Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

luận văn hay đại học sư phạm tư tưởng hồ chí minh Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay (1986 nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.19 KB, 68 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn
hóa kiệt xuất của dân tộc ta và của nhân loại. Người là hiện thân của những
giá trị văn hóa rực rỡ nhất, đẹp đẽ nhất và đã để lại cho chúng ta một di sản
tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt.Năm 1923, trong bài
“ - Nguyễn Ái Quốc” được đăng trên
Tạp chí Ngọn lửa nhỏ - Liên Xô, nhà báo Liên Xô Ôxip Mandenxtan đã
nhận xét rằng: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa, không phải
văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai Dân tộc Việt
Nam là một dân tộc giản dị và lịch sự. Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói
trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như thấy được
viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại
dương”. Lê Xuân Vũ trong tác phẩm “
” đã khẳng định “Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn
tiêu biểu cho tinh hoa dân tộc Việt Nam 4000 năm lịch sử kết hợp làm một
với chủ nghĩa Mác -Lênin, đỉnh cao của tư tưởng loài người trong thời đại
mới. Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho văn hóa Việt Nam là một
bộ phận khăng khít trong toàn bộ cống hiến vĩ đại của Người cho cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới nói chung”.
Ngay trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn khẳng định: “Văn hóa là một mặt trận”. Tư tưởng này của
Người là hiện thân cho những khát vọng của cả dân tộc ta trong việc khẳng
định bản sắc của mình, đồng thời cũng là khẳng định vai trò xung kích của
văn hóa trong sứ mệnh giải phóng dân tộc, là khẳng định một lĩnh vực quan
trọng không thể thiếu được, cùng các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế
tạo thành những mặt trận trong cuộc kháng chiến toàn diện của dân tộc.
Trước ngày bùng nổ cuộc kháng chiến toàn quốc, tháng 11 năm 1946, trong
diễn văn khai mạc Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ
1
1


Chí Minh đã nêu rõ nhiệm vụ của nền văn hóa mới là “phải lấy hạnh phúc
của đồng bào, lấy sự nghiệp đấu tranh của dân tộc làm nội dung phản ánh,
đồng thời phải biết tiếp thu những kinh nghiệm quý báu của nền văn hóa
xưa và nay để xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam với ba tính chất
dân tộc, khoa học và đại chúng”. Như vậy, ngay trong những ngày đầu của
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ
vai trò quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giành độc
lập cho dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một trong những di sản quý
báu mà Người đã để lại cho chúng ta hôm nay. Nó có một vị trí, vai trò
quan trọng trong cuộc sống và sự phát triển đất nước. Văn hóa chính là
mục tiêu, là động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ “văn hóa phải soi
đường cho quốc dân đi”; bên cạnh đó, văn hóa còn là mặt hợp thành toàn
bộ đời sống xã hội, Người nhấn mạnh “trong công cuộc kiến thiết nước nhà
có bốn vấn đề chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội”. Vì thế, văn hóa không thể đứng ngoài “ mà phải ở trong
kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “ trong văn
hóa”. Đồng thời, văn hóa còn là linh hồn, là bản sắc dân tộc, văn hóa
không thể tách rời với quốc gia, dân tộc, văn hóa trước hết là văn hóa của
một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc và đó chính là bản sắc dân
tộc của văn hóa. Như vậy, văn hóa Hồ Chí Minh được hình thành trong cái
nôi văn hóa dân tộc, nền văn hóa đó là sự chắt lọc, tổng hợp kết tinh những
gì tinh túy nhất của văn hóa Việt Nam, của phương Đông và phương Tây,
của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế mà cốt lõi là sự kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa và bản sắc văn hóa dân tộc. Những
quan điểm của Người về văn hóa chính là kim chỉ nam để Đảng ta hoạch
định chính sách, sách lược phát triển văn hóa qua các giai đoạn xây dựng
đất nước. Những quan điểm và hoạt động văn hóa của Người đã góp phần
vào sự tiến bộ và phát triển của nền văn minh nhân loại.
2

2
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thời đại mà khoa học, kỹ
thuật và công nghệ đã đem đến những biến đổi cực kỳ lớn lao cho cuộc
sống của con người và trở thành động lực vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Đảng và Nhà nước ta đang kiên
định con đường đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nghèo, kém phát triển; thực
hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn vằ
khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực sai trái; đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu và hành dộng chống phá của các thế lực thù địch; thực
hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhưng cũng ngay ở
thời điểm này, nhiều vấn đề tiêu cực đã nảy sinh trong đời sống xã hội.
Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và đương nhiên kéo theo sự thay
đổi đời sống vật chất và tinh thần. Điều đó có nghĩa là văn hóa
có vai trò to lớn.Tuy nhiên, thì những cuộc “xâm lăng văn hóa” tiếp
diễn mạnh hơn và tinh vi hơn. Khi kinh tế phát triển mang tính chất quốc tế
hóa, sản xuất đời sống ngày càng gia tăng, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được đẩy mạnh thì văn hóa ngoại lai, văn hóa phương Tây cũng
tràn vào nước ta, de dọa sự sống còn của bản sắc văn hóa dân tộc, đặt ra
yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết là phải bảo tồn và phát triển văn hóa dân
tộc.Chính vì vậy, quay lại với quan điểm văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí
Minh và sự vận dụng tư tưởng văn hóa của Người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là một vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược,
vừa mang ý nghĩa thời sự quan trọng.
Là một sinh viên, em rất mong muốn được tìm hiểu làm rõ vấn đề
này. Do vậy, em chọn đề tài “ !"#$
%&'(&')&*+,&-
./012--3” để làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì văn hóa có ý nghĩa sâu xa, đặc biệt

quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. Nó không chỉ là mục
3
3
tiêu phấn đấu vươn tới những giá trị cao đẹp cho cuộc sống mà còn có vai
trò nền tảng và sức mạnh động lực hết sức to lớn trong phát triển mọi mặt
của xã hội. Văn hóa là sức sống của sự phát triển kinh tế - xã hội, là động
lực thúc đẩy mọi hoạt động sống của con người. Những quan điểm về văn
hóa trong chiến lược phát triển đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh không
chỉ là “kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt
Nam”, mà còn có ý nghĩa thời sự, là chỗ dựa, sự chỉ dẫn cho chúng ta trong
nhận thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước hiện nay. Vì vậy, trên thực tế vấn đề văn hóa trong tư
tưởng của Người được nhiều công trình, bài viết đề cập tới ở nhiều góc độ,
khía cạnh khác nhau.
Cụ thể như:
- Lê Xuân Vũ “”,
NXB Văn học, 2003.
- GS, TS. Hoàng Chí Bảo 456789
:, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nguyễn Văn Đức “$;<
8=*$>?-"%@A&-”, Bản tin khoa
học - Cao đẳng Thương Mại - số 02(Q.I/2008).
- Hà Huy Giáp “<7,8=*$)&”,
Báo Sự Thật, 1965.
- Vũ Việt Hùng - Ban Tuyên giáo TƯ“B?-"%8'C
DEF*G,”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Lê Như Hoa “H&$
@8I!”,Tạp chí nghiên cứu văn hóa Trường Đại học Văn hóa Hà
Nội
- Đặng Xuân Kỳ “5$)"<

$,”,Báo Nhân dân, 20/5/1998.
- TS.Vũ Ngọc Am “5;<J'C
*=,”,Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hoàng Chí Bảo, Phạm Hồng Chương, Lê Kim Dung “
8@,<K@”, Nhà xuất bản Thanh niên, 2009.
4
4
- Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong “8*G
,”, Báo Lao động, 1998.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã được tiếp cận, nghiên
cứu từ nhiều hướng khác nhau, nhưng tập trung chủ yếu ở các nội dung
sau:
- Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: truyền thống văn hóa dân tộc, tinh
hoa văn hóa nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin vafphaamr chất chủ quan Hồ
Chí Minh.
- Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, vai trò của văn hóa đối với đời
sống con người và sự phát triển của đất nước.
- Việc vận dụng những tư tưởng văn hóa của Người vào mọi mặt của đời
sống xã hội; gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Và những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp tôi
tiếp thu, tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên cứu của
mình.
3. Mục đích và nhiêm vụ nghiên cứu
- #*AL
Khóa luận phân tích và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và
sự vận dụng tư tưởng đó trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, từ đó đề xuất một số kiến nghị
nhằm thực hiện tốt hơn các chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước.
- M&#AL
- Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.

- Thực trạng sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay (1986 - nay).
- Phương hướng và một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta
hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- NAL: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
5
5
- O+AL: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và sự
vận dụng của Đảng ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước
ta thời kỳ 1986 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích - tổng hợp, kết hợp với phương pháp thống
kê, phương pháp logic, phương pháp so sánh……
6. Đóng góp của khóa luận
Quá trình nghiên cứu khóa luận này đã là cơ sở để tôi đi nghiên cứu
sâu hơn về truyền thống văn hóa của dân tộc, đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và sự vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Từ đó, xây dựng tinh thần trách nhiệm giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc.
Khóa luận chỉ ra được những thành công trong việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đồng thời quá trình thực hiện khóa luận còn giúp tôi có ý thức trân
trọng những giá trị văn hóa của thế hệ đi trước để lại và là bước tập dượt,
làm quen với công trình nghiên cứu khoa học. Khóa luận còn giúp tôi củng
cố kiến thức cơ bản, tích lũy kiến thức cho bản thân cũng như có phương
pháp tiếp cận một vấn đề cụ thể đặt ra.

7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, khóa luận
gồm hai chương, 7 tiết.
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
Chương 2. Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay (1986 - nay).
6
6
NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH
Hồ Chí Minh là nhà cách mạng lỗi lạc, người lãnh đạo của cách
mạng Việt Nam và của dân tộc Việt Nam. Cả cuộc đời người là sự phấn
đấu quên mình để cho dân tộc, nhân loại dược sống trong hòa bình, tự do
và hạnh phúc. Người là hiện thân của tinh hoa văn hóa Việt Nam, danh
nhân văn hóa thế giới, kế thừa truyền thống văn hóa kim, cổ, đông, tây đặc
biệt là tiếp thu chủ nghĩa Mác -Lênin, đỉnh cao tư tưởng nhân văn của nhân
loại. Người đã để lại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà cả cho nhân dân
thế giới một hệ thống giá trị tư tưởng về mọi lĩnh vực. Trong đó tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa là một trong những di sản quý báu, là kim chỉ
nam để Đảng ta hoạch định chính sách, sách lược phát triển văn hóa qua
các giai đoạn xây dựng đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta,
kế thừa phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng cảu nhân dân ta
giành thắng lợi.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa chiếm một vị trí quan trọng trong
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự chắt lọc, tổng hợp, kết tinh những
giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam, của phương Đông, phương Tây, của
truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế mà cốt lõi là sự kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa văn hóa nhân loại.
7
7
1.1.1. Văn hóa dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và
Anh hùng giải phóng dân tộc, tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa
kiệt xuất Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của
dân tộc Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những
khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của mình và tiêu
biểu cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau…
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá
trị truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành
tiền đề tư tưởng, lí luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất, là tinh thần tương thân tương
ái, lòng nhân nghĩa, có ý thức cố kết cộng đồng, là ý chí vượt lên mọi khó
khăn, thử thách, là trí thông minh, tài sáng tạo, quý trọng hiền tài, khiêm
tốn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã kết tinh được những gì tinh
tuý nhất của văn hóa Việt Nam, trong đó nổi bật hơn cả là chủ nghĩa yêu
nước và lòng nhân ái. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hun đúc lên bởi
cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, dân tộc ta. Tinh
thần yêu nước đã trở thành đạo lý, triết lý sống, niềm tự hào của con người
Việt Nam. Bởi vậy, với người dân Việt Nam gắn mình với vận mệnh Tổ
quốc, với dân tộc thì chủ nghĩa yêu nước ấy lại nhân sức mạnh của bản
thân, biến thành một sức mạnh thúc đẩy mình vượt qua khó khăn, nguy

hiểm, mọi thử thách, gian nan. Chính từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã đúc
kết chân lý: “P?@;8-A,Q @8-$
9R<QS>*-)TEGR7>?@)J
U=-@+(G)E8@8(V+W)@,)
@,X%-C)EE)=J=@YR,
8
8
8,',”. Yêu nước gắn liền với thương dân đã trở thành đạo lý
truyền thống của dân tộc. Đạo lý này được Hồ Chí Minh kế thừa và phát
huy. Yêu nước, thương dân đã thành điều tâm niệm thiêng liêng nằm sâu
trong tâm thức và tâm cảm của nhà cách mạng - nhà văn hóa lớn Hồ Chí
Minh.
Đối với người Việt Nam thì tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn
kết, tương thân tương ái, “@@8*V@” trong hoạn nạn, khó khăn
đã trở thành một tình cảm tự nhiên. Truyền thống này cũng được hình
thành cùng với sự hình thành dân tộc. Người Việt Nam quen sống với nhau
trong tình làng nghĩa xóm, “Z@[*\”, “]XRV”.
Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam có sự phân hóa về giai cấp
truyền thống này vẫn bền vững. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa,
phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, nhấn mạnh bốn chữ
“đồng”: đồng tâm, đồng sức, đồng lòng và đồng minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa có cội nguồn từ những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong những giá trị truyền thống tốt đẹp
đó, Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh thần cộng động, một lối sống thành thực,
thân ái, những thuần phong mỹ tục đã trở thành những yếu tố đạm nét trong
tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Tiếp thu văn hóa nhân loại
Trên hành trình cứu nước, Người đã tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại, vốn sống, vốn kinh nghiệm để làm giàu tri thức của mình và phục vụ
cho cách mạng Việt Nam. Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa

phương Đông với các thành tựu hiện đại cảu văn minh phương Tây - đó
chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành nhân cách và văn hóa Hồ
Chí Minh.
5'K (
9
9
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, với tư chất thông minh
tuyệt vời từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được trang bị và hấp thụ nền Quốc học và
Hán học khá vững vàng, chắc chắn. Khi bôn ba khắp năm châu, bốn bể,
Người vừa hoạt động cách mạng, vừa học hỏi không ngừng. Người đã
thông thạo các ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của nhân loại, am
tường các nền văn hóa Đông, Tây, kim, cổ. Khi tiếp thu các nền văn hóa,
Người bao giờ cũng phân tích các yếu tố giá trị toàn nhân loại và vĩnh cửu.
Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng tinh thần văn hóa nhân loại.
Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, và tư tưởng tiến bộ
khác của văn hoá phương Đông.Trong đó Người chịu ảnh hưởng rất nhiều
của Nho giáo dựa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Hồ Chí
Minh thấy được những mặt tích cực của Nho giáo và khuyên chúng ta “nên
học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo,
tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy
không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi
vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị. Bên cạnh đó,
Hồ Chí Minh cũng hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là
trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng
đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực
nghiệm, doanh lợi…
Phật giáo vào Việt Nam từ sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đối với
Việt Nam. Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, thiện tâm…; là nếp
sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; là tinh thần
bình đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao động,

cống lười biếng “ nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”; là chủ trương sống
không xa lánh việc đời mà gắn bó với dân, với nước, tích cực tham gia vào
cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù xâm lược Tư tưởng dân chủ
tiến bộ như chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn có ảnh hưởng đến tư
tưởng Hồ Chí Minh, vì Người tìm thấy những điều phù hợp với điều kiện
10
10
của cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh là nhà mácxít tỉnh táo và sáng suốt,
biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng văn hoá phương Đông để
phục vụ cho sự nghiệp của cách mạng Việt Nam.
5'K?-
Trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài Hồ Chí Minh sống chủ
yếu ở Châu Âu nên chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ
và cách mạng của phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng qua các tác
phẩm của các nhà khia sáng như Vonte (Voltaire), Rútxô (Rousso),
Môngtétxkiơ (Montesqieu). Người tiếp thu các giá trị của bản -A(
?-$8"?-$ của Đại cách mạng Pháp (1791), các giá trị về
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cảu -A(*
@!' của Mỹ (1776). Trước khi ra nước ngoài, Bác đã nghe thấy ba từ Pháp:
tự do, bình đẳng, bác ái. Lần đầu sang Pháp, Người đã thể hiện bản lĩnh,
nhân cách phẩm chất cao thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã nhìn
thấy mặt trái của “lý tưởng” tự do, bình đẳng, bác ái. Cách đây 40 năm, nhà
nghiên cứu Pháp Gabriel B. Nonnet trong tác phẩm Việt minh - Hồ Chí
Minh đã nhận xét: Hồ Chí Minh đã tiếp nhận nhiều ở các nền văn hóa, giáo
dục phương Tây nhưng hoàn toàn không đi vào con đường kinh viện. Do
đọc nhiều, đi nhiều và sử dụng thông thạo các tiếng Pháp, Anh, Hoa,
Nga…đã hình thành ở ông một kiểu tiếp nhận hiệu quả và sâu sắc.
Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, Hồ Chí Minh quan
niệm Tôn giáo là văn hoá. Điểm tích cực nhất của Thiên chúa giáo là lòng
nhân ái. Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hoá Đông - Tây để

phục vụ cho cách mạng Việt Nam. Người kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh
và những giá trị của Thiên chúa giáo. Và Người dẫn lời của Lênin: “^
_D+?,*N_CR9
R<*D,*C@+”. Người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức,
bóc lột; đã là hiện thân của lòng nhân ái và đức hy sinh cao cả. Sau này,
11
11
Người luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng viên về lòng thương người, thương
dân, thương các chiến sỹ ngoài mặt trận - đó là những tư tưởng thấm đậm
những giá trị cao cả mang tính nhân loại mà Thiên chúa giáo đã khởi
xướng.
Người lên án gay gắt những kẻ “giả danh Chúa” để thực hiện những
“hành vi ác quỷ”: dẫn đường cho đội quân viễn chinh; cướp của cải, đánh
đập, bắt giết người (đặc biệt là trẻ em); chiếm ruộng đất canh tác, v.v…
Người coi những hành động đó là sự đi ngược lại và phản bội lòng nhân ái
cao cả của Chúa, làm hoen ố tư tưởng lớn của Ngài là muốn mưu cầu phúc
lợi cho xã hội. Người viết: “Nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng đanh trên cây
thánh giá trở về cõi thế này, thì chắc Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy
“các môn đồ trung thành” của mình thực hiện đức khổ hạnh như thế nào”.
Người lên án những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản phương
Tây, những kẻ nhân danh chúa để cấu kết với chủ nghĩa thực dân, tham gia
vào guồng máy của chủ nghĩa thực dân, xâm nhập nền kinh tế và quân sự,
áp đặt nền văn hóa thực dân, làm xuất hiện nguy cơ bá quyền văn hóa
Nói tóm lại, trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự biết làm
giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa tiếp
thu, vừa gạn lọc để từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế
thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
1.1.3. Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản

chất của tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người góp phần làm phong
phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên
giành độc lập, tự do. “Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta… là mặt
trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa
xã hội…”.
Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền
tảng của những tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn
12
12
chính trị, vốn hiểu biết phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động
đấu tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc.
Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khẻ năng tư duy độc lập, tự chủ và
sáng tạo ở Người khi vận dụng những nguyên lý cách mạng của thời đại và
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam. Quá trình đó cũng diễn ra một
cách chân thành và giản dị. Điều này đã được Hồ Chí Minh cắt nghĩa trong
bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Mác – Lênin: “`aR=-D)(<
+D^b%Ac(E-A
`AJ`A@8D-A,*+*d'*R8
Jc( BdO'e@8J4(R8:=-f
.*(X*<(36*dg*J,(),
*=<"?R7'RLQ; @8J)(*8
@8J)<>d8<@8JJ(C” [10,
126].
Quá trình tưởng chừng như đơn giản và tự nhiên đó, thực ra “là
chặng đường chiến thắng bao nhiêu khó khăn với sự lựa chọn vững chắc,
tránh được những sai lầm dẫn tới ngõ cụt”. Thực tiễn trong khoảng gần 10
năm đi tìm đường cứu nước, nhất là sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những
luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin (1920), Nguyễn Ái Quốc
đã “*)'=E)g)cS*'Ec:
J*dJ=-*D'"?. Như vậy, chính Luận cương

của V.I.Lênin đã nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về con đường giải
phóng. Nó phù hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp
ủ từ lâu, nay đang trở thành hiện thực. Người viết: “`a*U)@8<
-A,)L'@8<*d*(b
`A)bHLR” [10, 128].
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã
tiến dần tới những nhận thức “lý tính”, trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác
sâu sắc hơn, để rồi tiếp thu học thuyết của các ông một cách có chọn lọc,
13
13
không rập khuôn máy móc, không sao chép giáo điều. Người tiếp thu lí
luận Mác - Lênin theo phương pháp mácxít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản
chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của Việt Nam,
chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở.
Như vậy, thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ
Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường
cứu nước: “*=)SAL@9@!6`A)S
@8(%)"U"U(C*Nh^<>d)
<,'*N"?R7'RL8_
D@*A, [10, 128]; “ i?-DX-$)<
$)<?=)ZZ=&
=@8<`A: [2, 268]; “ @8"Z!"#_
@D"+-<`A)!"#+)'VN',%
5&M8--)8a(*d*=88*NZ@N
@,” [12, 476].
Tóm lại Hồ Chí Minh tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại
một cách có chọn lọc rồi vận dụng những tinh hoa đó một cách sát hợp vào
những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ
giải phóng cho dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp

giải phóng của các dân tộc khác trên thế giới.
1.1.4. Phẩm chất chủ quan Hồ Chí Minh.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học, yêu nước và
gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân. Với tư chất thông minh, tư duy độc
lập, sáng tạo, ham hiểu biết, nhạy bén với thời cuộc, với khả năng phân tích
khái quát tổng hợp Hồ Chí Minh đã tiếp nhận mạch ngầm văn hóa truyền
thống và thời đại. Vì vậy, ở Hồ Chí Minh mang đầy đủ những gì là tinh túy
14
14
nhất, tốt đẹp nhất của con người Việt Nam. Những yếu tố này đã hình
thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa có giá trị đến ngày nay.
- j"-8&Q
Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán
tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu tìm hiểu các cuộc cách mạng
trên thế giới. Những năm tháng hoạt động trong nước và buôn ba khắp thế
giới để học tập, nghiên cứu, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận
xét thực tiễn, làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình
thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh
vực hoạt động lý luận của Người về sau.
Các nhà yêu nước tiền bối cùng thời với Hồ Chí Minh tuy cũng đã có
những quan sát, nhưng họ chưa nhận thấy, hoặc nhận thức chưa đúng về sự
thay đổi của dân tộc và của thời đại.Trong quá trình tìm đường cứu nước,
Hồ Chí Minh khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và
cuộc đấu tranh cảu các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý
luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong
thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân lý như vậy mà lý luận của
Hồ Chí Minh mạng giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.
- Ok=*+*L8@%+*%lQ
Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác đọng mạnh mẽ của thời
đại và sự nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh

hoạt động có hiệu quả cho dân tộc và nhân loại. Có được điều đó là nhờ
vào nhân cách, phẩm chất và tài năng trí tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh.
Phẩm chất tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc
nhận xét, đánh giá các sự vật, sự việc chung.
15
15
Phẩm chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh kiên định,
luôn tin vào nhân dân; khiêm tốn, bình dị ham học hỏi; nhạy bén với cái
mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn. Người không ngừng
học tập và chiếm lĩnh vốn tri thức vốn kinh nghiệm đấu tranh của các
phong trào giải phóng dân tộc. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ
của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến với CN Mác - Lênin và tiếp thu được
các giá trị văn hoá nhân loại. Trong Người là tâm hồn của một nhà yêu
nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu
thương nhân dân, thương người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì
độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Bác Hồ từ một người tìm
đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi theo.
Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của bản thân đã tác động rất lớn
đến việc hình thành và phát triển tư tưởng của Người. Tất cả những điều
kiện khách quan trên đã góp phần vào việc hình thành nên một vị lãnh tụ
kiệt xuất, một con người vĩ đại, một tái năng lớn, một tư tưởng lớn - tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
văn hoá; và sớm nhận thức được vai trò và sức mạnh của văn hóa và tư
tưởng, Người đã nhanh chóng đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của
đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã trở thành kim chỉ nam của
Đảng trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; mãi mãi là ánh sáng soi đường cho dân tộc ta trong quá trình xây dựng
“nền tảng tinh thần của xã hội”

Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất,
không chỉ vì Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một nền văn hóa
mới ở Việt Nam mà còn vì những sự đóng góp mới của Người vào lý luận
và sự phát triển chung của nền văn hóa nhân loại.
1.2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG CỦA CHÍ
MINH VỀ VĂN HÓA
16
16
1.2.1. Khái niệm về văn hóa
Văn hóa là vấn đề phức tạp. Khái niệm “văn hóa” có nội hàm phong
phú và ngoại diên rất rộng. Chính vì vậy, đã có đến hàng trăm định nghĩa
khác nhau về văn hóa. Cho đến nay người ta thống kê thì có hơn 400 định
nghĩa về văn hóa.
- H&<X$Q
Người đầu tiên đề cập đến khái niệm văn hóa là Lưu Hướng người
Trung Quốc (Thời Tây Hán), ông định nghĩa văn hóa theo nghĩa Hán đó là:
văn hóa là dùng văn để hóa, giáo hóa con người.
Đến thế kỷ XIX năm 1871, nhà nhân chủng học người Anh William
Isaac Taylor đã định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay văn minh hiểu
theo nghĩa rộng trong dân tộc là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức
tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ khả năng, tập quán
nào mà con người thu được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Về mặt thuật ngữ khoa học: văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh
“Cultus” mà nghĩa gốc là b, được dùng theo nghĩa Cultus Agri
nghĩa là “ b*=: và Cultus Animi là “ bU”
tức là sự “"#R"m?D”. Theo nhà triết học
người Anh Thomas Hobbes (1588 - 1679): lao động giành cho đất được gọi
là sự gieo trồng, và sự dạy dỗ trẻ em gọi à gieo trồng tinh thần”.
Định nghĩa văn hóa của UNESCO được thông qua trong bản tuyên
bố những chính sách văn hóa tại Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì từ

ngày 26/ 07 đến ngày 06/ 08/ 1982 tại Mêhicô cho rằng: “Văn hóa là tổng
thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết
định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn
hóa bao gồm nghệ thuật văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản
của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng.
Văn hóa đem lại cho con người những khả năng suy xét về bản thân. Chính
văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí
17
17
tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà
con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương
án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi
không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình
vượt trội lên bản thân”.
Theo từ điển Tiếng việt: Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử; văn
hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu, đời sống
tinh thần; văn hóa alf tri thức, kiến thức khoa học đồng nghĩa với trình độ
học vấn; văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn
minh.
Tóm lại, theo quan điểm của các học giả về văn hóa thì văn hóa là
sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ
giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo
nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa
được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của
con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được
biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của
con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà con người tạo ra.
- H&<$Q

Dựa trên những định nghĩa của các học giả về văn hóa và từ chính
thực tiễn hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa
đầy đủ, đúng đắn khoa học và cách mạng nhất về văn hóa. Trong tư tưởng
của Người, văn hóa được hiểu theo ba nghĩa: nghĩa )n' và =n'
b, Hồ Chí Minh nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn,
đồng thời đó cũng là mục đích sống của loài người. Tháng 8/ 1943 khi còn
ở trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra một
18
18
định nghĩa của mình về văn hóa. Điều thú vị là định nghĩa của Hồ Chí
Minh có rất nhiều điểm gần với quan điểm hiện đại về văn hóa. Người viết:
“5J@WY#*<)@8D,
+8'(_)_)*+*L)''@!)EX)
()X)&!)_(#+h8-$
I))8'KL["#Q8R_+8'
*L@8Q5@8%GN'<X'KL
+V,RC&<8@8D*dh
L_U*D8*;g<%:[3, 43].
Với định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan niệm phiến
diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh
thần, trong văn học nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản
ánh trình độ học vấn… Trên thực tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị
vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng
sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của loài người.
Có thể thấy rằng, đây chính là nội dung quan điểm về văn hoá của
chủ nghĩa Mác - Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội được trong
quá trình hoạt động cách mạng phong phú của mình. Quan niệm này của
Người xuất phát từ cách tiếp nhận tư tưởng Mácxít và rất gần gũi với nhận
thức hiện đại về văn hóa, coi văn hoá không đơn thuần là đời sống tinh

thần của con người - xã hội, mà từ trong bản chất của mình, nó chính là
linh hồn, là "hệ thần kinh" của một xã hội, là sức mạnh trường tồn của dân
tộc, là sức mạnh đỉnh cao vươn lên của thời đại.
bn') văn hóa là những giá trị tinh thần. Người viết:
“(E,8)R=*$Ua9Y'
@8Xo76E6>d6QM
@8EaNU” (Báo Cứu quốc, 8/1945).
19
19
b=n') văn hóa đơn giản là trình độ học vấn của con
người thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải đi học văn hóa,
xóa mù chữ…
- H*C$>?-"%$,
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra M*C
@, định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hi sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của
nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế” [3, 431].
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã
thấy rõ vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa
vì sao ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc
xây dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh
vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức tâm lý con người, đã sớm đưa văn
hóa vào chiến lược phát triển đất nước.
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của văn hóa
@8)@8*DU<>d)Ea
NUQ

Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã đưa
ra quan điểm này. Ở đây, Hồ Chí Minh đặt văn hóa ngang hang với chính
trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và bốn
vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau.
&,7)>d: Hồ Chí Minh cho rằng, chính
trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị
giải phóng sẽ mở đường cho văn hóa phát triển. Người nói: “Bd
8)&=-cP,*%"?8'E)?"?
20
20
R7(@&)R78)E(C'C*N:[7, 434]. Để văn hóa phát
triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước.
&,E: Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về
cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Từ đó, Người đưa ra
luận điểm: phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có
điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Người viết: @8E
aNU nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa
mới kiến thiết và có điều kiện phát triển được.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là kinh tế phải đi trước một bước.
Người viết: 4@A<>dJ''CE8
Q5JE('C8EQ#_?o
%,%*N*+)JE'*,: [10, 59].
@8)E(C*L88'E8
7)''##&#78a*k-%'C<
EQ
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
không nhấn mạnh một chiều về sự phụ thuộc “thụ động” của văn hóa vào
kinh tế. Người khẳng định: “J*<?"?@AW
a'a*k-+(E('#E)'C"?
<)U*C>?-"%,8,;RJ)=)

*@!')"?<88+” [8, 281].
5'E87: văn hóa phải tham gia thực
hiện nhiệm vụ của chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Quan
điểm này không chỉ định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới ở
Việt Nam mà còn định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, quan điểm “Văn hóa cũng là một mặt trận”, “Kháng
chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”…mà Người đưa ra đã tạo nên
một phong trào văn hóa văn nghệ sôi động chưa từng thấy.
21
21
j87Y': điều mà chủ nghĩa xã
hội và thời đại đang đòi hỏi. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng chủ trương gắn
văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hóa thấm sâu vào
kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc xây dụng và phát triển đất nước.
22
22
1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất của văn hóa
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí
Minh đã bắt tay ngay vào việc xây dựng một nền văn hóa mới. Hồ Chí
Minh chỉ ra sự khác nhanu giữa nền văn hóa mới và nền văn hóa cũ trước
hết ở tính chất cơ bản của nó. Nền văn hóa cũ mang tính chất nô dịch, ngu
dân đã được Người phân tích, tố cáo, lên án trong nhiều bài viết, nhất là
trong “i*%"?O' (PK:Q
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, song, nền văn hóa mới
theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm ba tính chất: tính dân tộc, tính khoa
học và tính đại chúng.
"? được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều khái niệm, như
đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh đến chiều sâu bản chất

rất đặc trưng của văn hóa dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm lẫn với văn
hóa của các dân tộc khác. Người cho rằng, để được như vậy, “phải” trau
dồi cho văn hóa, văn nghệ có tinh thần thuần túy “Việt Nam”, phải “lột tả
cho hết tinh thần dân tộc”, đó là chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết, khát vọng
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường… của dân tộc. Người cho rằng, “nếu dân
tộc hóa mà phát triển đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hóa nó, vì lúc
bấy giờ văn hóa thế giới sẽ phải chú ý đến văn hóa của mình sẽ chiếm được
vị trí ngang với các nền văn hóa thế giới” (Báo Cứu quốc, 9/10/1945). Tính
dân tộc của nền văn hóa không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa và
phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển
những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của
đất nước.
EX tức là hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hóa
của thời đại. Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại
những gì trái khoa học, phản tiến bộ, phải truyền bá tư tưởng mácxít, đấu
tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín dị đoan, phải biết gạn
đục, khơi trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh
23
23
hoa văn hóa nhân loại. Người nói: “M-,*N*@!')U
*N')U'$N',EX8N'
,-&X<?"?”. Phải kiên quyết đấu tranh chống những
gì trái với khoa học, phản tiến bộ. Những người làm văn hóa phải có trí tuệ,
hiểu biết khoa học tiên tiến, phải có chiến lược xây dựng văn hóa mang tầm
thời đại.
*+a nền văn hóa phải phục vụ cho nhân dân và do nhân
dân xây dựng nên. Hồ Chí Minh nói, “5'##pA
a'@8'##((R)L@8'##*+*?
"?”; “HUa@8_D+)((@8_D
+QM?qE(^+_<!

=>dQHUa;@8D_c” [9, 249- 250].
1.2.4. Quan điểm về chức năng của văn hóa
Chức năng của văn hóa rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho
rằng, văn hóa có ba chức năng chủ yếu.
@8)R"m*a*Z8_J*n'Q
Theo Hồ Chí Minh, tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất
của đời sống tinh thần của con người. Vì vậy, chức năng cao quý nhất của
văn hóa là bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho
nhân dân loại bỏ những sai lầm thấp hèn có thể có trong tư tưởng và tình
cảm mỗi người.
Văn hóa phải bồi dưỡng tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, độc lập tự
do, làm cho dân tộc vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích
riêng, xây dựng tình cảm lớn như yêu nước, thương nòi, yêu thương con
người, yêu tính trung thực, chân thành, ghét thói hư tật xấu, căm thù giặc
nội xâm.
Tư tưởng và tình cảm rất phong phú nên văn hóa phải đặc biệt quan
tâm đến những tư tưởng, tình cảm lớn, bồi dưỡng tinh thần tự chủ, tự lực, tự
cường, độc lập tự do, chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và của
24
24
dân tộc, phải bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Nếu phai nhạt lý tưởng này con người sẽ chỉ trở nên tầm thường nhỏ bé.
Tình cảm lớn của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước, thương dân,
thương yêu con người; yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét
những thói hư tật xấu, sự sa đọa…được thể hiện trong các mối quan hệ với
gia đình, bạn bè, anh em, đồng đội…Và văn hóa góp phần xây đắp niềm tin
cho con người vào bản thân, lý tưởng, nhân dân và tiền đồ cách mạng…
Đánh giá cao chức năng của văn hóa trong đời sống xã hội nói chung
và trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nói riêng, bên cạnh các tác
phẩm mang tính chất Chính trị, Hồ Chí Minh còn là tác giả của nhiều kiệt

tác văn học đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng tư tưởng, tình cảm,
củng cố niềm tin, lý tưởng con người trong chặng đường đấu tranh đầy gian
khó như tập thơ Ngục trung nhật ký, các bài thơ tuyên truyền như Ca binh
lính, Ca sợi chỉ…
“;*;*I
D==E(*I
;*I;*
M$D==@A*I:
cQQ
.;*f3
4j(&JE)^N@;E(R$
 8a8@='RC)-Z@8A:Q
Qua những câu thơ trên đã khuyến khích tinh thần đoàn kết toàn dân
trong công cuộc đấu tranh và xây dựng Tổ quốc.
@8)CR)?"?Q
Dân trí là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức của người dân.Nói đến
văn hóa là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức
của người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có
thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đánh giá cao việc nâng
25
25

×