi, quen thuộc của quê hương, của những người thán nơi quê nhà.
Những người lính thấu hiểu hoàn cảnh của nhau và chia sẻ với nhau nỗi nhớ
nhà. Những người lính còn chia sẻ với nhau cả những chiếc áo vá, chiếc
quần rách. Những thiếu thốn nơi chiến trường gian khổ như cái áo, cái quần,
đôi giày không làm vơi đi ý chí chiến đấu của người lính. Họ chấp nhận gian
khổ một cách vui vẻ và dường như, hình ảnh chân không giày chỉ gợi lên
cho chúng ta hình ảnh của những người nông dân chân chất chứ không nhấn
mạnh lắm sự thiếu thốn nơi chiến trường. Tình đồng chí của những người
lính chỉ đơn giản là cử chỉ tay nắm lấy bàn tay, nhưng chỉ hành động nhỏ bé
ấy thôi cũng đủ quí giá hơn mọi lời nói. Cái siết chặt tay ấy là sự chia sẻ, xoá
đi mọi gian khổ’ vất vả và mang bao ý nghĩa. Cái siết tay ấy cũng có thể so
sánh với cái bắt tay qua ô cửa kính đả vỡ của những người chiến sĩ lái xe
trong thơ Phạm Tiến Duật, cái siết tay truyền thêm, tiếp thêm nghị lực.
Tình đồng chí, đồng đội của những người lính không chỉ thể hiện
trong những khó khăn, thiếu thốn nơi chiến trường mà còn thể hiện trong
cuộc sống chiến đấu gian khổ:
“ Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Ba câu thơ cuối của bài thơ vừa thể hiện tình đồng chí của người lính
trong chiến đấu vừa gợi lên hình ảnh người lính rất đẹp, rất lãng mạn. Trong
đêm sương muối rét buốt, những người lính phải đứng gác nơi rừng hoang.
Trong thời tiết, hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy, những người lính
vẫn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng chờ giặc tới, Trong cuộc kháng chiến
gian khổ ấy, những người lính lại sát cánh bên nhau, đứng cạnh bên nhau
sẵn sàng chiến đấu, không quản ngại khó khăn gian khổ. Hình ảnh những
người lính hiện lên rất chân thực, rất đẹp. Hình ảnh đầu súng trăng treo vừa
là hình ảnh tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đêm đứng gác
về khuya, trăng xuống thấp, những người lính lại đeo súng trên vai nên ta có
cảm giác như trăng treo nơi đầu súng. Nhưng cây súng cũng là biểu tượng
cho lực lượng chiến đấu bảo vệ hoà bình, trăng là biểu tượng của hoà bình.
Hình ảnh đầu súng trăng treo là hình ảnh thơ đẹp và lãng mạn, thể hiện hình
ảnh của người lính cách mạng, và qua đó cũng chính là thể hiện tình đồng
chí, đồng đội của người lính cách mạng trong chiến đấu gian khổ.
Bằng ngôn ngữ thơ rất giản dị, chân thực, Chính Hữu đã thể hiện
chân thực và sinh động tình đồng chí, đồng đội của những người lính cách
mạng qua những tình huống rất bình dị. Tình dồng chí của những người lính
được thể hiện trong bài thơ rất sâu sắc, thiêng liêng, là tình cảm đẹp của
những người lính cách mạng, tạo nên vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của
người lính cách mạng.
– Đề bài: Em hãy viết bài văn nếu cảm nhận của em về hình ảnh người
lính trong hai bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe
không kính (Phạm Tiến Duật).
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng
bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng
nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của
con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt
ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân
thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội
Cụ Hồ trong những năm đầu đánh Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân
miền Nam thời đánh Mĩ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác
nhau. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác năm 1948, in
trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh người nông dân cầm súng được
miêu tả trong bài thơ với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thật lãng
mạn, bay bổng. Là những nông dân quanh năm lam lũ với con trâu, mảnh
ruộng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện từ giã quê
hương đi chiến đấu. Phần đông chưa biết chữ, vào quân đội mới bắt đầu học
i tờ nhưng họ lại rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản mà rất đúng đắn
rằng: chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc cũng là bảo vệ mảnh vườn, thửa
ruộng, mái ấm gia đình. Quyền sống thiết thực của mỗi con người đã thôi
thúc họ hành động.
Cuộc đời chiến sĩ gian nan, vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định
phẩm chất cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Từ bốn
phương trời, không hẹn mà nên, họ gặp nhau, trở thành đồng đội, đồng chí
của nhau. Sinh ra và lớn lên từ những vùng quê nghèo khổ, cơ cực, các anh
mang bản chất hồn nhiên, chất phác của người lao động. Đi chiến đấu chống
xâm lăng, các anh để lại sau lưng lũy tre, mảnh ruộng quen thuộc và mái
tranh nghèo cùng với những người thân. Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Mặc kệ là lối nói tự nhiên, mộc mạc
của người nông dân, bày tỏ thái độ dứt khoát trọng việc nước hơn việc nhà.
Dứt khoát thế nhưng không khỏi nhớ tới quê hương, làng mạc, gia đình. Nỗi
nhớ của các chiến sĩ đơn giản và cụ thể: ruộng nương, giếng nước, gốc đa,
mái tranh… gắn liền với nơi chôn nhau cắt rốn là những miền quê nghèo
khó.
Trong môi trường quân đội, các anh gắn bó, chiạ sẻ vui buồn, gian
khổ, sông chết với nhau. Còn gì chân thành hơn, tin tưởng hơn cái xiêt tay
của đồng đội truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau lúc gian nan, nguy hiểm?!
Buổi đầu kháng chiến, quân và dân ta đánh giặc gần như với hai bàn
tay trắng. Bộ đội có gì mặc nấy, có gì dùng nấy, đâu được trang bị đầy đủ
như bây giờ. Đẹp biết mấy là nụ cười lạc quan của người chiến sĩ. Cười
trong buốt giá là thái độ coi thường khó khăn, gian khổ, là niềm tin vững
chắc vàọ ngày mai chiến thắng.
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Đó là hình ảnh đơn sơ mà tuyệt vời thi vị về anh Vệ quốc thời kì đầu
kháng chiến, đồng thời cũng là lời ngợi ca tình đồng chí thiêng liêng giữa
những con người đang kề vai sát cánh bảo vệ Tổ quốc, đem lại cuộc sống
thanh bình cho dân tộc.
Nếu bài thơ Đồng chí là hình ảnh của người lính Cụ Hồ trong kháng
chiến chống Pháp thì Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của
người lính Giải phóng trong kháng chiến chống Mĩ gian khổ và quyết liệt.
Người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn vô cùng dũng cảm, có
sức chịu đựng gian khổ tuyệt vời nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc
quan cách mạng. Xe lăn bánh cũng có nghĩa là người chiến sĩ lái xe bắt đầu
bước vào trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc nhưng
họ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có.
Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị
động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ
dựa tinh thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh
giải phóng miền Nam, là tình cảm tất cả vì miền Nam ruột thịt, là chân lí
“Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên
ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực,
thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền
độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Ai đã từng một lần đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ
mới thấu hiểu những gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường
Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe
chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì bom đạn giặc Mĩ
liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có kính người lái
xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào!
Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió
lùa mạnh vào cabin khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió và bụi. Gió
làm cay mắt, chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là
độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái
khí hậu khắc nghiệt của rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn
cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn, do đó mà tác động của cảnh
vật đối với sự cảm nhận của con người tăng lên gấp bội; sao trời ban đêm,
cánh chim ban ngày như sa, như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con
đường lùi lại phía sau, người lái xe có cảm giác nhìn thấy con đường chạy
thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng một ý nghĩa sâu xa: con đường vào chiến
trường miền Nam chính là đích đến của trái tim người lính. Mỗi vất vả, gian
nan đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân
thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Gian khổ
tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bực. Đó là chất lạc quan thanh thản của
một dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các
chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang
tàng, rất lính.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn
bay bổng hòa quyện với nhau:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến
tranh ác liệt in dấu rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính,
không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe
vẫn chạy vào hướng miền Nam – tiền tuyến lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi
trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân trước
vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là một
hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ
lái xe anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến
sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn xứng đáng tiêu biểu cho chủ nghĩa anh
hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời đánh
Mĩ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tự sự nhưng đậm chất
trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng
tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự
nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản
dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo độc đáo, nhịp thơ tự
do, phóng khoáng… Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài
thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hóa thân của tác giả vào
nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế
hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.
Hai bài thơ của hai nhà thơ chiến sĩ được sáng tác trong hai hoàn cảnh,
thời điểm khác nhau nhưng cùng chung bút pháp lãng mạn và hiện thực và
đều nhằm mục đích ca ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh giữ
nước.
Xuyên suốt mỗi bài thơ là cái tình, là trách nhiệm công dân của người
chiến sĩ trước vận mệnh đất nước. Tự nguyện dấn thân, chấp nhận gian khổ,
hi sinh, trước sau giữ vững chí khí anh hùng và quyết tâm chiến đấu… đó là
những nét đẹp nổi bật của hình tượng người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu và
Phạm Tiến Duật.
Đề bài: Em hãy viết bài văn Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
Bài làm:
Bài thơ Bếp lửa,được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi anh đang là
sinh viên du học tại Liên Xô và mới bắt đầu đến với thơ, Bằng Việt thuộc
thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước như Phạm
Tiến Duật, Thanh Thảo, Anh Ngọc, Nguyễn Duy… Thơ Bằng Việt trong
trẻo, mượt mà, thiên về khai thác những kỉ niệm và ước mơ tuổi trẻ nên gần
gùi với lứa tuổi học trò.
Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng
thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm xúc động về tình bà cháu; đồng
thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với
bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.
Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm
trong suốt tám năm ròng tuổi thơ, tác giả được sống bên bà, được hưởng
sự chăm sóc, lo toan và tình yêu thương trìu mến bà dành cho cháu. Từ
những kỉ niệm êm đẹp ấy, đứa cháu nay đã trưởng thành thấu hiểu về cuộc
đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Bài thơ khép lại cũng bằng
hình ảnh bếp lửa nhưng là bếp lửa bập bùng trong tâm tưởng, cháy sáng
niềm nhớ thương, yêu kính của đứa cháu gửi tới người bà ở quê hương xa
xôi.
Tìm hiểu cảm xúc và bố cục bài thơ, ta thấy mạch cảm xúc của tác giả
là đi từ hồi tưởng quá khứ đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Bài thơ có
thể chia làm bốn đoạn, theo diền biến tâm trạng của nhân vật trữ tình. a dòng
đầu là phần mở đầu với hình ảnh bếp lửa, khơi nguồn cho dòng hồi tưởng và
cảm xúc về bà. ốn khổ tiếp theo là dòng hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ
được sống bên bà và hình ảnh người bà kính yêu gắn liền với hình ảnh bếp
lửa quen thuộc.Hai khổ tiếp theo là những suy ngẫm đầy xúc động của người
cháu về cuộc đời bà.Khổ thơ cuối thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của
cháu đối với bà. Dù đã trưởng thành và đang sống xa quê hương, đất nước
nhưng cháu không nguôi nhớ về người bà yêu quý.
Trong dòng hồi tưởng của người cháu, những kỉ niệm về bà và tình bà
cháu đã hiện lên sống động và cụ thể. Sự hồi tưởng bắt đầu từ hình anh quen
thuộc thân thương:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Đây là hình ảnh không thể thiếu của bức tranh sinh hoạt ở nông thôn tự
bao đời, mà người nhóm lửa lại chính là những người bà, người mẹ trong gia
đình. Từ ấp iu gợi liên tưởng đến bàn tay kiên nhẫn khéo léo và tấm lòng chi
chút của người nhóm lửa. Lửa được gìn giữ từ ngày này qua ngày khác bằng
đống rấm, trên có chặn một cục đất nung khá lớn có tay cầm. Muôn có lửa,
người ta chỉ cần một nắm rơm vo chặt làm mồi, khẽ khơi đống rấm rồi thổi
cho ngọn lửa bùng lên. Công việc ấy cứ lặp đi lặp lại hằng ngày, đơn giản
thế nhưng không hề nhàm chán mà ngược lại, có một cái gì đó rất đỗi thiêng
liêng, xúc động.
Khi tiếng gà báo sáng vang rộn khắp thôn, mặt trời chưa ló dạng, bà
đã thức dậy nhóm lửa nấu cơm. Ánh lửa bập bùng soi tỏ bàn tay nhăn nheo
của bà, in bóng bà chập chờn trên vách. Khói bếp chờn vờn quyện với hơi
sương. Hình ảnh như thực, như mơ ấy đã khắc sâu trong tim đứa cháu. Hai
câu thơ gợi lại bao kỉ niệm cua một thời thơ ấu gian khổ, thiếu thốn bên cạnh
người bà tảo tần, nhân hậu. Nhớ đến bà, tự đáy lòng nhà thơ bật lên tiếng nói
chân thành:"Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Trong bốn khổ thơ tiếp theo, tác giả kết hợp khéo léo giữa biểu cảm
với miêu tả, tự sự với trữ tình, làm cho người nghe rung động sâu xa truớc
cuộc sống nhọc nhằn của hai bà cháu và hiểu được tình thương tha thiết của
người cháu dành cho bà.Âm hưởng câu thơ bất chợt chùng xuống, trĩu nặng
đau thương:
“Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”
Bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu dân Việt
Nam chết đói vì chính sách cai trị dã man của giặc Nhật, giặc Pháp đã bao
phủ tuổi thơ tác giả. Hình ảnh Bố di đánh xe, khô rạc ngựa gầy và xóm làng
bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi đã in đậm dấu ấn buồn thảm trong tâm hồn cậu
bé mới lên bốn tuổi. Rồi kháng chiến bùng lên, mẹ và cha đi đánh Pháp bận
không về. Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa. Cháu sống trong sự cưu
mang, dạy dỗ của bà, sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan:
“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc …”
Kỉ niệm về bà và tuổi thơ vất vả luôn gắn với hình ảnh bếp lửa bập
bùng, gợi ra những liên tưởng thú vị và độc đáo:
“Chỉ nhở khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay !”
Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự
cưu mang đùm bọc đầy yêu thương chi chút của bà.
Bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu lại gợi thêm một liên tưởng
khác. Đó là nỗi nhớ khắc khoải tiếng chim tu hú rộn rã báo hiệu mùa lúa
chín vàng đồng, vải chín đỏ cây Tiếng chim khơi dậy những kỉ niệm khó
quên:
“Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
…Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Cuộc sông kháng chiến tuy khó khăn gian khổ nhưng bà vẫn vượt qua
tất cả để các con yên tâm đánh giặc nơi chiến trường xa:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !””
Bà là người mẹ, người bà thật chu đáo, tận tình. Bà là hậu phương lớn
lao, vững chắc của những người con ngoài tiền tuyến:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Đoạn thơ thứ ba là những suy ngẫm của người cháu về bà gắn liền với
hình ảnh bếp lửa hồng quen thuộc. Từ hồi tưởng về tuổi thơ được sống bên
bà, người cháu rút ra nhận xét: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa.
Biết bao tình cảm chân thành gói ghém cả trong câu thơ mộc mạc mà
sâu sắc ấy. Nỗi nhớ thương, niềm kính phục, lòng biết ơn của đứa cháu đôi
với bà đang dâng lên, xoáy cuộn, thổn thức ở trong lòng. Hình ảnh bà luôn
luôn hiện diện cùng hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà là hình tượng
tiêu biểu cho các bà mẹ Việt Nam trong thời kì kháng chiến chông Pháp.
Các bà mẹ là người nhóm lửa, củng là người giữ cho ngọn lửa của tình yêu
thương luôn ấm nồng và toả sáng trong mỗi gia đình.
Sự tần tảo, đức hi sinh và lòng nhân hậu của bà được tác giả thể hiên
trong một chi tiết rất tiêu biểu:
“Mấy chục năm rồi,đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mài sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Bếp lửa tay bà nhóm lên mồi sớm mai cũng chính là nhóm lên niềm
yêu thương, niềm vui sống, nối quá khứ với hiện tại, tương lai.Đứa cháu bé
bỏng năm xưa giờ đã lớn khôn, được chắp cánh bay xa, bay cao, được làm
quen với những khung, cảnh mới mẻ, những niềm vui rộng mở ở chân trời
xa, nơi Có ngọn khói trăm tàu Có Lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả. Tuy
thế, cháu vẫn không thể nào quên bếp lửa của bà, tấm lòng đùm bọc ấp iu
của bà. Bếp lửa ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì
diệu, nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài. Cháu yêu bà, nhờ
hiểu bà mà thêm hiểu dân tộc mình, đất nước mình.
Suốt bài thơ, hình ảnh người bà luôn đi đôi với hình ảnh bếp lửa. Có
tới mười lần tác giả nhắc tới bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh
người bà, người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại và
đầy yêu thương. Bếp lửa là tình bà ấm áp bếp lửa là nguồn sống do tay bà
chăm chút. Bếp lửa chứng kiến những khó khăn, gian khổ đời bà. Ngày
ngày, bà nhóm lửa cũng là nhóm lên niềm vui, niềm hi vọng nhóm lên sự
sống và tình yêu thương dành cho cou cháu và mọi người. Chính vì thế mà
nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị, thân thuộc chứạ
đựng sự kì diệu, thiêng liêng khó tả:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !”
Nhà thơ còn nhận ra một điều sâu xa hơn nữa là bếp lửa được bà
nhóm lên không chỉ bằng rơm rạ mà còn bằng ngọn lửa từ trong tim – ngọn
lửa của lòng yêu thương và niềm tin bất diệt. Bởi vậy, từ hình ảnh bếp lửa,
nhà thơ đã chuyển tiếp sang hình ảnh ngọn lửa với ý nghĩa tượng trưng và
khái quát rất lớn:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Như thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người
truyền lửa, một ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
Điểm nổi bật về nội dung, nghệ thuật của bài thơ là sự suy ngẫm,
phát hiện ý nghĩa tư tưởng chất chứa dưới bề sâu của các hình tượng thơ. Bài
thơ mang một ý nghĩa triết lí tinh tế: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ
đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc
đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn của cháu đối với bà là biểu hiện cụ thể
của tình yêu thương, gắn bó với gia đình và đó cũng là khởi đầu của tình yêu
quê hương, đất nước.
Thành công của bài thơ không chỉ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận mà còn ở sự sáng tạo ra hình ảnh
bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm,
cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
Đề Bài: Phân tích bài thơ về “ Tiểu đội xe không kính” – Phạm Tiến
Duật.
Bài Làm:
Phạm Tiến Duật sáng tác rất nhiều thơ về người lính. Thơ anh có phong
cách rất riêng: giọng kể sinh động, cảm xúc chân thực, tươi trẻ pha lẫn cái
ngang tàng, bụi bặm của những người lính Trường Sơn. Bài thơ về tiểu đội
xe không kính là tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy của anh
Bài thơ Tiểu đội xe không kính ra đời năm 1969, khi cả nước đang tập
trung toàn bộ sức người, sức của cho miền Nam đánh Mĩ. Con đường
Trường Sơn ngày đêm đông nghịt phương tiện chuyên chở vũ khí, thuốc
men, lương thực… phục vụ cho tiền tuyến lớn. Những đoàn xe vận tải vẫn rì
rầm vào ra dưới mưa bom, bão đạn của quân thù để hoàn thành nhiệm vụ.
Và đây, một tiểu đội xe trong biết bao tiểu đội. Những chiếc xe thật lạ kì:
"Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi"
Mới nghe, tưởng chừng như một lời giãi bày. Nhưng không, đọc kĩ
lại thấy nó là lời giới thiệu, một lời giới thiệu tự nhiên như không. Bao
hiểm nguy, chết chóc được nói đến một cách bình tĩnh đến lạ. Bom giật bom
rung ghê sợ là thế, và đó cũng là nguyên nhân để những chiếc xe trở thành
xe không kính. Vậy mà những âm thanh ấy vang lên trong hai câu thơ đầu
thật nhịp nhàng. Có phải người lính đã không còn lạ với những đe dọa của
chiến tranh, và họ lí giải mọi hiện tượng rất đơn giản. Thơ văn trong kháng
chiến thường miêu tả sự vật mang tính ước lệ, riêng Phạm Tiến Duật lại
dùng ngôn ngữ rất đời thường, giản dị.
Dù trong chiến tranh bom đạn những những người lính vẫn lạc quan
yêu đời, bom đạn của kẻ thù đã làm chiếc xe không còn bộ phận để bảo vệ
người ngời bên trong, nhưng trong buồng lái, người chiến sĩ lái xe cảm nhận
tất cả từ bên ngoài:
"Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái."
Trong cuộc chiến đấu tranh để bảo vệ đất nước, chúng ta đã phải hi
sinh rất nhiều người, những người lính ra chiến trường dù không biết sống
chết thế nào họ vẫn lạc quan yêu đời. Trong bài thơ tư thế người lái xe được
miêu tả chỉ bằng hai tiếng ung dung nhưng đã đủ toát lên tất cả tâm hồn của
họ. Họ bình tĩnh lái xe, bình tĩnh đón nhận mọi hiện tượng từ bên ngoài. Sự
tập trung chú ý của họ được diễn tả qua câu thơ thứ hai rất sinh động: Nhìn
đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Đất trời ấy cũng là phía trước. Con đường đứng
trước mặt là mục tiêu để họ lái xe đi. Không có kính, xe lao đi bất chấp hiểm
nguy. Và mọi thứ từ bên ngoài ùa vào qua ô cửa sổ vỡ ấy là một thử thách.
Thế nhưng người lái vẫn mở to mắt để nhìn thấy tất cả, để chọi lại với tất cả.
Gió, bụi cát… làm mắt mờ đi. Nhưng điều đó có hề gì. Anh vẫn đang nhìn
thấy con đường trong tốc độ xe lao nhanh. Đường phía trước là đường chạy
vào trái tim, là đường đến với miền Nam ruột thịt. Biến hiện thực thành lãng
mạn, biến gian nguy thành niềm vui sống đó là cảm hứng sáng tác của Phạm
Tiến Duật. Hai câu cuối của khổ thơ này thể hiện rõ điều đó: mọi thử thách
từ bên ngoài lui đi, chỉ còn hình ảnh đầy lãng mạn: sao trời và cánh chim ùa
vào buồng lái. Ra với thiên nhiên, người trở nên phơi phới hơn. Và rõ ràng,
người lái xe đang cảm nhận được tất cả, qua một loạt các từ nhìn, nhìn thấy,
thấy ở các câu thơ trên.
Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến
người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật,
hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã
biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến
tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ
"gió","con đường" đến cả "sao trời", "cánh chim". Thế giới bên ngoài ùa vào
buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái.
Hình ảnh "những cánh chim sa, ùa vào buồng lái" thật sinh động, gợi cảm.
Hình ảnh "con đường chạy thẳng vào tim" gợi liên tưởng về con đường ra
mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng.
Những khó khăn vừa nêu trên vẫn còn trừu tượng lắm, phải đến hai
câu thơ sau tất cả mới được bày ra cụ thể: Không có kính, ừ thì có bụi,
không có kính ừ thì ướt áo, nghe lại vẫn giọng điệu thản nhiên như ban
đầu. Và thản nhiên hơn, nghe như ngang tàng hơn, đó là thái độ của người
lái:
"Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau một lần cười ha ha.
Mưa ngừng, gió lùa khô ngay thôi.
Những chiếc xe từ trong bơm rơi"
Cái giọng cười ha ha thật sảng khoái ấy đã đẩy lùi mọi vất vả về
phía sau. Rõ ràng, với người lính lái xe, tất cả mọi thử thách ấy đều trở
nên không còn đáng sợ.Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận
tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét
trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù
mà trái lại "tiếng hát át tiếng bom", họ xem đây là cơ hội để thử thách sức
mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy
hiểm. Câu thơ "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha" biểu lộ sâu sắc sự lạc quan
ấy. Xe chạy, rồi xe dừng, cuộc sống người lính vẫn tiếp diễn trong cái
lạc quan mà trữ tình rất riêng ấy:
"Những chiếc xe từ trong bơm rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi".
Hình như chính ô cửa vỡ ấy khiến họ gần nhau thêm khiến cái bắt tay
của họ thêm chặt hơn, và tình đồng đội lại càng thêm thắm thiết. Cái bắt tay
qua ô cửa kính vỡ như sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau của những người lính
Trường Sơn. Học cùng nghỉ ngơi, cùng ăn uống và lại vẫn chân thật thốt nên
lời:
"Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy"
Sau tất cả, những chiếc xe, những chiếc xe lại tiếp tục hành trình: lại
đi, lại đi trời xanh thêm. Mỗi lần nghỉ là một lần tiếp thêm sức mạnh để họ
lên đường. Khổ thơ cuối cùng vang lên, hình ảnh những chiếc xe trụi trần
đến kinh ngạc. Các từ không được lặp lại để diễn tả cái trạng thái trụi trần
ấy:
"Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước"
"Trời xanh thêm" vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng
đường đã đi và đang đến. "Trời xanh thêm" vì lòng người luôn có niềm tin
về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng
cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu
nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải
phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc . Nào
đâu phải chỉ là không có kính. Bom giật, bom rung trên kia còn làm một
chiếc xe bị thương nhiều hơn. Những vết xước trên thân mình nó càng khẳng
định những thử thách, khó khăn mà người lái xe phải vượt qua. Hai câu cuối
hạ xuống nhẹ nhàng mà trầm lắng bất ngờ:
"Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim."
Đối lập hoàn toàn với hai câu thơ đầu. Và hình ảnh trái tim là hình
ảnh quán xuyến tất cả. Hình ảnh hoán dụ có giá trị gợi tả đặc biệt: trái tim ở
đây là con người biết yêu thương. Biết ý thức được mục đích của việc mình
làm, trái tim ở đây là người chiến sĩ. Và nhờ trái tim ấy mà người lính điều
khiển được những chiếc xe không kính lao đi trong mưa bom bão đạn. Có
người cho rằng: rõ ràng ở đây là trái tim cầm lái. Phải chăng, câu thơ cuối
với hình ảnh này đã làm sáng lên toàn bộ bài thơ, sáng lên với chủ đề của tác
phẩm và sáng lên ý thức sáng tác của nhà thơ. Hình ảnh trái tim đã trở thành
mắt thần, thành điểm sáng của bài thơ là vậy.
Và những chiếc xe lại lao đi. Tất cả cho tiền tuyến, mệnh lệnh của
Tổ quốc và cũng là mệnh lệnh của trái tim người. Dẫu thân mình xe có xác
xơ đến mấy, dẫu những ô cửa vẫn đang trống hoác thì trái tim sẽ vẫn cứ
lái vững vàng.
Bằng ngòi bút của Phạm Tiến Duật, bài thơ mang âm hưởng chiến
trường rất rõ. Cùng với Lửa đèn cùng Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây,
Nhớ, tác phẩm này đã làm nức lòng bao thế hệ thanh niên thời chống Mĩ. Và
cho đến hôm nay, bài thơ vẫn có vai trò lịch sử tích cực. Nó giúp chúng ta
hiểu hơn về tâm hồn, tình cảm và cuộc sống của các chiến sĩ Trường Sơn.
Có lẽ chúng ta những học sinh, sẽ sống tốt hơn khi nghĩ về thế hệ cha anh đi
trước.
Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới
của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã
trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự
linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con
người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào
hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 -
1975.
HẾT !
Trên đây là các dạng và bài làm thao khảo liên quan tới kiến thức tự luận
vận dụng cao trong các bài thơ ( Chương trình NV 9 ): bếp lửa, đồng chí,
tiểu đội xe không kính, làng.