Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học Sử dụng thơ Tố Hữu nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua dạy học bài “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)” lớp 12 THPT chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.86 KB, 57 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đặt ra cho các nước trên thế giới
những đòi hỏi cấp bách. Để vượt qua những thử thách và tận dụng thời cơ phát
triển đất nước, Việt Nam cần phải có những biện pháp, chủ trương đúng đắn,
đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục, bởi sản phẩm chính của giáo dục là con
người mà con người là nhân tố quyết định mọi sự thành công hay thất bại của
những chính sách đó. Hiểu được vai trò quan trọng này của giáo dục, Đảng và
Nhà nước ta từ sớm luôn chú trọng tới giáo dục, coi giáo dục là “quốc sách
hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, chuẩn
bị cho thế hệ trẻ những hành trang cần thiết, xứng đáng là thế hệ trẻ của thế kỉ
XXI.
Lịch sử là môn có nhiều ưu điểm so với các môn học khác trong việc giáo
dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên, hiện nay thực trạng
đáng buồn là vòng xoay của kinh tế thị trường làm cho xã hội quay lưng với
môn học lịch sử, coi lịch sử là môn phụ, môn bổ trợ cho các môn học khác nhất
là khoa học tự nhiên và ngoại ngữ. Trong khi đó, mặc dù có nhiều biện pháp đổi
mới phương pháp giảng dạy nhưng phần lớn giáo viên dạy lịch sử vẫn sử dụng
phương pháp dạy học truyền thống, khô cứng, thiếu linh hoạt trong việc gây
hứng thú bộ môn cho học sinh. Đồng thời giáo viên còn thiếu linh hoạt trong
việc vận dụng các môn học bổ trợ khác cho môn dạy của mình, nguyên tắc liên
môn được xây dựng trong môn học lịch sử từ lâu xong việc vận dụng nó còn
nhiều hạn chế. Theo nhiều khảo sát dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay,
hầu hết các giáo viên đều chỉ bó hẹp trong phạm vi kiến thức lịch sử, việc vận
dụng nguyên tắc liên môn còn nhiều hạn chế, trong đó có sử dụng tài liệu văn
học, đặc biệt là sử dụng thơ.
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng tiểu biểu của Việt Nam, các tác phẩm của
ông gắn liền với chính trị, với thời đại và tình hình cách mạng. Vận dụng thơ Tố
Hữu vào dạy học lịch sử góp phần không nhỏ vào nâng cao hiệu quả môn học,
nhất là ý nghĩa trong việc gây hứng thú học tập môn lịch sử cho học sinh vốn


2
đang xa lánh dần với môn học này. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, việc sử
dụng thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử còn nhiều yếu kém. Người dạy chưa tâm
huyết, chưa đầu tư tìm tòi kết hợp thơ Tố Hữu vào giảng dạy, hoặc có thì cũng
chỉ dừng ở mức độ minh họa thơ tùy tiện, hời hợt, khiến thơ không có tác dụng
và học sinh bị phân tán chú ý.
Bài 20 lịch sử Việt Nam lớp 12 THPT “Cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)” ghi dấu ấn với nhiều sự kiện sáng
chói trong lịch sử dân tộc. Đây là bài học thể hiện quyết tâm, ý chí chiến đấu
anh dũng vì mục tiêu độc lập dân tộc của người Việt Nam. Những vần thơ viết
về thời kì lịch sử này đã được Tố Hữu thể hiện hết sức sâu sắc. Nếu giáo viên
biết cách vận dụng thơ Tố Hữu vào giảng dạy bài học sẽ góp phần cụ thể hóa
lịch sử, làm phong phú nhận thức của học sinh, từ đó giúp các em hứng thú hơn
với bộ môn lịch sử.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Sử dụng thơ
Tố Hữu nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh qua dạy học bài “Cuộc kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)” lớp 12 THPT -
chương trình chuẩn” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu lí luận và vận dụng hứng thú vào học tập lịch sử cũng như
vận dụng tài liệu văn học vào dạy học lịch sử ở trường phổ thông có nhiều tài
liệu nghiên cứu. Bên cạnh những tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về dạy học lịch
sử còn nhiều công trình nghiên cứu liên quan mà đề tài của chúng tôi có tham
khảo.
2.1. Các công trình nghiên lí luận dạy học
* Các công trình lí luận
Những công trình lí luận giáo dục học, tâm lí học và sử học nước ngoài là
nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để chúng tôi tìm hiểu về hứng thú và hứng
thú học tập:
N. G. Đairi, “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào (bản dịch tiếng

Việt)”, NXB GD Hà Nội, năm 1973, nghiên cứu nhiều vấn đề về giờ học lịch sử,
trong đó có nội dung nghiên cứu phương pháp tổ chức kiến thức lịch sử trong
giờ học, tổ chức nội dung cơ bản và tham khảo như thế nào trong một tiết học.
3
Qua công trình này, đề tài của chúng tôi biết lựa chọn kiến thức hợp lí khi dạy
học cho học sinh.
L. X. Xlovaytrich, “Từ hứng thú đến tài năng”, NXB Phụ Nữ, năm 1975.
Qua cuốn sách này, tác giả cho chúng ta thấy tài năng được khơi nguồn từ hứng
thú, có tạo được hứng thú thì mới giúp trẻ phát huy được tài năng của mình.
Bên cạnh đó, các công trình lí luận trong nước cũng góp phần hoàn thiện
thêm đề tài của chúng tôi:
Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, “Phương pháp dạy học lịch sử tập 1
(1976), tập 2 (1980)”, NXB Giáo dục, Hà Nội. Công trình nghiên cứu về đặc
điểm nhận thức của học sinh, đặc trưng môn học, các phương pháp dạy học và
vận dụng phương pháp vào dạy học lịch sử.
Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, “Một số
phương pháp dạy học lịch sử (tập 1, 2)”, NXB ĐHQG Hà Nội, năm 2002. Công
trình đã trình bày về đặc điểm nhận thức của học sinh, đặc trưng môn học, các
hình thức dạy học lịch sử, vận dụng liên môn vào dạy học lịch sử. Từ đó làm cơ
sở cho việc tìm hiểu và vận dụng vào đề tài của tôi.
Nguyễn Khánh Toàn, “Nền giáo dục Việt Nam lí luận và thực hành”,
NXB GD Hà Nội, năm 1999. Tác giả nghiên cứu quá trình hình thành và phát
triển của nền giáo dục Việt Nam, những bước phát triển và thực tế giáo dục của
ta như thế nào. Với công trình nghiên cứu này, đề tài của chúng tôi có tham
khảo để tìm hiểu về mục tiêu giáo dục đào tạo và thực trạng giáo dục Việt Nam
hiện nay.
2.2. Các bài nghiên cứu liên quan tới đề tài
* Luận văn, luận án
Luận văn sau đại học chuyên ngành văn học của Phạm Đức Bách “Hình
tượng người cộng sản trong thơ Tố Hữu”, NXB ĐHSP 1982. Công trình nói về

cách xây dựng, cảm hứng hình tượng người chiến sĩ cộng sản trong thơ Tố Hữu.
Luận án văn học của Nguyễn Thị Bình “Biện pháp phát triển cảm xúc
cho học sinh THPT khi dạy học thơ Tố Hữu”, NXB ĐHSP 2007 giới thiệu về
các đặc trưng của thơ Tố Hữu như giàu nhạc điệu, ngôn từ, hình ảnh phong
phú…, từ đó làm cơ sở cho việc tạo cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh trong dạy
học văn học.
4
Công trình văn học “Dạy học thơ Tố Hữu ở nhà trường THPT theo
hướng tích hợp” của Nguyễn Thị Khánh, NXB ĐHSP 2005 giới thiệu việc khai
thác hình ảnh, ngôn ngữ, thể thơ… trong thơ Tố Hữu nhằm gây hứng thú học
tập môn văn trong nhà trường phổ thông.
* Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Dung với công trình nghiên cứu “Sử dụng thơ văn Hồ Chí Minh
để nâng cao hiệu quả của bài học lịch sử ở trường phổ thông (Qua bài 7:
“Cuộc vận động cách mạng tháng Tám (1939 – 1945)”, lớp 12 THPT”, NXB
ĐHSP năm 2006 đã nói về hiện trạng sử dụng và các biện pháp sử dụng thơ văn
Hồ Chí Minh như thế nào vào giảng dạy lịch sử lớp 12 ở trường phổ thông.
Khóa luận tốt nghiệp “Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học chương II
“Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV” sách giáo khoa lịch sử lớp 10 (ban cơ bản)
nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh” của Đinh Thị Thu Hương, NXB
ĐHSP năm 2007 cũng đã trình bày về biện pháp sử dụng tài liệu văn học nói
chung và việc gây hứng thú học tập cho học sinh ở trường phổ thông như thế
nào.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu riêng biệt về lí luận hứng thú, giáo dục; nghiên cứu về sử dụng tài liệu văn
học nói chung hay mới chỉ có một số nghiên cứu về tài liệu văn học của Hồ Chí
Minh. Chưa có công trình nghiên cứu tổng hợp việc sử dụng thơ Tố Hữu vào
dạy học lịch sử. Trong khi đó, thơ Tố Hữu lại có ưu thế rất lớn trong việc lồng
ghép vào dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trên cơ sở đó, hướng nghiên cứu
của đề tài là nghiên cứu biện pháp sử dụng thơ Tố Hữu nhằm gây hứng thú học

tập cho học sinh, qua đó góp phần bổ sung thêm phần nào vào lí luận và thực
tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở tìm hiểu về vai trò của tài liệu văn học trong dạy học lịch sử,
đề tài đi sâu xác định biện pháp sử dụng thơ Tố Hữu nhằm gây hứng thú học tập
cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là:
5
• Nghiên cứu lí luận dạy học, lí luận hứng thú học tập lịch sử và vai trò
thơ Tố Hữu trong dạy học lịch sử.
• Nghiên cứu thực tiễn sử dụng thơ Tố Hữu nhằm gây hứng thú cho học
sinh ở trường THPT thông qua hoạt động của thầy và trò.
• Nghiên cứu SGK và khai thác nội dung cơ bản của bài 20: “Cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”,
lớp 12 THPT, chương trình chuẩn.
• Đề xuất các biện pháp sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử Việt
Nam bài “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc
(1953 – 1954)” trong dạy học lịch sử một cách hợp lí.
• Tiến hành thực nghiệm sư phạm, so sánh, đánh giá và rút ra kết luận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình sử dụng thơ Tố Hữu trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Sử dụng thơ Tố Hữu trong dạy học lịch sử bài 20: “Cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)” lớp 12 THPT, chương
trình chuẩn.
- Do trình độ hạn chế và thời gian có hạn nên đề tài chỉ đi sâu các biện
pháp sử dụng thơ Tố Hữu trong giờ nội khóa, cụ thể bài 20: “Cuộc kháng chiến

toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”.
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở 2 lớp: 12A5 và 12A6 trường THPT
Xuân Mai (Chương Mỹ - Hà Nội)
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
• Dựa vào các tác gia kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của
Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về giáo dục và nhận thức nói chung
và giáo dục lịch sử nói riêng.
• Dựa vào lí luận về tài liệu học, phương pháp dạy học lịch sử của các
nhà khoa học giáo dục, tâm lí, lịch sử có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
• Dựa vào các tài liệu, tác phẩm, các công trình nghiên cứu của các nhà
tâm lí, giáo dục, giáo dục lịch sử có liên quan trực tiếp tới đề tài.
• Điều tra cơ bản: Điều tra bằng phiếu đối với giáo viên dạy sử và học
sinh lớp 12. Qua đó, xử lí thông tin, rút ra kết luận và thực tiễn dạy học
6
lịch sử ở trường phổ thông và tác dụng của việc sử dụng thơ Tố Hữu
trong dạy học lịch sử.
• Thực nghiệm sư phạm: Để kiểm tra tính khả thi của đề tài bằng việc
thiết kế và giảng dạy bài học lịch sử có sử dụng thơ Tố Hữu. Đối chiếu
kết quả thực nghiệm với lí luận để rút ra kết luận khách quan, khoa
học.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu lí luận về sử dụng thơ Tố Hữu để rút ra khái niệm và nâng
cao trình độ nhận thức của bản thân. Nắm vững lí luận về sử dụng thơ Tố Hữu
trong dạy học lịch sử Việt Nam bài “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)” sẽ giúp tôi vận dụng tốt hơn vào thực tiễn
giảng dạy khi ra trường.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, khóa luận

gồm có 2 chương:
Chương 1 – Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng thơ Tố Hữu nhằm
gây hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Chương 2 – Một số biện pháp sử dụng thơ Tố Hữu nhằm gây hứng thú
học tập cho học sinh qua dạy học bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”
7
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG THƠ TỐ HỮU
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm
- Thơ
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thơ là hình thức sáng tác văn học
phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng
ngôn ngữ hàm xúc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”[11;tr.309].
Nhà thơ Stephan Malácme khẳng định: “Thơ là một sự tái tạo lí tính của
vũ trụ… là sự biểu hiện ý nghĩa bí ẩn của sinh tồn, nhờ có ngôn ngữ của con
người được cô đọng vào tiết tấu thiết yếu của nó”[17;tr.327].
Xuân Diệu quan niệm:“Nghĩ cho kĩ, thì thơ là nhận “những thông tin”
của sự vật mà phát hiện những phản ánh và sáng tạo kì diệu trong tâm hồn
người… Quy luật lớn của thơ là cảm xúc và suy nghĩ… Suy nghĩ cũng phải đến
mức cao hơn suy nghĩ, tức là suy nghĩ trở thành cảm xúc… Thơ là một sản
phẩm của tâm hồn, trí tuệ con người mà tâm hồn và trí tuệ đó có một tác động
trở lại vào thực tại… Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống nhưng phải đi
qua một tâm hồn, trí tuệ đó phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng
độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu của những con người”[27;tr.8-33].
Còn theo Sóng Hồng: “Thơ là một hình thái nghệ thuật tinh thần cao quý.

Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt, biết thể hiện sự nồng cháy trong
lòng. Nhưng thơ là một lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn với tình cảm và có
nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ
qua những lời thơ trong sáng, vang lên nhạc điệu khác thường”[11;tr.309-310].
Qua những định nghĩa trên chúng tôi cho rằng, thơ là sự phản ánh cuộc
sống qua những rung động, nên tình cảm và cảm xúc trong thơ luôn tràn trề, đủ
đầy. Với đặc trưng là ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu nên khả năng truyền
cảm xúc cho người đọc nhanh và hiệu quả nhất. Vì vậy, người xưa thường chọn
thơ làm phương tiện sáng tác bộc lộ tình cảm, tâm trạng của mình; mượn thơ để
8
phản ánh tâm hồn cũng như phản ánh cuộc sống. Đặc trưng này khiến thơ có sức
hút lạ kì, tạo nên những hứng thú hấp dẫn. Trong quá trình dạy học, giáo viên
vận dụng linh hoạt, lồng ghép thơ hợp lí vào bài học lịch sử sẽ dễ dàng gây hứng
thú học tập hơn cho học sinh.
- Thơ Tố Hữu
Thơ Tố Hữu là những bài thơ do tác giả Tố Hữu sáng tác.
Nhà thơ Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 tại Thừa
Thiên – Huế. Tố Hữu là một tác gia có vị trí quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu
cho dòng thơ cách mạng Việt Nam. Năm 15 tuổi, Tố Hữu bắt đầu tham gia cách
mạng và cũng từ đây ông bắt đầu làm thơ. Tập thơ “Từ Ấy” đánh dấu bắt đầu
con đường sáng tác thơ cách mạng của ông. Từ khi giác ngộ cách mạng, Tố Hữu
đã gắn cuộc đời mình với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản, ông chỉ sáng
tác phục vụ sự nghiệp ấy. Trải qua thời gian dài của lịch sử dân tộc, các tập thơ
của ông cũng thể hiện các chặng đường phát triển của lịch sử: Từ Ấy (1937 –
1946), Việt Bắc (1947 – 1954), Gió Lộng (1955 – 1961), Ra Trận (1962 –
1971), Máu và Hoa (1972 – 1977)…
Mạch cảm hứng trong thơ Tố Hữu là mạch cảm hứng về đất nước, về
nhân dân. Tố Hữu làm thơ nhằm thể hiện những cảm xúc của bản thân và hướng
tới sự cao cả chung, về sự nối tiếp của thế hệ trong cuộc đấu tranh chống áp bức,
bất công và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Chính tác giả cũng

quan niệm: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính
phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ
ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối
với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà
thơ cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước
những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu, cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng
là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”[42].
- Hứng thú học tập và hứng thú học tập lịch sử
+ Hứng thú
9
Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn cho thấy hứng thú đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao năng lực trí tuệ con người. Vì vậy, nghiên cứu hứng thú là
rất cần thiết, nhất là khoa học giáo dục.
I.F.Khalamốp định nghĩa: “Hứng thú! Đó là nhu cầu nhuốm màu sắc của
cảm xúc, đi trước giai đoạn động cơ và làm cho hoạt động của con người có
tính hấp dẫn”[13;tr.28].
Bộ môn tâm lí học cho rằng: “Hứng thú là thái độ đặc thù của cá nhân
đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời sống, vừa có khả năng đem
lại cho nó một khái cảm”[21;tr.228].
Tác giả Hà Vỹ lại coi “hứng thú là một phảm chất có nhiều màu sắc ở
mỗi cá nhân. Nó được hình thành và biểu hiện trong quá trình học tập và lao
động, vui chơi và những hoạt động xã hội khác của con người”[35;tr.1].
Ý kiến của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, hứng thú là
một vấn đề phức tạp, mang màu sắc cảm xúc. Khi nào hứng thú được thỏa mãn
thì thường kèm theo là cảm giác hài lòng. Hứng thú thể hiện thái độ lựa chọn sự
vật hay hình thức hoạt động. Học sinh chuộng những gì mình ham thích và
thường dễ dàng bị thu hút chú ý vào đó. Hứng thú là một trong những điều kiện
quan trọng nhất không những của chú ý vô thức mà cả chú ý có ý thức. Vì vậy,
muốn thu hút chú ý của học sinh vào bài giảng, giáo viên phải tạo ra hứng thú
học tập cho các em.

+ Hứng thú học tập
Hứng thú học tập là một phần của hứng thú nói chung, là một phạm vi
nhỏ của hứng thú nhận thức đối với một đối tượng cụ thể trong quá trình dạy
học ở trường phổ thông.
Theo N. D. Levitop: “Khi học sinh nắm vững tri thức thì những hứng thú
về mặt nhận thức cũng được hình thành và phát triển”[19;tr.126]. Vai trò quyết
định để hứng thú nảy sinh là mối quan hệ thầy – trò. Nó không chỉ là mối quan
hệ đơn thuần giữa quá trình dạy của thầy và quá trình học của trò mà là sức
truyền cảm. Nếu giáo viên cho học sinh thấy môn học mình dạy luôn có sự phát
triển, luôn có những khám phá thú vị, những điều bí ẩn lôi cuốn; mặt khác, nếu
10
thầy giáo biết khơi gợi, biết nâng đỡ cho những tiến bộ đầu tiên của các em thì
cũng làm nảy sinh hứng thú trong quá trình học tập.
Như vậy, để hình thành hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên phải
giúp các em cảm xúc được niềm vui sướng của thành công, tin tưởng vào khả
năng của mình.
+ Hứng thú học tập lịch sử
Hứng thú học tập bộ môn lịch sử mang những đặc trưng của hứng thú
nhận thức, mang màu sắc cảm xúc ở mỗi cá nhân, có khả năng làm tăng tính tích
cực hoạt động của chủ thể và được đặc trưng bởi sự vươn lên tới nhận thức.
Với đối tượng nhận thức là môn lịch sử, hứng thú học tập bộ môn là sự
say mê, tự giác, có tính tích cực đặc biệt của bản thân đối với nội dung bài học.
Do sự định hướng có lựa chọn đối với môn học và do nhận thức được ý nghĩa,
tầm quan trọng của lịch sử nên học sinh nhanh chóng hiểu bài, có cảm xúc đối
với hiện thực lịch sử.
Như vậy, trong quá trình giảng bài của mình, giáo viên hoàn toàn có thể
lồng ghép thơ Tố Hữu vào bài giảng, nhờ đó kiến thức lịch sử sẽ không còn khô
khan, học sinh hứng thú hơn, say mê hơn đối với môn học này. Sử dụng thơ nói
chung và thơ Tố Hữu nói riêng để gây hứng thú học tập bộ môn cho học sinh là
một trong nhiều biện pháp giúp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Tuy là một

trong nhiều phương pháp hiệu quả khác song lại là phương pháp đơn giản mà
hiệu quả thu được lớn, bởi thơ Tố Hữu chính là nơi không chỉ phản ánh xúc cảm
của tác giả mà còn phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống.
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc sử dụng thơ Tố Hữu nhằm gây hứng thú học
tập cho học sinh
1.1.2.1. Mục tiêu và đặc trưng của bộ môn lịch sử
* Mục tiêu của bộ môn lịch sử
“Mục tiêu của bộ môn lịch sử ở trường THPT được xây dựng trên cơ sở
mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, quan điểm, đường lối của Đảng về sử học
và giáo dục. Mục tiêu của môn học cũng căn cứ vào nội dung, đặc trưng của
hiện thực lịch sử và nhận thức lịch sử; yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ của
cách mạng hiện nay”[24; tr.67].
- Về kiến thức:
11
Giúp học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản của lịch sử thế giới và
lịch sử dân tộc, từ đó làm cơ sở cho việc hình thành thế giới quan khoa học, giáo
dục thái độ đúng đắn, các kỹ năng kỹ xảo cần thiết.
- Về kỹ năng:
Rèn luyện kỹ năng tư duy biện chứng trong học tập và hành động, từ đó
rút ra kết luận, phân tích, tổng hợp, đánh giá sự kiện hiện tượng; kỹ năng tự học,
tự thực hành bộ môn lịch sử như sử dụng hiệu quả SGK, trình bày kiến thức, sử
dụng kênh hình, đồ dùng trực quan. Đồng thời, giúp học sinh vận dụng kiến thức
đã được trang bị vào cuộc sống.
- Về tư tưởng , tình cảm:
Giúp học sinh có niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng; giáo dục
cho các em truyền thống tốt đẹp của lịch sử dân tộc biểu hiện qua quá trình dựng
nước, giữ nước và phát triển đất nước trong thời đại mới; bồi dưỡng tinh thần
đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc; đấu tranh cho độc lập, tự do,
văn minh, hòa bình và tiến bộ xã hội. Đồng thời, giúp học sinh có ý thức công
dân, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quốc tế, hình thành những phẩm chất cần thiết

trong cuộc sống cộng đồng.
* Đặc trưng của bộ môn lịch sử
Lịch sử là quá trình phát triển hợp quy luật của xã hội loài người từ khi
con người và xã hội tồn tại cho tới nay. Những sự kiện, hiện tượng được đề cập
trong SGK đều là những sự kiện thuộc về quá khứ, đã xảy ra cách chúng ta hàng
triệu năm.
Mặt khác, lịch sử có tính không lặp lại về thời gian và không gian. “Mỗi
sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra trong một thời gian và không gian nhất
định, trong những thời gian và không gian khác nhau. Không có sự kiện, hiện
tượng lịch sử nào lại xảy ra cùng thời điểm, trong các thời kì khác nhau là hoàn
toàn giống nhau”[24;tr.139].
Lịch sử mang tính cụ thể. Trải qua quá trình phát triển, biến đổi lâu dài
trong lịch sử mà khối lượng thông tin và tri thức của quá khứ lịch sử là rất lớn,
khó có thể tiếp thu được hết mà chỉ có thể tiếp cận những dấu mốc quan trọng.
Đây cũng là một điểm khó của lịch sử, đòi hỏi giáo viên phải hướng dẫn học
12
sinh nắm vững thời gian, địa điểm, nhân vật làm ra sự kiện đó, nhưng quan
trọng nhất là các yếu tố chi phối, ảnh hưởng tới các sự kiện.
Ngoài ra, lịch sử còn có tính logic (tính hệ thống). Nội dung tri thức lịch
sử rất phong phú, đề cập tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính
trị, ngoại giao, quân sự… Do vậy, khi giảng dạy, giáo viên phải luôn chú ý tới
mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, các vấn đề lịch sử cần cung cấp cho
học sinh, đảm bảo sự thống nhất giữa “sử” và “luận”.
Như vậy, để giúp học sinh có thể nắm vững được những kiến thức lịch sử
cơ bản đó, giáo viên trước tiên phải khơi gợi được sự hứng thú, tò mò và say mê
trong học tập lịch sử của các em. Có như vậy thì hiệu quả học tập bộ môn mới
được nâng cao.
1.1.2.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 12 THPT
Quá trình nhận thức của học sinh tuân theo luận điểm nổi tiếng của Lênin:
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực

tiễn là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực
khách quan”[18;tr.189]. Nhưng nhận thức của học sinh mang những đặc thù
riêng “một sự nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới sự
chỉ đạo của giáo viên”[29;tr.12].
Quá trình nhận thức của học sinh THPT nói chung và của học sinh lớp 12
nói riêng không giống với quá trình lĩnh hội kiến thức khác. Mặt khác, học sinh
lớp 12 có đặc điểm tâm lý là ưa tìm hiểu cái mới, khám phá những điều chưa
biết. Do có vốn hiểu biết nhất định về cuộc sống, lại có điều kiện tiếp xúc với
thông tin, khi không thỏa mãn với những gì giáo viên cung cấp, các em sẽ chủ
động tìm hiểu làm sáng tỏ vấn đề. Tuy nhiên, học sinh sẽ nhanh chóng chán học
môn lịch sử nếu giáo viên cung cấp kiến thức quá cứng nhắc. Nếu giáo viên
không khéo léo trong cách truyền thụ kiến thức, không vận dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học, các môn học bổ trợ khác thì bài học sẽ trở nên khô cứng,
không khí học sẽ bế tắc và hứng thú học tập bộ môn sẽ bị triệt tiêu.
1.1.2.3. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay
Cùng với nhu cầu phát triển của đất nước cũng như nhu cầu đổi mới của
giáo dục đào tạo, một vài năm gần đây, một số trường phổ thông đã tiến hành
đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả dạy học và đã có nhiều
13
thành tích đáng kể. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng giáo dục chưa được cải
thiện nhiều, sự bảo thủ, lạc hậu về phương pháp vẫn còn khá phổ biến, cần
nhanh chóng được khắc phục.
Hiện nay, thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo và tinh thần đổi mới trong
giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, bộ môn lịch sử
ở trường phổ thông cũng có nhiều đổi mới, nhất là trong phương pháp dạy học:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”[26;tr.27].

Việc đổi mới dạy học đang là yêu cầu bức thiết trong dạy học lịch sử với mục
tiêu cao nhất là nâng cao hiệu quả việc học lịch sử hiện nay trong học sinh, muốn
điều đó, trước tiên phải biết khơi gợi hứng thú học tập bộ môn cho các em.
1.1.3. Phân loại thơ Tố Hữu
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng tiêu biểu của Việt Nam. Ở thơ Tố Hữu có
sự thống nhất chặt chẽ giữa tư tưởng của nhà cách mạng, nhà chính trị và nhà
thơ. Quá trình làm thơ của ông gắn bó làm một với quá trình hoạt động cách
mạng của ông và các nhiệm vụ của Đảng qua các giai đoạn lịch sử.
Cuộc đời làm thơ của mình, Tố Hữu đã để lại rất nhiều tập thơ nổi tiếng:
Từ Ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1962-1971), Máu và
Hoa (1977), Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (1999). Với mỗi tập thơ, Tố Hữu
luôn thể hiện được sự cảm thông đối với những số phận cực khổ, niềm tin tưởng
vào Đảng, vào cách mạng dân tộc…
Thơ Tố Hữu phản ánh nhiều khía cạnh, nhiều chủ đề khác nhau như ca
ngợi Đảng, Bác Hồ; ca ngợi người chiến sĩ cách mạng; ca ngợi người phụ nữ
Việt Nam kiên cường, đảm đang; thơ viết về tình yêu đôi lứa… Tuy nhiên do
phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số chủ đề thơ liên
quan trực tiếp tới nội dung lịch sử Việt Nam.
1.1.3.1. Thơ Tố Hữu phản ánh những sự kiện lịch sử tiêu biểu của dân tộc
Nói tới lịch sử là nói tới sự kiện, nếu không có sự kiện thì lịch sử rất thiếu
sót, phiến diện, không phản ánh chân thực hiện thực quá khứ của sự phát triển
14
xã hội loài người. Chính vì vậy, sự kiện rất quan trọng đối với lịch sử: “Sự kiện
lịch sử là hiện tượng, biến cố xảy ra trong quá khứ được ghi lại bằng tư liệu do
hoạt động nhận thức của con người mang theo nó dấu vết của ý thức xã
hội[22;tr.157].
Tố Hữu là nhà thơ nhưng cũng là người chiến sĩ cộng sản, thơ ông vừa trữ
tình nhưng cũng vừa chính trị. Trong thơ của mình, Tố Hữu luôn đi sâu, đi sát
với từng chặng đường phát triển của cách mạng Việt Nam, thơ ông phản ánh rất
nhiều sự kiện quan trọng, ví dụ sự kiện Phạm Hồng Thái mưu sát viên Toàn

quyền Méc-lanh năm 1924; sự kiện Xôviết Nghệ - Tĩnh bùng nổ; diễn biến Tổng
khởi nghĩa tháng Tám; chiến dịch Điện Biên Phủ; thống nhất đất nước Xuân
1975…, cũng được phản ánh khá chân thực và đầy đủ trong thơ Tố Hữu:
“Tổng khởi nghĩa! Lệnh truyền đêm trước
Sáng quân ra giải phóng Thái Nguyên
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, cả nước
Đứng lên ta giành hết chính quyền!”
(Theo chân Bác)[38;tr.230]
Với những câu thơ trên, Tố Hữu đã phản ánh chân thực cuộc Tổng
khởi nghĩa tháng Tám – 1945 của nước ta: Nghe lời kêu gọi của Đảng và
Chính phủ, nhân dân cả nước đã hăng hái tham gia Tổng khởi nghĩa. Chính
quyền tay sai trên cả nước lần lượt bị sụp đổ, chính quyền về tay nhân dân.
Đồng thời với những câu thơ trên, giáo viên giúp học sinh hiểu được phần
nào về sự hăng hái cách mạng của nhân dân cả nước, qua đó thấy được
quyết tâm giành độc lập của ta.
1.1.3.2. Thơ Tố Hữu ca ngợi Đảng và Bác Hồ
Bác Hồ và Đảng là hình ảnh gắn bó nhau chặt chẽ trong sáng tác văn học
nói chung, thơ Tố Hữu nói riêng. Trong thơ, Tố Hữu luôn dành những tình cảm
thiêng liêng nhất, tha thiết nhất để viết về Bác và Đảng.
Viết về Bác Hồ, Tố Hữu sử dụng nhiều tên gọi khác nhau, khắc họa
Bác ở nhiều nét khác nhau, nhưng ở nét vẽ nào Bác cũng hiện lên thật dung
dị, chân thành.
Tố Hữu đã viết:
“Dù ai rào giậu ngăn sông
Lòng ta vẫn vững là dân Cụ Hồ”
(Ta đi tới)[38;tr.92]
15
Tác giả đã khắc họa chân dung người cha già dân tộc luôn sống thủy
chung, nghĩa tình, hồn nhiên, giản dị. Khi dạy về hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc trong bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến

năm 1925”, giáo viên sử dụng những câu thơ này vào việc minh họa Bác cũng
như công lao của Bác trong việc tìm kiếm con đường cứu nước cho dân tộc ta.
Viết về Đảng, Tố Hữu luôn khẳng định sự tồn tại và các bước đi của Đảng
đối với cách mạng Việt Nam. Tố Hữu khắc họa hình tượng Đảng trong niềm tin
bất diệt của người dân Việt Nam đối với Đảng:
“Chiếc áo kia của chủ nghĩa anh hùng cách mạng?
Cảm ơn Đảng của chúng ta, Đảng làm ra ánh sáng”
(Bài ca xuân 68)[38;tr.205]
Hai câu thơ trên khi dạy học, giáo viên có thể lồng ghép vào giải thích về
yếu tố sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân quan trọng làm nên mọi thắng lợi
của cách mạng nước ta.
Bác Hồ và Đảng là hình ảnh luôn gắn bó chặt chẽ trong thơ ca cách mạng
Việt Nam. Thật thiếu khi nói tới Người mà không nhắc tới Đảng, và ngược lại.
Khắc họa chân thực những hình tượng này, không chỉ đem lại giá trị thẩm mĩ,
nghệ thuật sâu sắc mà còn đem lại giá trị lịch sử phong phú của thơ Tố Hữu.
1.1.3.3.Thơ Tố Hữu viết về hình tượng người chiến sĩ cộng sản
Thơ Tố Hữu luôn đi sát bước đi của cách mạng Việt Nam. Hơn ai hết, ông
nhận rõ trách nhiệm nặng nề nhưng rất vinh quang của nền văn học Việt Nam
thời đại mới. Vì lẽ đó, hình tượng người lính, người chiến sĩ cộng sản trở thành
chủ đề lớn trong thơ Tố Hữu và được tác giả phản ánh hết sức chân thực.
Trong quá trình dạy học, để gây hứng thú cho học sinh học tập lịch sử,
giáo viên nên thường xuyên khắc họa biểu tượng nhân vật, sử dụng thơ Tố Hữu
để khắc họa là một biện pháp rất hữu hiệu. Ví dụ, khi muốn khắc họa chân dung
người chiến sĩ quyết hy sinh vì nước, vì quê hương trong khởi nghĩa Nam Kì ở
bài 16 “Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 –
1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời”, mục II – phần 2_ “Những
cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới”, giáo viên sử dụng đoạn thơ sau:
“Các anh chị bước lên đài gươm máu
Đầu sắp rơi mà môi vẫn tươi cười
Chỉ còn đây một giây sống nữa thôi

Mà mắt đó vẫn trông đời bình thản”
16
(Quyết hy sinh)[38;tr.33]
Qua đoạn thơ trên giáo viên giúp học sinh của mình có thái độ kính trọng
và biết ơn đối với những người chiến sĩ đã hy sinh vì độc lập dân tộc; từ đó có
thái độ và hành động đúng đắn đối với lịch sử dân tộc.
1.1.3.4. Thơ Tố Hữu viết về tình quốc tế cao đẹp giữa cách mạng Việt Nam và
cách mạng thế giới
Một chủ đề thơ khác của Tố Hữu đó là thể hiện tinh thần quốc tế, sự ủng
hộ của bạn bè thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Tố Hữu đã thể hiện tinh
thần đó thông qua các bài thơ như: Bài ca tháng Mười, Trước Kremlin, Em ơi…
Ba Lan, Emily – con, Lều cỏ Lênin, Hai anh em…Tuy không viết nhiều về đề
tài này, xong trong thơ của mình, Tố Hữu luôn thể hiện sự cảm phục và lòng tin
tưởng của tác giả đối với sự giúp đỡ, ủng hộ của các nước bạn bè tới cho cách
mạng Việt Nam.
Ví dụ trong bài 20, mục IV, phần 1_“Nguyên nhân thắng lợi”, giáo viên
sử dụng thơ Tố Hữu viết về đề tài này để minh họa cho kiến thức về nguyên
nhân làm nên chiến thắng chống Pháp của dân tộc ta là có sự góp sức ủng hộ của
các nước bạn bè trên thế giới:
“Mạc Tư Khoa yêu mến

Thà mất đầu, không chịu cúi đầu im
Tôi ngả mũ, chào Lênin vĩ đại”
(Trước Kremlin)[38;tr.99]
Với mọi người, Tố Hữu là thơ chính trị, vì vậy nó có một ý nghĩa lịch sử,
một giá trị thời đại to lớn. Với ngôn ngữ giàu hình ảnh, hiện thực lịch sử được
phản ánh qua những chủ đề thơ Tố Hữu hiện lên chân thực, sống động. Kết hợp
thơ ông vào dạy học lịch sử sẽ có tác dụng lớn trong việc kích thích hứng thú
của học sinh, từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn.
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng thơ Tố Hữu trong dạy học lịch sử ở

trường THPT
* Vai trò việc sử dụng thơ Tố Hữu trong dạy học lịch sử ở trương THPT
Thơ Tố Hữu luôn đi sát các vấn đề chính trị, thời sự nóng bỏng của dân
tộc, vì vậy thơ ông có mối liên hệ khăng khít với lịch sử. Việc kết hợp thơ Tố
Hữu vào quá trình giảng bài học lịch sử trên lớp sẽ tác động mạnh vào cảm xúc
17
và hứng thú học tập của học sinh hơn. Trong quá trình dạy học lịch sử ở trường
THPT, một số sự kiện, nhân vật, hiện tượng lịch sử cần phải khắc sâu cho học
sinh; nếu sử dụng kèm theo một số câu thơ liên quan của tác giả thì bài giảng sẽ
sinh động, giờ học sẽ gây được hứng thú cho các em.
* Ý nghĩa việc sử dụng thơ Tố Hữu trong dạy học lịch sử ở trường THPT
- Về kiến thức: Thơ Tố Hữu có ý nghĩa quan trọng trong việc khắc sâu
kiến thức cơ bản và cụ thể hóa kiến thức lịch sử cho học sinh.
Kiến thức cơ bản là “kiến thức tối ưu cần thiết cho việc hiểu biết của học
sinh về lịch sử (thế giới và dân tộc). Nó gồm nhiều yếu tố: sự kiện lịch sử, các
niên đại, địa danh lịch sử, nhân vật lịch sử, các biểu tượng, khái niệm lịch sử,
các quy luật, nguyên lý, phương pháp học tập, vận dụng kiến
thức…”[23;tr.144]. Việc nắm được kiến thức cơ bản của một bài học cụ thể
quyết định tới việc nắm được nội dung của bài.
Mặt khác, lịch sử luôn gắn liền với sự kiện, nhân vật, thời gian, không
gian… cụ thể. Để khắc phục tình trạng khó nắm bắt và hiện đại hóa ịch sử, giáo
viên sử dụng thơ Tố Hữu giúp học sinh biết lịch sử diễn ra một cách cụ thể,
chính xác, sinh động và hấp dẫn. Từ đó, giáo viên giúp học sinh hứng thú, hấp
dẫn hơn đối với kiến thức và bộ môn lịch sử.
Ví dụ khi dạy bài 23 “Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền
Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)”, giảng mục III – phần
2_“Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975”, khi dạy hết các chiến dịch lớn
của quân dân ta, giáo viên đọc cho học sinh đoạn thơ sau của Tố Hữu:
“Chặt Buôn Mê Thuột, rụng cả Tây Nguyên
Quét Huế - Thừa Thiên, đổ nhào Đà Nẵng

Và Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên
Và Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Nha Trang
Lũ ngụy cuống cuồng, rũ rượi một màu cờ tang trắng”
(Toàn thắng về ta)[38;tr.263].
Sử dụng đoạn thơ trên của Tố Hữu kết hợp vào giảng bài, giáo viên đã lựa
chọn kiến thức cơ bản về diễn biến chính của cuộc Tổng tiến công Xuân năm
1975 và cụ thể cho học sinh từng địa điểm, vị trí giành chiến thắng của quân ta
trên chiến trường. Như vậy, chỉ bằng một số câu thơ, giáo viên đã cụ thể hóa cả
18
một sự kiện lịch sử lớn, thông qua đây, các em sẽ tiện theo dõi và nắm bắt các
sự kiện hơn.
- Về thái độ:
Tài liệu thơ có ưu thế lớn trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ
cho học sinh vì thơ là những sáng tác trên cơ sở những ngôn từ chau chuốt, âm
điệu, hình ảnh sinh động. Nếu giáo viên biết cách khai thác, lồng ghép thơ Tố
Hữu một cách linh hoạt, hấp dẫn vào trong các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch
sử được nhắc tới trong nội dung bài học thì rất dễ tác động vào thái độ, tư tưởng
của các em, hình thành nên thái độ, cảm xúc đúng đắn.
Thơ Tố Hữu góp phần vào hình thành thái độ biết ơn, khâm phục đối với
những chiến sĩ hy sinh vì Tổ quốc; đồng thời lên án tội ác của bọn đế quốc, tay
sai.
Ví dụ dạy bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2 – 9 –
1945 đến trước ngày 19 – 12 – 1946”, giảng mục III – phần 1_“Kháng chiến
chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam bộ”, khi giáo viên muốn nhấn
mạnh tới quyết tâm chống Pháp tới cùng của Đảng và Chính phủ, giáo viên sử
dụng câu thơ sau để minh họa:
“Quyết hy sinh phá tan hết gông xiềng
Cho tổ quốc muôn muôn năm độc lập”
(Quyết hy sinh)[38;tr.34]
Qua việc sử dụng này, giáo viên đã cho học sinh thấy được ý chí quyết

tâm không sợ hy sinh của các chiến sĩ cộng sản vì độc lập của Tổ quốc, thông
qua đó giáo dục cho học sinh thái độ biết ơn và kính trọng sự hy sinh đó của thế
hệ đi trước.
Hay khi dạy bài 21 “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh
chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 – 1965), giảng
mục III – phần 2_“Phong trào “Đồng khởi” (1959 – 1960)”, để học sinh có thái
độ đúng đắn đối với bọn đế quốc và chính quyền Diệm tay sai, giáo viên đọc
đoạn thơ:
“Thảm lắm anh à. Lũ ác ôn
Giết cả trăm người, trong một sáng
Máu tươi lênh láng đỏ đường thôn”
(Lá thư Bến Tre)[38;tr.157]
19
Với phần giảng về tội ác của Mĩ ngụy ở phần nội dung bài học, khi giáo
viên sử dụng minh họa thêm đoạn thơ này, học sinh sẽ được khắc sâu một lần
nữa về tội ác của kẻ thù đối với nhân dân. Học sinh biết được hành động dã man
và bản chất xâm lược của đế quốc, điều này sẽ tạo hứng thú cho các em tìm hiểu
tiếp nội dung của bài học.
- Kỹ năng:
Việc sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử ở trường THPT có ý nghĩa
góp phần quan trọng vào việc phát triển kỹ năng nhận thức của học sinh như
phát triển tư duy nhận thức, kỹ năng phân tích, so sánh, tổng hợp… và kỹ năng
liên hệ thực tiễn.
“Tư duy nhận thức bao giờ cũng được tiến hành trên cơ sở sự hiểu biết
cụ thể, chính xác về con người, sự việc. Để nhận thức đúng cần phải so sánh
nhưng không phải là sự so sánh nói chung mà phải so sánh các sự vật, những
hiện tượng, con người nhất định. So sánh cùng với trừu tượng hóa, phân tích,
tổng hợp…”[23;tr.117]. Khi giáo viên muốn sử dụng thơ Tố Hữu để phát triển
kỹ năng tư duy nhận thức cho học sinh, khi sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy học,
giáo viên kết hợp cùng câu hỏi nhận thức.

Ví dụ, để phát triển năng lực tư duy nhận thức cho học sinh, khi dạy mục
III – phần 1_“Hội nghị Giơnevơ” bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”, giáo viên sử dụng đoạn thơ sau:
“Đồng chí Phạm Văn Đồng

Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smit
Anh sẽ nói: “Thực dân, phát xít”
Đã tàn rồi!”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)[38;tr.88]
Kết hợp câu hỏi “Qua SGK và đoạn thơ trên, em hãy cho biết diễn biến
của Hội nghị Giơnevơ và chiến thắng Điện Biên Phủ có ý nghĩa gì đối với diễn
biến Hội nghị?”. Qua câu hỏi trên, giáo viên buộc học sinh phải suy nghĩ để tìm
ra câu trả lời. Như vậy, bằng việc theo dõi SGK và nghe thơ tìm hiểu kiến thức,
học sinh rèn cho mình kỹ năng độc lập học tập và cao hơn là tư duy nhận thức
vấn đề.
20
Mặt khác, qua việc phát triển các kỹ năng nhận thức, giáo viên giúp các
em vận dụng những kỹ năng đó vào cuộc sống thực tế; các em biết đánh giá,
nhận định một các có cơ sở hoạt động bản thân và xã hội trong thực tiễn.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Việc cải cách SGK lịch sử theo xu hướng giảm kênh chữ, tăng kênh hình
và hệ thống câu hỏi nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà
nước đã tạo điều kiện cho các giáo viên ở trường phổ thông sưu tầm và sử dụng
tài liệu tham khảo, trong đó có tài liệu thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử.
Qua điều tra tình hình thực tế dạy và học ở trường THPT, chúng tôi nhận
thấy tình hình sử dụng thơ Tố Hữu vào giảng dạy lịch sử hiện nay như sau:
1.2.1. Về phía giáo viên
Để khảo sát việc dạy học lịch sử nói chung, sử dụng thơ Tố Hữu trong
dạy học lịch sử nói riêng, qua đợt thực tập sư phạm, chúng tôi đã tiến hành điều
tra bằng hình thức câu hỏi qua phiếu trắc nghiệm đối với toàn bộ giáo viên giảng

dạy lịch sử ở trường THPT Xuân Mai (Chương Mỹ - Hà Nội). Nội dung điều tra
của chúng tôi xoay quanh vấn đề về nhận thức, về mức độ, về hình thức, phương
pháp sử dụng và những khó khăn khi sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử ở
trường THPT.
Qua điều tra, chúng tôi nhận thấy nhiều giáo viên đã có sự cố gắng đổi
mới phương pháp dạy học lịch sử, biết kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để
giờ học đạt hiệu quả nhất, trong đó, giáo viên đã ý thức được vai trò của tài liệu
tham khảo văn học nói chung, thơ Tố Hữu nói riêng để gây hứng thú học tập cho
học sinh.
Cụ thể kết quả chúng tôi thu nhận được như sau:
Điều tra về nhận thức của giáo viên, chúng tôi đưa ra câu hỏi “Thầy (cô)
cho rằng việc sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử ở trường THPT có cần
thiết không?”, có 100% giáo viên bộ môn của trường THPT Xuân Mai cho rằng
cần thiết. Vì các thầy cô đều thấy bản thân thơ Tố Hữu lấy cảm hứng từ hiện
thực xã hội, phản ánh chân thực hiện thực dân tộc lúc đó. Cho nên thơ Tố Hữu
có mối quan hệ mật thiết với lịch sử. Sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử sẽ
làm cho bài học có sức hấp dẫn, sinh động hơn, tạo hứng thú đối với học sinh.
Đồng thời, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên. Vì
21
vậy, nhiều giáo viên lâu năm, có tâm huyết với nghề đã đầu tư thời gian tìm tòi,
sưu tầm và sử dụng thơ Tố Hữu, góp phần nâng cao hứng thú học tập bộ môn
cho học sinh.
Điều tra về các hình thức sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử của
giáo viên, chúng tôi đưa ra câu hỏi “Các hình thức sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy
học lịch sử ở trường THPT của thầy (cô) là?”, 100% giáo viên bộ môn được
phát phiếu của trường cho rằng có thể sử dụng cùng với rất nhiều phương pháp
như tường thuật, miêu tả, giải thích, vào kiểm tra hoạt động nhận thức và củng
cố kiến thức cho học sinh… Điều đó tạo nên sự linh hoạt, phù hợp với nội dung
từng bài giảng lịch sử, từng sự kiện, hiện tượng lịch sử cụ thể. Đồng thời, sử
dụng phương pháp như vậy còn có tác dụng phát huy được tính độc lập, sáng tạo

trong tư duy của học sinh, tạo điều kiện cho các em tích cực, chủ động lĩnh hội
kiến thức.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên, việc sử dụng thơ Tố Hữu
vào dạy học lịch sử của giáo viên còn nhiều hạn chế, thể hiện ở mức độ và hình
thức chủ yếu sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy học.
Về mức độ sử dụng thơ Tố Hữu trong dạy học lịch sử, qua điều tra tình
hình sử dụng tài liệu thơ Tố Hữu của tất cả giáo viên dạy lịch sử ở trường THPT
Xuân Mai, chúng tôi đưa câu hỏi “Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông,
thầy (cô) đã sử dụng tài liệu thơ Tố Hữu vào giảng dạy ở mức độ nào?”. Kết
quả như sau: Có 5% chưa sử dụng, 35% thường xuyên sử dụng và 60% thỉnh
thoảng mới sử dụng. Trong khi đó, giáo viên chỉ chủ yếu sử dụng thơ Tố Hữu
vào miêu tả, minh họa cho kiến thức bài học chứ chưa kết hợp với các phương
pháp dạy học khác.
Để tìm hiểu về nguyên nhân mức độ sử dụng thơ, chúng tôi tiếp tục đưa ra
câu hỏi “Theo thầy (cô), điều khó khăn nhất khi sử dụng thơ Tố Hữu vào giảng
dạy lịch sử ở trường phổ thông là gì?”, nguyên nhân các thầy cô đưa ra chủ yếu
là do: thiếu nguồn tài liệu, không có thời gian sưu tầm, do thời lượng của một
tiết học quá ít mà khối lượng kiến thức của bài học lại quá dài.
Như vậy, thực tế cho thấy việc sử dụng thơ Tố Hữu trong dạy học lịch sử
đã có nhiều giáo viên ý thức được tầm quan trọng và tác dụng nhằm gây hứng
22
thú học tập cho học sinh, xong do nhiều nguyên nhân mà việc sử dụng biện pháp
dạy học này vào giảng dạy của các thầy cô còn nhiều hạn chế. Vì vậy, vấn đề đặt
ra là phải có nhận thức đúng và có phương pháp sử dụng thơ Tố Hữu hợp lí để
việc dạy học lịch sử đạt hiệu quả cao hơn.
1.2.1. Về phía học sinh
Trong đợt thực tập vừa qua, chúng tôi cũng đã tiến hành điều tra học sinh
về thực tiễn sử dụng thơ Tố Hữu trong dạy học lịch sử hiện nay ở trường THPT
bằng phương pháp câu hỏi qua phiếu trắc nghiệm. Chúng tôi đã tiến hành phát
200 phiếu điều tra tình hình học tập lịch sử và 89 phiếu thực nghiệm cho học

sinh một số lớp 12 trường THPT Xuân Mai với nội dung điều tra là tìm hiểu
nhận thức của học sinh về bộ môn, thực trạng việc học lịch sử, mức độ giáo viên
sử dụng thơ Tố Hữu và kết quả thực nghiệm thu được về nhận thức tâm lý và
nhận thức kiến thức của học sinh.
Sau khi tiến hành điều tra, kết quả chúng tôi thu được cụ thể như sau:
Đầu tiên chúng tôi đưa ra các câu hỏi trắc nghiệm về nhận thức của các
em đối với bộ môn bằng câu hỏi “Ở trường em, em và các bạn quan niệm như
thế nào về môn lịch sử?”, gần như 100% các em được hỏi đều cho biết quan
niệm của mình đây là một môn khô khan, khó học, khó nhớ và không có lợi ích
gì khi học. Bên cạnh đó, các em cũng cho thấy rằng học sinh hiện nay không
thích học lịch sử, chỉ học môn này khi được thông báo là môn thi tốt nghiệp.
Qua thực trạng nhận thức về bộ môn trên, chúng ta thấy được ở bộ phận lớn học
sinh hiện nay không coi trọng và thờ ơ với bộ môn lịch sử.
Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều lí do, xong một nguyên nhân
quan trọng về phía bản thân giáo viên giảng dạy là chưa biết khơi gợi được hứng
thú học tập bộ môn của các em. Hầu hết các giáo viên mới chỉ dừng lại ở việc
cung cấp kiến thức trong SGK mà bản thân hiện thực lịch sử vốn rất khó nắm
bắt, giáo viên không có sự đầu tư, tìm hướng tích cực nhằm phát huy tính tích
cực của các em đồng thời gây hứng thú học tập để từ đó làm cơ sở cho việc nâng
cao hiệu quả học tập lịch sử.
Khi được hỏi “Thầy (cô) em có thường xuyên sử dụng thơ Tố Hữu để dạy
học lịch sử không?”, 76% được hỏi trả lời chưa bao giờ sử dụng, 21% trả lời
23
thỉnh thoảng sử dụng. Như vậy, ưu thế vận dụng thơ Tố Hữu vào giảng dạy lịch
sử rất lớn, tuy nhiên giáo viên chưa thực sự coi đây là tài liệu quan trọng hỗ trợ
cho việc giảng bài của mình, nhất là trong việc gây hứng thú học tập bộ môn.
Tuy nhiên, khi tiến hành thực nghiệm sử dụng giáo án có sự kết hợp với
thơ Tố Hữu, chất lượng giờ học cũng như hứng thú học tập của các em trong tiết
giảng được cải thiện rõ rệt. Hầu hết học sinh đều thấy hứng thú với tiết học này.
Khi chúng tôi đưa ra câu hỏi “Em có suy nghĩ gì về việc sử dụng thơ Tố Hữu

vào dạy học lịch sử ở trường THPT?”, 86% học sinh cho rằng rất cần thiết trong
việc gây hứng thú học tập bô môn lịch sử, chỉ một bộ phận nhỏ (12% ) cho rằng
không cần thiết phải sử dụng, quan trọng nhất vẫn là kiến thức lịch sử.
Bên cạnh mặt nhận thức tâm lí như vậy, còn về nhận thức kiến thức thì
100% số học sinh được phát phiếu điều tra đều trả lời đúng các câu hỏi nội dung
kiến thức lịch sử. Như vậy, với việc vận dụng thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử,
chất lượng tiết học đã được cải thiện hơn rất nhiều.
Như vậy, về lí luận cũng như thực tiễn, chúng ta có thể khẳng định rằng
việc sử dụng thơ Tố Hữu vào giảng dạy và học tập lịch sử sẽ làm cho bài học
thêm phong phú, sinh động, học sinh sẽ tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng,
khơi dậy tình yêu môn học của các em.
Tiểu kết chương 1
Giáo dục - đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu của nước ta và giáo
dục lịch sử là bộ phận quan trọng của giáo dục – đào tạo. Tuy nhiên, thực trạng
giáo dục lịch sử ở trường phổ thông đang có nhiều bất cập cần nhanh chóng giải
quyết.
Hiện nay, tình trạng chung trong cả nước là học sinh chán học, không
hứng thú với bộ môn lịch sử. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân và nếu tiếp
tục kéo dài sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chiến lược phát triển giáo dục
của Việt Nam trong tương lai. Để giải quyết thực trạng trên, nhiều biện pháp đổi
mới dạy và học đã được xây dựng và áp dụng trong thực tiễn. Với giá trị lịch sử
của mình, thơ Tố Hữu cũng được coi là nguồn tài liệu quan trọng bổ sung vào
các biện pháp đổi mới dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Là biện
24
pháp có ưu thế lớn trong việc gây hứng thú học tập cho học sinh khi ngôn ngữ
thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, vận dụng đơn giản, dễ dàng trong khi giảng bài.
Tuy nhiên, việc sử dụng thơ Tố Hữu vào dạy học lịch sử nhằm gây hứng
thú học tập lịch sử không thể sử dụng tùy tiện vì sẽ gây hiệu ứng ngược đối với
nhận thức của học sinh. Vì vậy, sử dụng thơ Tố Hữu phải được kết hợp những
biện pháp dạy học khác một cách hợp lí để có hiệu quả sư phạm tốt nhất.

Chương 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG THƠ TỐ HỮU NHẰM GÂY HỨNG THÚ
HỌC TẬP CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC BÀI “CUỘC KHÁNG CHIẾN
TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953 – 1954)”
2.1. Vị trí, mục tiêu và nội dung cơ bản của bài “Cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”
2.1.1. Vị trí
Lớp 12 THPT, phần lịch sử Việt Nam các em được học từ năm 1919 đến
nay và gồm có 5 chương. Trong đó bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)” nằm trong giai đoạn cả dân tộc cùng
nhau chống lại thực dân Pháp xâm lược. Đây là bài học lịch sử có vị trí quan
trọng trong khóa trình lịch sử Việt Nam. Nó cung cấp cho học sinh khối lượng
tri thức về thời kì lịch sử oai hùng của dân tộc. Qua đó, giáo dục cho học sinh
lòng yêu nước, thái độ căm thù chiến tranh, căm thù bọn giặc cướp nước; đồng
thời biết trân trọng công lao, xương máu của biết bao thế hệ cha anh, hình thành
cho các em ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với đất nước, quê hương mình.
Ngoài ra, trong bài 20 này, một số khái niệm của thời kì lịch sử hiện đại và các
kỹ năng của bộ môn như phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp… cũng được
hình thành.
2.1.2. Mục tiêu
- Về kiến thức:
+ Hiểu được âm mưu, hành động của Pháp – Mĩ thông qua kế hoạch
Navar.
+ Trình bày được diễn biến chính, ý nghĩa của cuộc tổng tiến công chiến
lược Đông Xuân (1953 – 1954) và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954).
+ Hiểu hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa hiệp định Giơnevơ về Đông
Dương.
25
+ Nêu và phân tích được nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc
kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

- Về kỹ năng:
+ Củng cố cho học sinh các kỹ năng về phân tích, đánh giá, tổng hợp và
biết tìm hiểu nguyên nhân, ý nghĩa của các sự kiện chính.
+ Rèn luyện cho học sinh kỹ năng sử dụng SGK, tài liệu tham khảo, thơ
của Tố Hữu, bản đồ…
- Về thái độ:
+ Giúp học sinh có thái độ đúng đắn trước âm mưu chiến tranh của kẻ thù,
mà cụ thể là Pháp và Mĩ; đồng thời cảm phục, biết ơn các anh hùng dân tộc đã
hy sinh để giành được chiến thắng.
+ Tự hào về những thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống Pháp và can thiệp Mĩ. Từ đó, củng cố lòng tin của các em vào sự lãnh đạo
của Đảng.
2.1.3. Nội dung
Bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953
– 1954)” gồm bốn mục lớn. Nội dung mỗi mục cung cấp cho học sinh khối
lượng kiến thức vừa đủ nhằm giúp học sinh nắm được những nét chính về tình
hình cách mạng nước ta thời kì này. Cụ thể:
Mục I –“Âm mưu mới của Pháp – Mĩ ở Đông Dương: Kế hoạch Nava”:
Nội dung chính của mục này là cung cấp kiến thức về hoàn cảnh ra đời và nội
dung chính của kế hoạch Nava do Pháp và Mĩ triển khai ở Đông Dương: Sau 8
năm tiến hành chiến tranh ở Việt Nam, thực dân Pháp ngày càng bị thiệt hại.
Trước tình thế đó, Mĩ can thiệp sâu vào Đông Dương, chuẩn bị từng bước thay
thế Pháp ở khu vực này. Để tiến hành âm mưu đó, Pháp được sự hậu thuẫn của
Mĩ đã đề ra kế hoạch Nava.
Mục II – “Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 và chiến
dịch Điện Biên Phủ năm 1954”: Mục II trình bày về chủ trương của Đảng ta
nhằm đối phó với kế hoạch Nava của địch, cụ thể trong việc triển khai cuộc Tiến
công và nổi dậy Đông – Xuân của ta, đặc biệt là chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ năm 1954 toàn thắng.
Mục III – “Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại

hòa bình ở Đông Dương”: Nội dung chính của mục xoay quanh vấn đề về hoàn

×