Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

luận văn hay đại học sư phạm hà nội ngành mầm non Trí tuệ cảm xúc của sinh viên Khoa Giáo dục mầm non Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 63 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở lí luận
Trí tuệ cảm xúc (TTCX) là một khái niệm khá mới mẻ và chỉ mới xuất
hiện trong những năm gần đây. Thế nhưng nó lại là vấn đề rất nóng bỏng và
đang được các nhà tâm lí học trên thế giới quan tâm, đề cập đến.
Trí tuệ đôi khi bị chúng ta đồng nhất với chỉ số IQ và hiểu nó một cách
hạn hẹp là trí thông minh hay là trí sáng tạo. Đó là một cách hiểu chưa chính
xác, phiến diện bởi chúng ta chú trọng quá nhiều đến trí tuệ lí trí mà quên mất
rằng cách biểu lộ cảm xúc cũng là một dạng trí tuệ vô cùng quan trọng để con
người mang đầy đủ tính người cũng như có thể thành đạt trong cuộc sống.
Những thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX, ở nhiều nước phương Tây, người ta
nói nhiều tới các xúc cảm của con người và sự giáo dục xúc cảm cho mọi
người, đặc biệt là các lớp trẻ. Các nhà tâm lí học ngày càng đánh giá cao vai trò
của cảm xúc và ảnh hưởng của nó đến đời sống con người. Nghệ thuật kiểm
soát cảm xúc và định hướng cảm xúc một cách đúng đắn được gọi là "trí tuệ
cảm xúc".
Trước đây, người ta thường đánh giá con người thông qua chỉ số thông
minh (IQ). Bởi họ cho rằng, trí thông minh và chỉ số thông minh là một thước
đo chuẩn, quá quen thuộc và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Thế nhưng
liệu IQ có thực sự phản ánh chính xác và đầy đủ về trí tuệ con người hay
không? Thực tế đã đặt ra rất nhiều câu hỏi cho các nhà tâm lí là: Tại sao những
người có chỉ số thông minh (IQ) cao nhưng lại không thành đạt trong cuộc
sống? Tại sao có những người có chỉ số IQ không cao nhưng lại thành công
trong cuộc sống? Và tại sao nhiều những người học giỏi, điểm số cao nhưng lại
thiếu tự tin, thiếu nhanh nhẹn, thiếu khéo léo trong mọi hoạt động? Tại sao
nhiều người có điểm số thấp, học không giỏi, nhưng lại tự tin, tháo vát, năng
động, nhanh nhẹn, biết xử lí các tình huống khó trong cuộc sống? Đó là những
câu hỏi khiến các nhà tâm lí phải suy nghĩ và cuối cùng họ đã nghiên cứu ra
yếu tố mới đó là TTCX.
1


TTCX là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định đến sự thành công của
con người. Nếu có được những yếu tố của TTCX thì con người có thể trở nên
nhanh nhẹn, khéo léo, tự tin, xử lí tốt các tình huống trong cuộc sống.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn đã cho thấy, có những sinh viên có chỉ số IQ cao, học giỏi, có
điểm số cao lại không làm nên sự nghiệp, không biết cách cư xử khéo léo,
không nhanh nhẹn. Ngược lại có những sinh viên học hành bình bình, bậc trung
nhưng lại có được thành công, sự tự tin, biết đánh giá, nhận xét vấn đề một
cách tốt nhất, làm việc có hiệu quả và biết đồng cảm với mọi người. Đó là
những người có TTCX tốt. Chính vì thế, việc giáo dục, bồi dưỡng TTCX cho sinh
viên là việc làm rất cần thiết.
Sinh viên Khoa GDMN Trường ĐHSPHN - những người sẽ chăm sóc và
giáo dục cho các mầm xanh của một đất nước, việc giáo dục, bồi dưỡng TTCX
cho họ càng là một vấn đề quan trọng, giúp họ có được một tâm lí ổn định,
nhanh nhẹn, khéo léo, biết cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề một cách tốt nhất
trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ sau này.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề:
“Trí tuệ cảm xúc của sinh viên Khoa Giáo dục mầm non Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội” làm đề tài khóa luận của mình. Hi vọng rằng kết quả nghiên
cứu của đề tài sẽ góp phần làm phong phú cơ sở lí luận và thực tiễn về TTCX
và việc giáo dục, bồi dưỡng TTCX cho sinh viên sư phạm mầm non.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng TTCX của sinh viên Khoa GDMN Trường ĐHSPHN
và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. Trên cơ sở đó xác định biện pháp giáo
dục, bồi dưỡng TTCX cho sinh viên.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Mức TTCX của sinh viên Khoa GDMN Trường
ĐHSPHN.
- Khách thể nghiên cứu: Sinh viên Khoa GDMN Trường ĐHSPHN.
2

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực trạng mức TTCX
ở sinh viên Khoa GDMN Trường ĐHSPHN.
- Giới hạn khách thế nghiên cứu: Nghiên cứu TTCX của 80 sinh viên ở
năm thứ I và năm thứ IV Khoa GDMN (năm học 2011- 2013) của Trường
ĐHSPHN (Trong đó có 40 siinh viên năm thứ nhất và 40 sinh viên năm thứ tư).
5. Giả thuyết khoa học
TTCX của sinh viên Khoa GDMN Trường ĐHSPHN chưa cao và không
đồng đều. Nguyên nhân của thực trạng này có thể là do môi trường học tập và
rèn luyện TTCX của sinh viên còn hạn chế. Nếu có những biện pháp giáo dục,
bồi dưỡng phù hợp với quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên thì có thể
nâng cao TTCX cho họ.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài
Hệ thống hóa những vấn đề lí luận cơ bản về TTCX và biện pháp nâng
cao TTCX làm cơ sở định hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn của đề tài.
6.2. Xác định thực trạng mức độ TTCX và sự khác biệt TTCX của sinh
viên qua các năm học ở Trường ĐHSPHN.
6.3. Đề xuất một số biện pháp tác động nhằm nâng cao TTCX cho
sinh viên Khoa GDMN Trường ĐHSPHN.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tri thức lí luận và thực tiễn để làm
sáng tỏ khái niệm TTCX, bản chất, cấu trúc, vai trò của TTCX đối với hoạt
động thực tiễn, phương pháp đo trí tuệ cảm xúc làm cơ sở định hướng cho việc
nghiên cứu thực tiễn của đề tài.
3
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
a. Phương pháp điều tra viết
- Mục đích: Tìm hiểu những biểu hiện TTCX của sinh viên qua các khóa

học. Đồng thời thu thập thêm thông tin về sinh viên: môi trường sống, thành
phần gia đình,…
b. Phương pháp trắc nghiệm tâm lí
- Mục đích: Xác định mức TTCX của sinh viên; so sánh mức TTCX của
sinh viên năm thứ nhất và năm thứ tư.
c. Phương pháp quan sát
- Mục đích: Thu thập thông tin về những biểu hiện TTCX của sinh viên
thông qua các hành vi trong các hoạt động hằng ngày ở trường sư phạm.
d .Phương pháp trò chuyện
Mục đích: Tìm hiểu quan điểm, nhận thức của sinh viên về vai trò của
TTCX trong hoạt động học tập và hoạt động nghề nghiệp sau này. Tìm hiểu rõ
hơn những biểu hiện TTCX của sinh viên trong quá trình học tập, làm bài trắc
nghiệm và trong các mối quan hệ khi thực tập sư phạm.
7.3. Nhóm phương pháp xử lí số liệu
Sử dụng một số công thức toán học thống kê phù hợp để lượng hóa kết quả
nghiên cứu làm cơ sở phân tích, đánh giá thức trạng mức TTCX của sinh viên.
4
NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN TÂM LÍ HỌC
VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trí tuệ cảm xúc
1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
TTCX là một vấn đề mới xuất hiện trong tâm lí học. Tuy nhiên, nó lại là
vấn đề được quan tâm, đề cập rất nhiều và gây tranh luận rất sôi nổi. Có thể kể
đến một số nhà nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
E. L. Thorndike, Trường Đại học Tổng hợp Columbia là người đầu tiên
tìm cách nhận dạng TTCX, mà lúc đó ông gọi là trí tuệ xã hội. Theo ông, trí tuệ
xã hội là năng lực hiểu và kiểm soát mà một cá nhân dùng để hành động một
cách khôn ngoan, sáng suốt trong các mối quan hệ của con người.
Howard Gardner (1983), là người có công lớn trong việc xem xét lại lí

thuyết TTCX trong tâm lí học. Ông đã cho ra đời cuốn “Frames of mind” để từ
đó đưa ra mô hình đa trí tuệ và cho rằng trí tuệ cá nhân bao gồm: Trí tuệ liên
nhân cách và trí tuệ nội nhân cách. Ông cho rằng hai loại trí tuệ này cũng quan
trọng như trí thông minh được biểu thị bởi chỉ số IQ và đo bằng trắc nghiệm
IQ. Trong quan sát của Gardner, các kiểu trí tuệ truyền thống như IQ không thể
giải thích một cách đầy đủ khả năng nhận thức của con người.
Wayne Payne là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “TTCX” trong bài
luận văn tiến sĩ của mình: “Nghiên cứu về xúc cảm: Phát triển TTCX” vào năm
1985. Tuy nhiên, thuật ngữ gần tương tự cũng đã xuất hiện trước đó.
Cùng vào năm 1985, Rewen Bar – On cũng đưa thuật ngữ “TTCX” vào
trong luận án tiến sĩ của mình. Đồng thời ông cũng đưa ra bài tập EQ - I. Đây là
trắc nghiệm đầu tiên về TTCX. Theo ông, trí thông minh thể hiện thông qua
một tập hợp các năng lực chung, các năng lực cụ thể và các kĩ năng. Ông không
cho rằng EQ không thể thay thế IQ nhưng chúng ta cần quan tâm cả hai phép
đo để hiểu biết hơn con người và tiềm năng của họ đối với sự thành công trong
các mặt khác nhau của cuộc sống. Ông đặt TTCX trong phạm vi lí thuyết nhân
cách, đưa ra mô hình Well - Being (1997) với ý định trả lời câu hỏi “Tại sao
5
một người nào đó lại có khả năng thành công trong cuộc sống hơn những người
khác?”. Ông đã nhận diện được 5 khu vực bao quát về mặt chức năng phù hợp
với thành công trong cuộc sống của cá nhân gồm:
- Các khả năng làm chủ xúc cảm của mìn
- Khả năng điều khiển xúc cảm liên cá nhân
- Tính thích ứng
- Kiểm soát stress
- Tâm trạng chung
Ông cho rằng : “TTCX là một dãy các năng lực phi nhận thức và những
kĩ năng có ảnh hưởng đến khả năng thành công của một người trong hoàn cảnh
người đó phải đương đầu với những yêu cầu và sức ép từ môi trường”.
Năm 1990, Peter Salovey và John Mayer là hai nhà tâm lí học Mỹ có

công lớn trong việc xây dựng khái niệm TTCX mang tính học thuật: “TTCX là
khả năng hiểu rõ cảm xúc của bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác,
phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và
hành động của mình”. Định nghĩa này đã có ảnh hưởng mạnh nhất đến lí thuyết
TTCX tại thời điểm đó. Cũng trong năm 1990, Mayer, Salovey cùng với M.T.
Đipaolo đã công bố bộ trắc nghiệm đo TTCX và từ đây hai ông đã dẫn đầu sự
phát triển khoa học về lí thuyết và phương pháp xác định chỉ số EQ. Sau 7 năm,
Mayer và Salovey (1997) đã chỉnh sửa đôi chút về định nghĩa TTCX được nêu
vào năm 1990 thành như sau: “TTCX như năng lực nhận biết, bày tỏ cảm xúc;
hòa cảm xúc vào suy nghĩ; hiểu, suy luận với xúc cảm; điều khiển, kiểm soát
xúc cảm của mình và của người khác”. Dựa trên định nghĩa này, mô hình
TTCX được xác định.
Daniel Goleman (1995), tiến sĩ tâm lí học của Đại học Harvard là người
có công lớn trong việc giúp người đọc biết đến định nghĩa TTCX thông qua
những tác phẩm của mình. Như cuốn “Làm việc với TTCX”; “TTCX - Tại sao
nó có thể quan trọng hơn IQ”, đây là cuốn sách bán chạy nhất ở nước Mỹ vào
những năm cuối thế kỷ XX,…
6
Theo Daniel Goleman, về một ý nghĩa nào đó, chúng ta có hai hình thức
khác nhau của trí tuệ là trí tuệ lí trí và TTCX. Cả hai thứ trí tuệ này cùng quyết
định cách con người hướng dẫn cuộc sống của mình như thế nào, trong đó
TTCX cũng quan trọng như trí thông minh. Ông còn khẳng định không có
TTCX thì trí thông minh không hoạt động được một cách thích đáng. TTCX là
loại trí tuệ góp phần quyết định sự thành bại của đời người nhiều hơn trí thông
minh, nó dễ thay đổi hơn và biên độ thay đổi cũng rộng hơn trí thông minh.
Trong khi chỉ số thông minh (IQ) thì hầu như mãi cố định, còn TTCX lại có thể
phát triển lên, có thể nâng cao chỉ số trí tuệ xúc cảm (EQ) nhờ kinh nghiệm
sống và hoạt động giáo dục.
Ông đã đưa ra 5 đặc điểm của TTCX là: hiểu rõ chính mình, kiểm soát
bản thân, giàu nhiệt huyết, biết cảm thông, kĩ năng giao tiếp. Những nghiên cứu

của ông không chỉ dừng lại ở việc xác định bản chất của TTCX mà ông còn
hướng đến việc nâng cao loại trí tuệ này một cách có hiệu quả.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu về TTCX - một dạng trí tuệ mới vẫn còn hạn
chế và chỉ là bước khởi đầu. Các tài liệu về TTCX vẫn còn ít và chủ yếu được
dịch từ các tác giả nước ngoài. Trong những năm gần đây, TTCX lại là một vấn
đề được các nhà tâm lí học nghiên cứu một cách sôi nổi với các cấp độ khác
nhau và đạt được những thành công nhất định.
TTCX lần đầu tiên xuất hiện trên Tạp chí Tâm lí học do PGS. TS.
Nguyễn Huy Tú viết, với bài: “TTCX - Bản chất và phương pháp chẩn đoán”
(12/2000). Tiếp đó là Nguyễn Công Khanh - người đã có khá nhiều bài viết về
TTCX trên tạp chí như: Nghiên cứu về mối quan hệ giữa các chỉ số trí tuệ IQ,
CQ và EQ ở lứa tuổi học sinh phổ thông (Tạp chí Khoa học giáo dục, số 2,
2005); Nghiên cứu TTCX ở học sinh Trung học phổ thông (Tạp chí Khoa học
giáo dục số 142);… Nguyễn Thị Dung với bài “Vấn đề đo lường TTCX” (Tạp
chí Khoa học giáo dục, số 161, 2007)
TTCX trở thành vấn đề nóng bỏng được các tác giả lựa chọn để làm luận
văn, luận án Tâm lí học như: luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Dung (2002)
7
“Bước đầu tìm hiểu TTCX và thử đo đạc loại trí tuệ này của giáo viên Tiểu
học”; luận văn thạc sĩ của Dương Thị Hoàng Yến (2004) “TTCX của giáo viên
Tiểu học Hà Nội”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Dung (2007), luận án tiến sĩ
của Phan Trọng Nam (2012),…
Ngoài ra, TTCX còn là đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội do PGS Trần Trọng Thủy chủ nhiệm đã sử dụng công
cụ trắc nghiệm để đo chỉ số TTCX của sinh viên hai trường: Đại học Sư phạm
Hà Nội và Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Như vậy, những công trình nghiên cứu về TTCX ở trong và ngoài nước
tuy không nhiều nhưng đã đạt được những thành quả nhất định. Tuy nhiên,
những đề tài về TTCX chỉ hướng vào giáo viên và học sinh phổ thông, ít đề cập

đến TTCX của sinh viên, nhất là sinh viên sư phạm Giáo dục mầm non. Vì vậy,
việc nghiên cứu TTCX của sinh viên Khoa giáo dục mầm non Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội và bồi dưỡng TTCX cho họ là việc làm cần thiết.
1.2. Trí tuệ cảm xúc
1.2.1. Trí tuệ
Trí tuệ là một khái niệm khá phức tạp và được rất nhiều nhà tâm lí
nghiên cứu đề cập đến. Có rất nhiều tài liệu viết về vấn đề này. Thế nhưng ở
mỗi khía cạnh, mỗi phương diện, mỗi lĩnh vực, người ta lại có khái niệm về trí
tuệ khác nhau.
Tuy nhiên có thể định nghĩa nó một cách khái quát như sau: “Trí tuệ là
một thuộc tính tâm lí giúp cá nhân nhận thức, định hướng và hành động một
cách đúng đắn và hợp lí trong những tình huống mới.
Trí tuệ có nhiều loại: trí tuệ lí trí (trí thông minh), trí tuệ sáng tạo, TTCX.
1.2.2. Cảm xúc
1.2.2.1. Định nghĩa cảm xúc
Cảm xúc là một hiện tượng tâm lí vô cùng phức tạp và được rất nhiều
các nhà tâm lí trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu đến. Các nghiên cứu
về xúc cảm đều có những điểm mới khác nhau. Chính vì thế mà xúc cảm lại có
nhiều khái niệm khác nhau. Có thể kể một số khái niệm tiêu biểu sau:
8
S. Tomkins quan niệm: “Xúc cảm - về cơ bản là những phản ứng đáp lại
bằng vẻ mặt”. Ông cho rằng: các xúc cảm tạo nên một hệ thống động cơ sơ cấp
của con người, chính xúc cảm đóng vai trò quan trọng trong sự tổ chức, sự tạo
động cơ và sự củng cố hành vi.
X. L. Rubinstein, nhà tâm lí học Xô viết định nghĩa “Xúc cảm là một sự
trải nghiệm đặc biệt được đặc trưng bởi phẩm chất tính cách của nó như: vui,
buồn, giận,…”. Ông cho rằng: “Về mọi mặt nội dung, các xúc cảm được xác
định bởi các mối quan hệ xã hội của con người, bởi tập quán và thói quen trong
từng hoàn cảnh xã hội”. Qua việc phân tích nguồn gốc, sự nảy sinh và biểu hiện
dưới góc độ lí thuyết hoạt động, ông khẳng định: “Xúc cảm của người, xét về

nguồn gốc, chức năng hay sự biểu hiện luôn mang tính xã hội”.
Nhóm tác giả J. Mayer, Salovey, D. Caruso quan niệm: Xúc cảm là một
hệ thống các đáp lại của cơ thể giúp điều phối những thay đổi về sinh lí, tri
giác, kinh nghiệm, nhận thức và những thay đổi khác nhau thành những trải
nghiệm mạch lạc về tâm trạng và tình cảm như: vui, buồn, giận dỗi, nhạc nhiên,
tức giận,…
C. E. Izard cho rằng: Xúc cảm có ba yếu tố đặc trưng, bao gồm: cảm giác
được thể nghiệm hay là được ý thức về xúc cảm; các quá trình diễn ra trong hệ
thần kinh, nội tiết, hô hấp, tiêu hóa và các hệ khác của cơ thể; các phức hợp biểu
cảm xúc cảm được quan sát, đặc biệt là những phức hợp phản ánh trên bộ mặt.
Trần Trọng Thủy quan niệm: “Xúc cảm là một quá trình tâm lí, biểu thị
thái độ của con người hay con vật với sự vật, hiện tượng có liên quan đến nhu
cầu của cá thể đó, gắn liền với phản xạ không điều kiện, với bản năng”.
Nguyễn Huy Tú lại quan niệm: Xúc cảm của con người là sự rung động
khác nhau của chúng ta, nảy sinh do sự thỏa mãn hay không thỏa mãn những
nhu cầu nào đó, do sự phù hợp hay không phù hợp của các biến cố, hoàn cảnh
cũng như trạng thái bên trong cơ thể với mong muốn, hứng thú, khuynh hướng,
niềm tin và thói quen của chúng ta.
9
1.2.2.2. Cấu trúc của cảm xúc
Theo M. Arnold, trước khi cảm xúc nảy sinh, chủ thể phải tri giác được
và đánh giá đối tượng trên cơ sở nhu cầu của mình. Trong phản ứng đáp lại sự
đánh giá của đối tượng đã ảnh hưởng thì chủ thể tri giác sẽ nảy sinh cảm xúc
như sự chấp nhận hay bác bỏ, thỏa mãn hay không thỏa mãn. Như vậy, cảm
xúc theo Arnold bao gồm ba thành tố: tri giác, đánh giá và nhu cầu.
Trên cơ sở quan niệm của Arnold, 1972, R. S. Lazarus và các cộng sự đã
đưa ra một cấu trúc lí thuyết cảm xúc. Theo họ, cảm xúc là sự phản ứng trả lời
phức hợp, bao gồm ba thành tố khác nhau:
- Thành tố thứ nhất là các tín hiệu hay kích thích.
- Thành tố thứ hai là sự đánh giá. Đánh giá được xác định như là chức

năng của quá trình nào mà nhờ chúng cá nhân đánh giá được tình huống kích
thích mới so với nhu cầu bản thân.
- Thành tố thứ ba là một phản ứng phức hợp gồm ba loại phản ứng trả
lời: nhận thức, biểu cảm và động cơ.
Các nhà nghiên cứu khác như Darwin, Ekman, Friesen, Ellsorth,
Tomkins cho rằng cảm xúc được tạo bởi ba thành tố:
- Thứ nhất, cơ chế thần kinh chuyên biệt bị ức chế ở bên trong.
- Thứ hai, những phối hợp biểu cảm bằng nét mặt đặc trưng hay là những
phức hợp biểu hiện thần kinh cơ.
- Thứ ba, sự thể hiện chủ quan hoặc tính chất của hiện thực bên ngoài.
Các nhà nghiên cứu trên cũng thống nhất rằng:
- Các cơ chế thần kinh - cơ của bộ mặt là cần thiết để thể hiện những
biểu hiện cảm xúc và chúng giống nhau ở người và động vật.
- Sự biểu hiện của con người giống với phản ứng của động vật bậc cao.
- Cảm xúc là một phương thức thích nghi của con người với môi trường.
1.2.2.3. Phân loại cảm xúc
Trong tâm lí học, có rất nhiều cách phân loại về cảm xúc, tùy theo góc
độ tiếp cận. Dưới đây là một số cách phân loại cảm xúc:
10
* Dựa vào ảnh hưởng của cảm xúc đối với hành động, người ta phân
cảm xúc thành hai loại: Cảm xúc phấn chấn và cảm xúc mềm yếu.
- Cảm xúc phấn chấn có tác dụng kích thích, tăng cường sự hoạt động của
con người.
- Cảm xúc mềm yếu có tác dụng kìm hãm, đè nén sự hoạt động của
con người.
* Dựa vào tính chất và tác dụng đối với đời sống và hoạt động, cảm
xúc được chia thành hai loại: Cảm xúc tích cực và cảm xúc tiêu cực.
- Cảm xúc tích cực làm tăng thêm nghị lực, sự lạc quan, tin tưởng của
con người, góp phần xây dựng, củng cố ý chí, thôi thúc hành động, nâng cao
hiệu quả hoạt động.

- Cảm xúc tiêu cực làm hạn chế, cản trở hoạt động của con người, làm
cho con người trở nên yếu đuối, bi quan, chán nản, mất lòng tin, thiếu sáng
suốt, hành động một cách thụ động, do đó hiệu quả hoạt động bị giảm sút.
* Dựa vào hình thức biểu hiện, có ba loại cảm xúc: tâm trạng, xúc động,
say mê.
- Tâm trạng: là những cảm xúc có cường độ tương đối yếu ớt, tồn tại
trong thời gian dài và hơi mơ hồ.
Tâm trạng mang tính chất tản mạn, xâm chiếm toàn bộ đời sống tâm lí
và có ảnh hưởng đến diễn biến của các quá tình tâm lí cũng như hoạt động
của con người. Những nhân tố chủ yếu quyết định tâm trạng là lối sống,
quan hệ người - người, thế giới quan, khí chất và tính cách của cá nhân.
Nhưng cũng có thể do sự tác động một sự kiện nào đó trong cuộc sống, một
tin vui hoặc một tin buồn, thành công hay thất bại,…mà ở con người sinh ra
tâm trạng này hay tâm trạng khác.
- Xúc động: là những rung động mãnh liệt, diễn ra trong thời gian ngắn.
Đặc điểm của xúc động là trong ý thức có những biến đổi lớn, mất cân bằng
sáng suốt, mất khả năng tự chủ, tự kiềm chế. Nguyên nhân của xúc động là do
kích thích bất ngờ hoặc cường độ quá mạnh làm cho con người không thể thích
nghi ngay được.
11
- Say mê: là một trạng thái cảm xúc vừa có cường độ mạnh, vừa diễn ra
trong thời gian dài, mang tính chất sâu sắc và bền vững. Sự say mê thường gắn
liền với hứng thú, chúng tạo ra thái độ tích cực của cá nhân trong hoạt động và
là điều kiện quan trọng để con người tiến hành hoạt động đạt kết quả cao.
1.2.3. Trí tuệ cảm xúc
1.2.3.1. Định nghĩa trí tuệ cảm xúc
TTCX là một khái niệm mới, xuất hiện vào đầu những năm 90 của thế kỉ
XX với tư cách là một khái niệm mang tính học thuật. Mặc dù mới xuất hiện,
nhưng nó lại là vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Có thể kể đến ba quan niệm tiêu biểu về TTCX của các nhà nghiên cứu

khoa học sau:
* TTCX theo quan niệm của Peter Salovey và John Mayer
Năm 1990, hai nhà tâm lí học Mỹ Peter Salovey (ĐH Yale) và John
Mayer (ĐH Hampshire) đã chính thức đưa ra định nghĩa về một loại trí tuệ mới
- TTCX. Hai ông quan niệm: “TTCX là năng lực hiểu rõ cảm xúc bản thân,
thấu hiểu xúc cảm của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những
thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình”.
Năm 1997, Peter Salovey và John Mayer đã có sự chỉnh sửa lại định
nghĩa TTCX mà các ông viết vào năm 1990. Định nghĩa được chỉnh sửa như
sau: “TTCX là năng lực nhận biết xúc cảm của mình và người khác, năng lực
bày tỏ xúc cảm của mình hòa xúc cảm vào suy nghĩ hiểu và phân tích bằng xúc
cảm, điều khiển và kiểm soát xúc cảm bản thân và người khác.”
* TTCX theo quan niệm của Rewven Bar - On
Lí thuyết của ông kết hợp những đặc tính được xem là năng lực tâm lí
(như tự nhận biết cảm xúc của mình) với các đặc tính khác được xem là khác
biệt với năng lực tâm lí: tính độc lập, tính tự trọng và tâm trạng. Điều này đã
tạo ra mô hình TTCX kiểu hỗn hợp. Ông đã nhận diện được 5 khu vực bao quát
về mặt chức năng phù hợp với sự thành công của cá nhân trong cuộc sống.
Năm khu vực này gồm: các kĩ năng làm chủ cuộc sống của mình; các kĩ năng
điều khiển cảm xúc liên cá nhân; thích ứng; kiểm soát stress; tâm trạng chung.
12
Từ đó, R. Bar - On đã định nghĩa: “TTCX như là một dãy các năng lực phi
nhận thức và những kĩ năng có ảnh hưởng đến khả năng thành công của một
người trong hoàn cảng người đó phải đương đầu với những đòi hỏi và sức ép từ
môi trường”.
* TTCX theo quan niệm của Daniel Goleman
D. Goleman đã đưa ra một mô hình cũng thuộc kiểu hỗn hợp. Mô hình
TTCX của ông cũng gồm 5 khu vực: Hiểu biết về cảm xúc của mình; quản lí
cảm xúc; tự thúc đẩy, động cơ hóa mình; nhận biết xúc cảm của người khác; xử
lí các mối quan hệ.

Dựa vào đó mà ông đã định nghĩa: “TTCX bao gồm các năng lực: tự
kiềm chế, kiểm soát, nhiệt tình, kiên trì và năng lực tự thôi thúc mình” (1995).
Từ những cách tiếp cận TTCX theo các góc độ ít nhiều khác nhau của
Peter Salovey, John Mayer, của Bar - On và của Daniel Goleman, có thể đi đến
một mộtm cách hiểu: “TTCX là một phẩm chất phức hợp, đa diện, đại diện của
những cái khó nhìn thấy, khó nắm bắt như tự ý thức, tự nhận thức, tự tin, tính
lạc quan, sự thấu cảm, tính kiên nhẫn, tính tích cực hoạt động xã hội”.
1.2.3.2. Bản chất của trí tuệ cảm xúc
* TTCX là một cấu trúc phức hợp của nhiều năng lực khác nhau liên
quan đến lĩnh vực cảm xúc.
TTCX là tổ hợp những năng lực cảm xúc của bản thân. Nhóm năng lực
này được hợp bởi nhiều năng lực khác nhau như năng lực hiểu biết cảm xúc
của bản thân, năng lực điều khiển, điều chỉnh cảm xúc của bản thân cho phù
hợp với hoàn cảnh xã hội. Các năng lực này đóng vai trò quyết định trong việc
thành công của mỗi con người.
TTCX mang bản chất xã hội. TTCX được hình thành trong quá trình cá
nhân tham gia vào các hoạt động xã hội khác nhau và chịu sự ảnh hưởng lớn từ
môi trường xung quanh.
13
* TTCX là loại trí tuệ có biên độ rộng hơn và dễ thay đổi hơn trí
thông minh
Trước kia, chỉ số thông minh được coi là yếu tố quan trọng nhất, quyết
định đến sự thành công của mỗi con người. Thế nhưng trên thực tế lại không
đảm bảo quyết định được sự thành công cho con người. Các nghiên cứu đã đưa
ra nhận định là “Sự tương quan giữa chỉ số IQ và thành tựu đạt được trong
công việc tỉ lệ này dự kiến đạt mức cao nhất chỉ khoảng 25%”.
Ngày nay, với các nghiên cứu về TTCX, người ta đã nhận ra rằng, chính
TTCX sẽ cho phép chúng ta có thể tiên đoán được chính xác sự thành công của
mỗi người trong con đường tương lai của họ. TTCX giúp con người làm chủ
được cảm xúc của chính mình, điều hòa, điều khiển được tâm lý để hiểu, đồng

cảm với mọi người xung quanh. Tất cả những điều này sẽ giúp họ giải quyết tốt
các vấn đề gặp phải trong cuộc sống.
Khác với trí thông minh, TTCX là rất dễ thay đổi và có biên độ thay đổi
lớn. Chỉ cần luyện tập và có những biện pháp phù hợp tác động vào thì TTCX
ở mỗi người có thể tăng lên một cách dễ dàng.
* TTCX là một dạng siêu năng lực
TTCX là một yếu tố vô cùng quan trọng, quyết định tới sự thành công
của mỗi con người. Những ai có trí thông minh cao mà TTCX lại thấp thì cũng
không đảm bảo được sự thành công cho mình. Có được các yếu tố của TTCX
như sự tự tin, mạnh dạn, khéo léo, nhanh nhẹn,…thì khả năng đến với thành
công của con người là rất lớn.
TTCX thực sự là một loại siêu năng lực. Nó giúp chúng ta có thể dễ dàng
khai thác được những lợi thế của bản thân, làm chủ được mình trong những
môi trường, hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời TTCX còn là một công cụ hữu ích
để các nhà quản lí, giám đốc, những người đứng đầu tuyển chọn cho mình
những người thực sự có năng lực, tài ba thông qua các test về TTCX.
1.2.3.3. Các mặt biểu hiện của trí tuệ cảm xúc
TTCX được biểu hiện chủ yếu ở bốn mặt sau đây:
14
* Năng lực nhận thức cảm xúc của bản thân và của người khác
Nhận thức xúc cảm là nhận dạng, nhận biết được những tâm tư, suy nghĩ,
những vấn đề mà mình hoặc người khác đang quan tâm, đang đề cập đến và
ảnh hưởng của những cảm xúc đó đến hiệu quả công việc. Tức là cần phải nhận
biết được nguồn gốc xuất hiện và nguyên nhân của những cảm xúc đó, nhận
biết được mối liên hệ giữa tình cảm và lý trí, giữa lời nói và hành động. Việc
nhận thức cảm xúc này có thể thông qua các con đường như: nét mặt, điệu bộ,
cử chỉ, hành vi, ngôn ngữ, lời nói, …
Việc nhận ra cảm xúc của mình và của người khác không phải là dễ
dàng. Chính vì vậy, chúng ta cần phải có cái nhìn tinh ý mới có thể nhận biết
được cảm xúc này, cảm xúc khác. Socrate đã nói rằng: “Hãy hiểu chính mình”.

Cá nhân muốn nhận biết và thấu hiểu được người khác thì trước hết phải nhận
biết được cảm xúc của bản thân. Nếu có khả năng nhận biết xúc cảm tốt thì có
thể đọc được cảm xúc của mình và của người khác một cách rõ ràng, chính xác
và biểu hiện nó một cách phù hợp.
Việc nhận biết được cảm xúc của bản thân sẽ giúp chúng ta thấy được
điểm mạnh, điểm yếu của mình. Từ đó có những biện pháp tác động nhằm giúp
chúng ta phát huy được những thế mạnh và khắc phục những điểm yếu của
mình. Hiểu cảm xúc của chính mình sẽ là cơ sở để chúng ta hiểu được cảm xúc
của những người khác. Xúc cảm chính là một loại thông điệp phản ánh thái độ,
tình cảm, suy nghĩ, trạng thái sinh lý và tâm lý của mình và của người khác cho
chính bản thân và đối tượng giao tiếp biết được. Thông qua việc nhận biết này,
chúng ta có thể đáp ứng những nhu cầu, mong muốn của bản thân cũng như của
người khác. Từ đó điều khiển, điều chỉnh cảm xúc sao cho phù hợp với từng
hoàn cảnh.
* Năng lực sử dụng cảm xúc để đẩy mạnh tư duy
Năng lực sử dụng cảm xúc để đẩy mạnh tư duy (hay còn gọi là năng lực
hòa cảm xúc vào tư duy) được thể hiện ở chỗ:
Xúc cảm hỗ trợ tư duy hoạt động một cách rõ ràng, chính xác và hiệu
quả. Những cảm xúc chính là nền tảng của việc đưa ra những quyết định đúng
15
đắn (nhà tâm thần học - Antonio Damasio). Xúc cảm được coi là yếu tố bên
trong của hành động trí tuệ, là tâm thế theo suốt quá trình hành động và chi
phối các quyết định hành động. Một nhà tâm lý học đã nói “Một hành động
không đơn thuần chỉ là kết quả hoạt động của trí tuệ mà còn do cảm xúc chi
phối. Không có bất cứ một hoạt động nào hay hành động nào mà thiếu vắng
cảm xúc”.
Năng lực sử dụng cảm xúc để đẩy mạnh tư duy còn thể hiện ở việc cân
nhắc để phân biệt xúc cảm với ý nghĩ và làm cho xúc cảm định hướng có chú ý.
Nhờ có xúc cảm mà mọi hoạt động của con người trở nên đúng đắn hơn, phù
hợp hơn.

Xúc cảm còn tham gia vào việc quyết định tương lai của mỗi cá nhân.
Việc sử dụng xúc cảm một cách có ý thức sẽ làm tăng khả năng tư duy, phản
ứng nhanh nhạy, linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên kết các ý tưởng,
sáng tạo. Đồng thời sẽ tạo ra những mối quan hệ thân thiện giữa cá nhân với
những người xung quanh và dự đoán được những kết quả của những hành động
mà mình làm. Như vậy, TTCX là năng lực chủ yếu có ảnh hưởng sâu sắc tới
các năng lực khác bằng cách kích thích hay ức chế chúng.
* Năng lực hiểu cảm xúc của mình và của người khác
Hiểu cảm xúc tức là hiểu được những suy nghĩ, mong muốn, nhu cầu, vấn
đề mà mình hay người khác quan tâm, từ đó thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, thấu
hiểu họ, tạo nên sợi dây liên kết về một mối quan hệ thân thiết giữa cá nhân với
mọi người.
Việc hiểu cảm xúc của mình sẽ là cở sở, tiền để để giúp cá nhân hiểu
được cảm xúc của người khác. Cá nhân phải hiểu được mình đang nghĩ gì,
đang quan tâm đến vấn đề gì, có mong muốn gì, biết được điểm mạnh và điểm
yếu của mình là gì. Để từ đó phát huy những cảm xúc tích cực và đẩy lùi các
cảm xúc tiêu cực. Đặc biệt, cá nhân phải phân biệt được các dấu hiệu bản chất
của cảm xúc của bản thân và người khác. Có như vậy mới hiểu được cảm xúc
của người khác.
16
Việc hiểu cảm xúc của người khác rất khó. Bởi họ sẽ không bao giờ nói
một cách trực tiếp những cảm xúc bên trong của họ cho chúng ta biết mà chỉ
biểu hiện chúng ra bên ngoài thông qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ,… và cả ngôn
ngữ, lời nói. Vì thế mà cá nhân cần phải có cái nhìn tinh ý hơn, biết cách nhận
dạng cảm xúc thì mới có thể phán đoán, suy luận và hiểu được cảm xúc của
người khác. Điều này sẽ giúp cá nhân phát triển khả năng phán đoán và óc sáng
tạo. Đồng thời giúp cá nhân có thể đưa ra những quyết định sáng suốt, các hành
động khôn khéo không làm mất lòng người khác.
* Năng lực điều khiển, kiểm soát xúc cảm
Điều khiển, kiểm soát xúc cảm thể hiện ở việc kìm chế hoặc thúc đẩy

những xung tính, những cảm xúc nhất thời, cảm xúc riêng tư, đang diễn ra bên
trong cá nhân để có những hành động, cách ứng xử, hành vi hợp lí, đúng đắn,
phù hợp với từng hoàn cảnh, đối tượng.
Việc điều khiển, kiểm soát xúc cảm còn được thể hiện ở sự giữ cân bằng
giữa lí trí và xúc cảm. Để điều khiển, kiểm soát cảm xúc của mình, mỗi cá nhân
phải có sự đấu tranh để tìm ra sự hòa hợp, cân bằng giữa lí trí và xúc cảm nhằm
đưa ra những quyết định sáng suốt, thông minh, giải quyết tốt các vấn đề.
Điều khiển, kiểm soát xúc cảm phản ánh sự tham gia của ý thức trong việc quản lí các xúc cảm bên trong của cá nhân. Đồng thời nó
thể hiện được tính chủ động, chủ định của cá nhân trong kiểm soát cảm xúc. Nếu cá nhân điều khiển, kiểm soát được cảm xúc của mình một cách
tốt thì họ sẽ luôn suy nghĩ chín chắn, thích ứng tốt với sự thay đổi, luôn suy nghĩ trước khi làm một việc gì đó.
Theo Goleman, thực chất của việc quản lí xúc cảm chính là bao hàm các
kĩ năng xã hội, trong đó có những kĩ năng được đề cao như: biết lắng nghe một
cách cởi mỏ, biết chia sẻ, biết đồng cảm, biết khuyến khích, động viên người
khác, biết hợp tác và làm việc với những con người đến từ các vùng miền khác
nhau để cùng hợp tập và chia sẻ lợi ích.
Mỗi cá nhân không chỉ phải biết điều khiển, kiểm soát xúc cảm của mình
mà còn phải biết điều khiển, kiểm soát xúc cảm của người khác. Cá nhân kiểm
soát xúc cảm của người khác bằng cách đưa ra những lời khuyên, lời động
viên, an ủi, làm giảm những xúc cảm tiêu cực trong họ, khích thích những xúc
cảm tích cực nhằm làm họ cảm thấy thoải mái hơn. Đây chính là cơ sở cho một
17
mối quan hệ vững chắc và thân thiện. Đồng thời cũng là con đường dẫn đến
thành công cho mỗi cá nhân.
Như vậy, người có TTCX cao chính là người có đầy đủ bốn năng lực
này. Tuy nhiên mỗi cá nhân lại có những biểu hiện ở các năng lực EQ khác
nhau. Có người mạnh ở năng lực này nhưng lại yếu ở năng lực khác. Chính vì
thế, nếu có được sự rèn luyện, học hỏi thường xuyên thì mức độ ở các năng lực
sẽ thay đổi và trở nên tốt hơn.
1.2.3.4. Các mô hình của trí tuệ cảm xúc
TTCX là một vấn đề được nghiên cứu khá nhiều trong những năm gần

đây. Hiện nay đã có rất nhiều mô hình TTCX do các nhà tâm lí học đưa ra.
Nhưng nhìn một cách tổng quan thì chỉ có hai mô hình TTCX chủ yếu: mô hình
EI thuần năng lực và mô hình EI hỗn hợp.
* Mô hình EI thuần năng lực
Năm 1990, Peter Salovey và John Mayer lần đầu tiên đã đưa ra mô hình
TTCX thuần năng lực. Mô hình này của các ông bao gồm ba quá trình trí tuệ
liên quan đến nhau và hàm chứa các thông tin cảm xúc dựa trên cách hiểu EI
như là: năng lực làm chủ, điều khiển, kiểm soát tình cảm của mình và của
người khác để định hướng cách suy nghĩ và cách hành động của bản thân.
Những quá trình của mô hình EI 90 bao gồm:
- Đánh giá và biểu hiện xúc cảm của bản thân và của người khác.
- Điều khiển, kiểm soát xúc cảm của bản thân và của người khác.
- Sử dụng xúc cảm một cách phù hợp để giải quyết vấn đề, bao hàm từ cách
suy nghĩ linh hoạt, suy nghĩ sáng tạo, tập trung chú ý trực tiếp và động cơ thúc đẩy.
Sau khi đã công bố mô hình EI 90, P. Salovey và J. Mayer đã đưa ra hai
cách đánh giá, đo lường EI: phương pháp đánh giá EI dựa vào tự thuật và
phương pháp đánh giá EI dựa vào năng lực hành động. Tuy nhiên, lúc bấy giờ
Mayer và Salovey đã lưu ý rằng, cần làm sao để những thành phần của EI có
thể được đánh giá như một năng lực.
Dựa vào mô hình EI, Shutte và đồng sự của bà đã soạn thảo và phát triển
một thang đo lường EI theo kiểu tự đánh giá gồm 33 item (EIS). Tuy nhiên
18
người ta nhận thấy rằng, EIS có thể không thích hợp với đo lường EI mặc dù có
nhiều nghiên cứu đã cho thấy có nhiều nhân tố liên quan đến đặc điểm của EI
và quá trình thông tin EI.
Sau 7 năm nghiên cứu và ứng dụng EI 90, Mayer và Salovey nhận ra
những thiếu sót của mô hình này và đã cùng đồng nghiệp là David Caruso bổ
sung, đổi mới để cho ra đời quan niệm mới về EI và một mô hình EI mới ra đời
vào năm 1997. Từ đó họ định nghĩa “TTCX là năng lực nhận biết và bày tỏ
cảm xúc vào suy nghĩ, hiểu và suy luận với xúc cảm, điều khiển, quản lí xúc

cảm của mình và của người khác”.
Mô hình bao gồm bốn năng lực xúc cảm như sau:
- Nhận thức xúc cảm của bản thân, người khác và môi trường xã hội.
- Sử dụng xúc cảm để đẩy mạnh tư duy và để sáng tạo ra sự chia sẻ cảm
xúc tương ứng.
- Hiểu rõ xúc cảm, hiểu nguyên nhân xúc cảm, sự biến đổi của chúng theo
thời gian.
- Kiểm soát sự kết hợp của lập luận và dự kiến về những xúc cảm để đưa
ra những quyết định chiến lược hay còn gọi là kiểm soát xúc cảm.
Mô hình này nhấn mạnh đến mặt nhận thức, tập trung vào khả năng tâm
trí cụ thể phục vụ cho việc nhận biết và tổ chức điều khiển xúc cảm.
Điểm nổi bật của mô hình EI 97 so với mô hình EI 90 là các năng lực
trong mô hình EI 97 không đơn thuần chỉ có mối quan hệ với nhau như những
thành phần trong một cấu trúc mà còn như một quy trình liên tục. Ý nghĩa quan
trọng của nó đem lại là có thể xây dựng một quy trình phát triển EI bao gồm
bốn giai đoạn tương ứng với bốn thành tố tạo nên EI. Dựa vào mô hình EI thuần
năng lực 97, D. Caruso và các cộng sự (2006) đề xuất một quy trình phát triển EI
gồm bốn giai đoạn như: nhận thức xúc cảm, sử dụng xúc cảm, hiểu rõ xúc cảm và
kiểm soát xúc cảm.
Dựa trên mô hình EI thuần năng lực 97, Mayer, Salovey và Caruso đã
soạn thảo trắc nghiệm đo lường EI theo kiểu phép đo năng lực mang tên
MSCEIT (Mayer Salovey Caruso Emotional Intelligence Test) vào năm 2002.
19
* Mô hình EI hỗn hợp
Đại diện cho loại mô hình này có các nhà nghiên cứu: Bar - On, Cooper
và Sawap, Goleman,…
Bar - On (1997) đưa ra mô hình EI hỗn hợp khi tiếp cận TTCX dưới góc
độ nhân cách. Lí thuyết của Bar - On kết hợp những đặc tính khác được xem là
khác biệt với năng lực tâm lý như tình độc lập, tính tự trọng và tâm trạng.
Theo Bar - On, cấu trúc TTCX bao gồm các khả năng sau:

- Khả năng hiểu mình, hiểu người khác
- Khả năng thích ứng
- Khả năng kiểm soát căng thẳng (stress)
- Khả năng giữ tâm trạng cân bằng
Dựa vào sự tổng kết nhiều công trình nghiên cứu, Daniel Goleman
(1995) đã đưa ra mô hình EI hỗn hợp bao gồm năm khu vực: hiểu biết về cảm
xúc của mình, quản lí cảm xúc, tự thúc đẩy (động cơ hóa mình), nhận biết xúc
cảm ở người khác, xử lí các quan hệ.
Tuy nhiên, năm 2001, Goleman lại đưa ra cấu trúc của TTCX gồm có hai
nhóm năng lực: năng lực cá nhân và năng lực xã hội
Nếu mô hình EI hỗn hợp có khuynh hướng pha trộn nhiều nét của nhân
cách, vừa không chứng minh được EI là loại trí tuệ mới, vừa ít có điều kiện đo
lường một cách chính xác, tin cậy thì mô hình EI thuần năng lực nổi bật và thu
hút nhiều nhà nghiên cứu cũng như đem lại nhiều lợi ích hơn EI hỗn hợp trong
nhiều lĩnh vực như giáo dục học, tổ chức nhân sự,…
Mô hình EI hỗn hợp chủ trương đánh giá EI dựa vào sự tự thuật thì mô
hình EI thuần năng lực đưa ra những tiêu chuẩn đánh giá EI dựa trên hành động
biểu hiện. Trên thực tế, con người thường không thông báo cảm xúc, trình độ
năng lực trí óc của mình. Điều này cũng xảy ra tương tự đối với sự thông báo
của cá nhân về năng lực xúc cảm.
Từ những phân tích trên về các mô hình EI và phương pháp đo lường EI
dựa trên các mô hình của nó, chúng tôi chọn mô hình EI thuần năng lực của
Mayer và Salovey (1997) làm cơ sở lí luận nghiên cứu thực trạng của đề tài.
20
Mô hình này được tạo thành bởi bốn nhóm năng lực cơ bản: nhận thức, bày tỏ
cảm xúc, hòa xúc cảm vào ý nghĩ, hiểu biết xúc cảm và điều khiển, kiểm soát
xúc cảm.
1.2.3.5. Phương pháp đo lường trí tuệ cảm xúc
Đo lường TTCX bằng phương pháp trắc nghiệm. Phương pháp này chủ
yếu tiếp cận về việc tự đánh giá, người khác đánh giá hoặc đánh giá căn cứ vào

kết quả thực hiện. Cụ thể như:
* Trắc nghiệm tự đánh giá
Các phép đo kiểu tự đánh giá đề nghị chủ thể bộc lộ ý kiến về một loạt
những mệnh đề có tích chất mô tả, chỉ ra rằng những mệnh đề này phù hợp với
sự tự đánh giá của họ về bản thân đến mức nào. Các năng lực xúc cảm được
đánh giá dựa trên sự tự hiểu của cá nhân. Nếu sự tự đánh giá của một cá nhân
về bản thân là chính xác thì các phép đo đó được coi là những phép đo cảm xúc
về năng lực thực. Ngược lại nếu sự tự đánh giá của một cá nhân về bản thân
chưa chính xác thì các phép đo đó chỉ là những phép đo cảm xúc bằng sự tự
nhận của cá nhân đó. TTCX tự đánh giá chỉ có tương quan ở mức khiêm tốn
với TTCX được đo thực. Mức tương quan như vậy chỉ ra rằng, các năng lực trí
tuệ đo được bằng các trắc nghiệm tự đánh giá tương đối độc lập với các năng
lực thực của người đó. Mặc dù vậy, tự đánh giá cũng vẫn được xem là cách tiếp
cận quan trọng (Bandura, 1997).
* Trắc nghiệm do người khác quan sát đánh giá
Người quan sát đưa ra những thông tin về những gì mình nhận thấy và sử
dụng những câu hỏi chỉ ra mức độ (rất cao, cao, trung bình, thấp và rất thấp),
người này đã đạt được trong từng ý.
Cách tiếp cận đo lường này mặc dù có hơn cách tiếp cận trước nhưng
theo Mayer, Salovey và Caruso thì về cơ bản cách tiếp cận này chỉ đo chủ yếu
về hình ảnh biểu kiến của người được đánh giá. Bởi những gì người cung cấp
thông tin nhìn thấy luôn có khoảng cách với năng lực thực. Cách tiếp cận này
chỉ phù hợp với việc đo lường những trí tuệ vì chúng có những hậu quả hành vi
cố định.
21
* Trắc nghiệm đánh giá năng lực hoặc kết quả thực hiện
Để biết được một người có TTCX ở mức độ nào, chúng ta sẽ đưa cho họ
những tình huống có vấn đề để họ giải quyết nó theo cách của chình mình.
Cách tiếp năng lực này chính là tiêu chuẩn vàng trong nghiên cứu đo lường
TTCX (Mayer, Salovey và Caruso, 2000), vì TTCX tương ứng với năng lực

thực để thực hiện tốt nhiệm vụ tâm trí, không chỉ là niềm tin của người đó về
lĩnh vực này. Ví dụ, muốn hiểu người ta nhận diện xúc cảm tốt như thế nào, ta
có thể đưa cho họ một khuôn mặt và hỏi họ xem họ có nhận biết đúng những
biểu hiện cảm xúc trên khuôn mặt này không? Hoặc nếu muốn biết người ta
suy luận về xúc cảm tốt như thế nào, ta hãy cung cấp một số vấn đề về xúc
cảm. Sau đó đánh giá chất lượng của sự suy luận của người đó.
Khóa luận chọn loại trắc nghiệm đánh giá năng lực làm công cụ đánh giá
TTCX của sinh viên Khoa Giáo dục mầm non, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội. Cụ thể là sử dụng trắc nghiệm MSCEIT của các tác giả người Mỹ: Mayer,
Salovey và Caruso.
1.2.3.6. Mối quan hệ giữa trí thông minh và trí tuệ cảm xúc
Trí thông minh và TTCX đều thuộc về vấn đề trí tuệ. Hai vấn đề này
tưởng chừng như là hai vấn đề độc lập, thế nhưng nó lại có mối quan hệ qua lại
với nhau.
Theo quan niệm truyền thống, trí thông minh được coi như là một yếu tố
bẩm sinh, di truyền, bất biến, không thể thay đổi được, ảnh hưởng đến sự thành
công của mỗi người. Thế nhưng liệu đó có phải là một điều khẳng định đúng
không? Bởi trên thực tế đã có biết bao câu hỏi đặt ra, rằng những người có chỉ
số IQ cao nhưng lại không thành công trong cuộc sống. Còn những người có
chỉ số IQ không cao lại vẫn có thể đạt được thành công? Và để trả lời cho câu
hỏi đó, Daniel Goleman đã dựa trên hàng loạt công trình nghiên cứu về xúc
cảm, đã khẳng định nguyên nhân của sự khác biệt đó là những năng lực mà ông
gọi bằng thuật ngữ TTCX bao gồm sự tự chủ, lòng nhiệt tình và kiên nhẫn,
cũng như khả năng tự kích thích mình hoạt động.
22
Theo D. Goleman, con người chúng ta có hai hình thức khác nhau của trí
tuệ là, trí tuệ lí trí và TTCX. Cả hai loại trí tuệ này cùng quyết định cách con
người điều chỉnh cuộc sống của con người. Trong đó TTCX cũng quan trọng
như trí thông minh. Theo ông, không có TTCX thì trí thông minh không hoạt
động được một cách thích đáng.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, nếu như trí thông minh được xem như
là một nhân tố dự đoán tốt cho những kì thi đạt ngưỡng đầu vào một khóa học,
ngành học hay một nghề thì TTCX lại được xem là nhân tố dự đoán tốt hơn cho
những thành tích xuất sắc, sự thăng tiến về nghề nghiệp.
Những nghiên cứu về mối tương quan giữa trí thông minh và TTCX đã
chỉ ra mức độ quan hệ từ 0 đến 0,6 tùy thuộc vào công cụ đo.
Trí thông minh và TTCX không loại trừ nhau mà có quan hệ tương tác,
hỗ trợ nhau. Nếu trí thông minh giúp cho con người nhận thức khách quan một
cách đúng đắn, chính xác và nhanh nhẹn, thì TTCX sẽ giúp chúng ta giữ được
sự tỉnh táo, không bị cảm xúc chi phối. Cả hai hình thức trí tuệ này gộp lại sẽ
tạo khả năng thành công lớn cho mỗi người.
1.3. Trí tuệ cảm xúc của sinh viên sư phạm mầm non
1.3.1. Đặc điểm tâm lí của sinh viên sư phạm mầm non
Sinh viên sư phạm mầm non là những người đang theo học tại khoa
GDMN của các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp sư phạm. Ngoài việc
được tiếp thu hệ thống tri thức cơ bản, chuyên ngành, sinh viên sư phạm mầm
non còn học những kiến thức mang tính nghiệp vụ về công tác giáo dục trẻ
mầm non sau này. Do đặc thù của nghề mà xã hội đã đặt ra những yêu cầu đối
với sinh viên rất cao, không những giỏi về chuyên môn mà còn có hành vi mô
phạm, đạo đức trong sáng, với lòng yêu nghề, yêu trẻ sâu sắc để giáo dục thế hệ
trẻ cho đất nước.
Các nhà tâm lí học đã chỉ ra một số đặc điểm tâm lí nổi bật của sinh viên
nói chung và sinh viên sư phạm mầm non nói riêng như sau:
Về sự tự ý thức của bản thân: Sinh viên sư phạm mầm non cũng như
sinh viên sư phạm nói chung có khả năng tự ý thức rất cao. Họ nhận thức rõ
23
ràng về những năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc
điểm đó với yêu cầu của nghề giáo viên mầm non. Qua đó sinh viên sư phạm
mầm non sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành
động học tập hằng ngày trên lớp, thực tập sư phạm và nghiên cứu khoa học.

Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét
năng lực học tập của mình, ; tự xác định được rằng, kết quả học tập cao hay
thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của họ. Từ đó họ
phải tự nỗ lực, quyết tâm để đi theo đúng con đường mà mình đã chọn.
Về sự tự đánh giá bản thân: Hầu hết sinh viên đều chưa đánh giá được
một cách chính xác về xúc cảm của bản thân mình. Sinh viên vẫn còn mơ hồ về
những xúc cảm xuất hiện trong mình. Giống như câu nói “vui buồn chẳng có lí
do”. Nhiều khi sinh viên hay rơi vào trạng thái này. Hơn nữa họ vẫn chưa nhận
rõ được điểm mạnh, điểm yếu của mình. Để từ đó có thể sửa đổi điểm yếu và
phát huy điểm mạnh của bản thân làm cho sinh viên có thể thành công hơn
trong học tập cũng như trong cuộc sống. Chính vì thế mà trong quá trình học
tập và sinh hoạt hằng ngày, sinh viên vẫn chưa đạt kết quả như họ mong muốn.
Một nét đặc trưng nữa trong tự đánh giá của sinh viên là họ đánh giá thấp
về năng lực của mình trong việc tác động, gây ảnh hưởng đến người khác,…
Tự đánh giá về trí tuệ là thành phần trong cấu trúc tự nhận thức của sinh viên.
Nó có ý nghĩa đối với sự hình thành phẩm chất trí tuệ trong quá trình học tập ở
đại học.
Về sự định hướng giá trị của sinh viên: Gắn chặt với giá trị được định
hướng quyết định sự phát triển nhân cách của sinh viên và sự biến đổi của xã
hội. Ví dụ như: định hướng giá trị của sinh viên hiện nay biểu hiện khuynh
hướng mới, những nét tính cách mới: năng động, sáng tạo, phù hợp với xu thể
biến đổi của xã hội, của thời đại và yêu cầu của xã hội mới.
Ngoài những đặc điểm chung trên, chúng tôi xin được nói rõ hơn về đặc
điểm tự ý thức và định hướng giá trị về nhân cách của sinh viên sư phạm mầm
non như sau:
24
Sinh viên sư phạm mầm non luôn ý thức được những giá trị cao quý của
nghề giáo viên mầm non mà mình đang lựa chọn và đang theo đuổi. Họ luôn
định hướng cho mình phải có một phẩm chất tốt để xứng đáng với nghề nghiệp
của mình. Điều này đòi hỏi sinh viên sư phạm mầm non phải có những hành vi

mẫu mực, có đạo đức tốt, yêu nghề, yêu trẻ,… Qua tiếp xúc với các cán bộ
giảng dạy, qua tiếp xúc với trẻ em (khi đi thực tế, thực tập sư phạm), sinh viên
lĩnh hội được những hành vi, cư chỉ cao đẹp, mẫu mực của một người giáo viên
mầm non. Trên cơ sở đó đối chiếu với bản thân mình, đánh giá đúng phẩm chất
và năng lực của bản thân và không ngừng học tập, rèn luyện bản thân mình.
Sinh viên sư phạm mầm non luôn có quyết tâm cao để trở thành giáo
viên mầm non tài năng. Họ học tập một cách hăng say, đam mê để theo đuổi
nghề nghiệp mà họ đã chọn. Đồng thời cũng là những người có nhu cầu và khát
vọng thành đạt cao, có năng lực và tình cảm trí tuệ phát triển.
1.3.2. Vai trò của trí tuệ cảm xúc đối với sinh viên sư phạm mầm non
TTCX có vai trò rất quan trọng đối với việc học tập cũng như nghề
nghiệp sau này của sinh viên.
TTCX giúp sinh viên mầm non có khả năng nhận thức được xúc cảm của
những người bên cạnh mình: thầy cô, bạn bè, những người xung quanh mình và
xúc cảm của chính bản thân mình. Từ đó có thể hiểu được mọi người xung
quanh mình đang nghĩ gì, mong muốn gì,…để thể hiện sự cảm thông, đồng
cảm với họ. Điều này sẽ giúp ích rất lớn cho sinh viên trong quá trình học tập.
Đồng thời giúp cho họ tạo dựng được những mối quan hệ thân thiện với mọi
người. Việc hiểu được xúc cảm của bản thân và của người khác là yếu tố quan
trọng giúp cho sinh viên thành công trong học tập, trong quan hệ ứng xử xã hội.
TTCX chi phối hành động của sinh viên, giúp họ biết hành động một
cách phù hợp trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống. Những sinh viên có TTCX
cao sẽ có những hành vi, những phản ứng, cử chỉ đúng đắn, những quyết định
phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh. TTCX cao sẽ giúp cho sinh viên biết
kìm chế cảm xúc của mình khi gặp những quyến rũ tầm thường của cuộc sống
xã hội. Việc kìm chế cảm xúc sẽ làm cho sinh viên trở nên bình tĩnh hơn và
25

×