PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong nền văn minh tri thức của thế kỷ XXI. Thế
kỷ mà có sự tiến bộ không ngừng của khoa học - công nghệ, với những bước
phát triển vượt bậc. Để không bị tụt hậu, kịp thời nắm bắt những tri thức khoa
học - công nghệ tiên tiến, mỗi con người phải không ngừng học hỏi, vươn lên
tự hoàn thiện mình. Và hiện nay trong công cuộc xã hội hóa giáo dục ở Việt
Nam thì việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục là bài toán mà các nhà
quản lý, các nhà nghiên cứu đang đi tìm lời giải.
Giáo dục Đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu của mỗi dân tộc, là
nhân tố quyết định để phát huy tiềm năng, trí tuệ, năng lực sáng tạo của mỗi
người và của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Là động lực quan trọng để hoàn
thành sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Để nước ta có thể hòa nhập với sự phát triển chung của thế giới, sánh
ngang với các cường quốc Năm Châu đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải có
những đổi mới mạnh mẽ, nhanh chóng để đào tạo ra những con người có đủ
trình độ, năng lực sáng tạo, sự năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm và khả năng hội nhập để làm chủ đất nước trong tương lai.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng vị trí của công tác GDTC đối với thế hệ trẻ. Xem đó là
động lực quan trọng và khẳng định cần có chính sách chăm sóc giáo dục, đào
tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển hài hòa về các mặt thể chất, tinh thần, trí tuệ
và đạo đức.
Sức khỏe được xem như một bộ phận cấu thành của nền văn hóa. Đó là
một mặt quan trọng của chất lượng đời sống, là nguồn tài sản quý báu của
mỗi quốc gia, là sản phẩm phản ánh một cách khách quan thành tựu của nhiều
lĩnh vực khoa học, trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành Thể dục
Thể thao nói chung và ngành khoa học Thể dục Thể thao nói riêng.
1
Công tác Giáo dục Thể chất và hoạt động Thể dục Thể thao trong
trường học các cấp là một mặt quan trọng trong sự nghiệp Giáo dục và Đào
tạo, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng nhu cầu của đổi mới sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Giáo dục Thể chất trường học là quá trình sư phạm mà thông qua đó,
học sinh được trang bị kiến thức và kỹ năng để tự luyện tập suốt đời; là quá
trình góp phần chuẩn bị và rèn luyện cho sinh viên về phẩm chất đạo đức, ý
thức kỷ luật và lối sống lành mạnh; đào tạo thế hệ trẻ thành những lớp nguồn
lao động tương lai có tri thức, có thể lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ Quốc. Mặt khác cũng là môi trường thuận lợi và giàu tiềm năng để
phát hiện, bồi dưỡng nhân tài Thể thao cho đất nước.
Hoạt động học tập hay quá trình lĩnh hội tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ
xảo của học sinh, sinh viên là một hoạt động có tính chất đặc biệt, chịu sự chi
phối của nhiều yếu tố trong đó tính tích cực học tập là một trong những yếu tố
đóng vai trò quyết định, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của người học.
Do đó phát huy tính tích cực của người học là góp phần đào tạo ra những cá
nhân có kiến thức vững vàng, có tư duy phản biện và thái độ tích cực trong
cuộc sống.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là trường trọng điểm của hệ thống
Giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, bồi dưỡng nhân tài cho hệ thống Giáo dục quốc dân và xã hội, là nhà
trường luôn đi đầu trong việc đổi mới phương pháp dạy và học trong chương
trình đào tạo, và là nhà trường đang tích cực hoàn thiện cơ chế tổ chức đào
tạo theo hệ thống tín chỉ.
Tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ có nhiều ưu việt hơn so với
phương thức đào tạo theo niên chế, yêu cầu cao về khả năng tự học, tự ngoại
2
khóa, của sinh viên. Thông qua đó phát huy tính tích cực, chủ động của người
học, tạo nên hứng thú trong học tập, phát huy mọi năng lực về thể chất, trí tuệ,
sự nỗ lực ý chí để đạt được kết quả cao trong học tập.
Thực tiễn đào tạo theo học chế tín chỉ nhấn mạnh yêu cầu tự học, tự
khám phá ở sinh viên với thái độ tự giác và tính tích cực cao. Có thể nói chất
lượng và hiệu quả của nhà trường, của hệ thống Giáo dục Đại học được quyết
định bởi năng lực tiêu biểu đó của người học. Không những thế năng lực tự
học, nhu cầu tự học của sinh viên là một trong những mục tiêu và là sản phẩm
của Giáo dục Đại học cần vươn tới.
Một trong những đặc trưng của đào tạo chuyên ngành Giáo dục Thể
chất là truyền thụ và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về kỹ thuật các môn Thể thao
của thầy và trò. Đây là quá trình đòi hỏi không chỉ về yếu tố thời gian, mà còn
là sự khổ luyện với nỗ lực ý chí cao của sinh viên. Vì vậy, tự học và tích cực
rèn luyện ngoài giờ lên lớp của sinh viên càng trở thành yếu tố quyết định
chất lượng dạy và học của mỗi nhà trường.
Đối với sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, vấn đề tích cực trong hoạt động ngoại khóa các môn thể thao càng có ý
nghĩa quan trọng và thiết thực. Bởi lẽ sự tích cực tham gia và tổ chức các hoạt
động ngoại khóa, không chỉ đem lại kết quả cao trong quá trình học tập mà
còn góp phần hình thành ở sinh viên bản lĩnh và thói quen tự rèn luyện, ý thức
trách nhiệm đối với quá trình tự đào tạo.
Song thực tiễn cho thấy, kết quả của Khoa Giáo dục Thể chất trường
Đại học Sư phạm Hà Nội đạt được chưa cao, do sinh viên chưa nhận thức
được tầm quan trọng của hoạt động ngoại khóa trong quá trình đào tạo. Vì
vậy cần phải có biện pháp để thúc đẩy và tích cực hóa quá trình tự học, tự
luyện tập ngoại khóa của sinh viên, coi đó là động lực để giúp sinh viên hoàn
3
thành chương trình đào tạo với chất lượng cao. Xuất phát từ lý do trên, tôi
nghiên cứu đề tài: “Biện pháp nâng cao tính tích cực trong hoạt động
ngoại khóa các môn thể thao của sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất
trường Đại học Sư phạm Hà Nội”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Góp phần nâng cao chất lượng học tập của sinh vên Khoa Giáo dục Thể chất .
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tính
tích cực trong hoạt động ngoại khóa các môn thể thao của sinh viên Khoa
Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ 2: Đề xuất và ứng dụng biện pháp nâng cao tính tích cực
trong hoạt động ngoại khóa các môn thể thao của sinh viên Khoa Giáo dục
Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Kết quả học tập các môn thể thao thuộc chương trình đào tạo của sinh
viên Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà Nội còn nhiều hạn
chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là do sinh viên
chưa tích cực học tập và rèn luyện ngoại khóa.
Thực trạng đó có thể được khắc phục hiệu quả nếu có những biện
pháp nâng cao tính tích cực của sinh viên trong hoạt động ngoại khóa các
môn thể thao.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp nâng cao tính tích cực trong
hoạt động ngoại khóa các môn thể thao của sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất
trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
5.2. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động học tập của sinh viên Khoa
Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
4
6. Phạm vi nghiên cứu
- Tổng quan những vấn đề liên quan đến hoạt động tự học, tự rèn luyện
của sinh viên trong quá trình được đào tạo.
- Đánh giá thực trạng hoạt động ngoại khóa các môn thể thao của sinh
viên Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Thực trạng tính tích cực của sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất trường
Đại học Sư phạm Hà Nội trong hoạt động ngoại khóa các môn thể thao.
- Xác định nguyên nhân và các yếu tố chi phối tính tích cực của sinh
viên Khoa Giáo dục Thể chất trong hoạt động ngoại khóa các môn thể thao.
- Lựa chọn biện pháp nâng cao tính tích cực của sinh viên Khoa Giáo
dục Thể chất trong hoạt động ngoại khóa các môn thể thao.
- Ứng dụng và đánh giá hiệu quả các biện pháp lựa chọn.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu:
7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Đây là phương pháp được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. Thông
qua đọc, phân tích, tra cứu các văn bản của Đảng và Nhà nước, văn bản pháp quy
của Bộ Giáo dục và Đào tạo về công tác Giáo dục Thể chất…làm cơ sở luận cứ,
luận chứng cho vấn đề nghiên cứu. Những vấn đề thu thập được sẽ là cơ sở khoa
học cho việc tìm kiếm và xác định các biện pháp có hiệu quả nhằm nâng cao tính
tích cực trong hoạt động ngoại khóa các môn Thể thao của sinh viên Khoa Giáo
dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
7.2. Phương pháp phỏng vấn tọa đàm
Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp và phiếu phỏng vấn
đối với:
- Chuyên gia giáo dục và cán bộ quản lý giáo dục
5
- Giáo viên Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà nội
- Sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Nhằm thu thập thông tin về các vấn đề:
- Thực trạng tính tích cực tập luyện ngoại khóa các môn thể thao của
sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- Nhu cầu tập luyện ngoại khóa của sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất
- Bước đầu khảo nghiệm tính khoa học và tính khả thi của các biện
pháp đề xuất.
7.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Nhằm thu thập thông tin về các vấn đề:
- Thực trạng tính tích cực rèn luyện hoạt động ngoại khóa các môn thể
thao của sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- Các yếu tố chi phối tính tích cực của sinh viên trong học tập
- Hình thức tổ chức hoạt động tự học, tự ngoại khóa
- Hiệu quả hoạt động ngoại khóa.
Thông qua đó làm cơ sở để:
- Đánh giá thực trạng về tính tích cực của sinh viên trong tập luyện
ngoại khóa các môn thể thao
- Nghiên cứu và đề xuất biện pháp nâng cao tính tích cực của sinh
viên trong hoạt động ngoại khóa các môn thể thao trong quá trình học tập
tại trường.
7.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Là phương pháp ứng dụng các biện pháp nâng cao tính tích cực của
sinh viên trong quá trình tự học tập, tự rèn luyện kỹ năng các môn thể thao.
Thông qua thực tiễn của quá trình đào tạo tại nhà trường
Kết quả thu được từ quá trình thực nghiệm là cơ sở để đánh giá tính
khoa học, tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp được lựa chọn.
6
7.5. Phương pháp toán học thống kê
Sử dụng phương pháp toán học thống kê trong việc xử lý các số liệu
thu thập được là điều kiện để chứng minh tính khách quan và độ tin cậy của
hoạt động nghiên cứu.
- Đề tài sử dụng công thức tính tỷ lệ %.
Tỷ lệ % = x 100%
Trong đó: m là tần số quan sát
n là tổng số các đơn vị tập hợp thống kê.
- Công thức tính nhịp tăng trưởng (W) (Theo công thức của S. Brody - 1927)
W =
2 1
1 2
100(V V )
0,5(V V )
−
+
(%)
Trong đó: V
1
- Kết quả đo lần trước TN
V
2
- Kết quả đo lần sau TN
8. Những đóng góp mới của đề tài
- Đánh giá được thực trạng tính tích cực trong hoạt động ngoại khóa
các môn thể thao của sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
- Xác định được nguyên nhân và những yếu tố ảnh hưởng đến tính tích
cực của sinh viên trong quá trình đào tạo Giáo dục Thể chất của nhà trường.
- Đưa ra các biện pháp nâng cao tính tích cực trong hoạt động ngoại
khóa các môn thể thao của sinh viên Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học
Sư phạm Hà Nội.
9. Kế hoạch nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu
9.1. Thời gian nghiên cứu : Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng
8 năm 2013 đến tháng 5 năm 2014, chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Từ tháng 8/2013 - 12/2013. Nghiên cứu tài liệu, viết cơ
sở lý luận của đề tài, xây dựng kế hoạch học tập, tổ chức đánh giá vấn đề
nghiên cứu (giải quyết nhiệm vụ 1, nhiệm vụ 2 của đề tài).
7
m
n
- Giai đoạn 2: Từ tháng 12/2013 - 1/2014. Đọc và tham khảo tài liệu,
xây dựng đề cương nghiên cứu và bảo vệ đề cương nghiên cứu trước hội đồng
khoa học.
- Giai đoạn 3: Từ tháng 1/2014 - 5/2014. Xử lý số liệu viết và hoàn
thành khóa luận, bảo vệ khóa luận trước hội đồng khoa học.
9.2. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tại Khoa Giáo dục Thể chất trường Đại học Sư phạm
Hà Nội.
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí của đào tạo đại học trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước
1.1.1. Đặc điểm của đào tạo đại học
- Mục tiêu của đào tạo Đại học: là đào tạo người học có phẩm chất
chính trị, đạo đức có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực
hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe đáp ứng nhu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Đào tạo trình độ Đại học giúp SV nắm vững kiến thức chuyên môn và
có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và
giải quyết vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo.
Để thực hiện mục tiêu trên cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên, chất lượng tuyển sinh, chất lượng chương trình, nội dung và hình thức tổ
chức đào tạo Đại học. Đồng thời với việc tổ chức quản lý giáo dục Đại học
bằng cơ chế kiểm định chất lượng, với hệ thống văn bản pháp quy xác định
tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình đào tạo trên cơ sở khoa học thống nhất.
Công nghệ hóa quá trình đào tạo bằng việc đưa công nghệ thông tin vào các
trường Đại đại học phục vụ đào tạo tự học và NCKH. Với những trang thiết bị
kỹ thuật dạy học hiện đại vào việc thiết kế bài giảng theo quy trình công nghệ,
đã tạo ra các Module để tổ chức cho người học nắm vững kiến thức và rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp thông qua hệ thống các tư liệu, bài giảng điện tử
trên mạng Internet. Phát huy vai trò tự giác, tích cực, sáng tạo của người học
tiếp cận quan điểm “dạy học lấy người học làm trung tâm”, sử dụng phương
pháp dạy học tích cực và đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học nhằm
phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của người học đây là cốt lõi của phương
pháp dạy học mới để trang bị cho SV năng lực tự học, tự nghiên cứu, rèn
luyện tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn
9
Để đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực có trình độ cao, quá trình đào tạo ở
các trường Đại học đã và đang gắn chặt giữa NCKH với thực tiễn. Trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực của mỗi trường việc trang bị kiến thức tự học, tự
NCKH của SV nhằm hình thành cho SV vốn hiểu biết cơ bản về phẩm chất
năng lực nghề nghiệp để họ có thể độc lập làm tốt công tác sau khi ra trường.
Mặt khác, không thể có chất lượng cao trong đào tạo Đại học nếu không tăng
cường tự học, tự nghiên cứu, rèn luyện phương pháp tư duy sáng tạo, năng
lực giải quyết vấn đề thực tiễn của SV.
- Đối tượng đào tạo: Đào tạo đại học là quá trình chuẩn bị nguồn nhân
lực có chất lượng cao cho các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Vì
vậy sinh viên được đào tạo, bao gồm học sinh đã tốt nghiệp THPT và thi đủ
điểm chuẩn theo qui định, những Thanh niên ưu tú về học vấn, có tri thức
vững vàng đủ điều kiện theo học Đại học. Sau khi hoàn tất giai đoạn đại
cương, sinh viên được đăng ký vào chuyên ngành này theo nguyện vọng.
Riêng đối tượng văn bằng 2 gồm những người đã tốt nghiệp đại học ở bất kỳ
chuyên ngành nào cũng được bắt đầu vào học từ giai đoạn chuyên ngành Tâm
lý giáo dục hoặc Quản lý giáo dục
- Đặc điểm của đào tạo đại học
Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học
đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành;
Là quá trình đào tạo ra các cử nhân tương lai cho đất nước, thuộc nhiều
chuyên ngành khác nhau. Với mục tiêu trang bị những kiến thức có liên quan,
phục vụ đắc lực cho nghề nghiệp sau này và nâng cao kỹ năng thực hành
nhằm xây dựng đội ngũ những người làm khoa học có phẩm chất chính
10
trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có trình độ cao, có đủ năng lực thực
hiện công tác chuyên môn và nghiên cứu khoa học trong chuyên ngành đào
tạo. Đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ của
Việt Nam.
Đào tạo đại học là hình thức đào tạo khác với đào tạo ở bậc học phổ
thông. Nếu như đào tạo phổ thông là trang bị cho học sinh những kiến thức cơ
bản trong sách vở thông qua việc thu nhận bằng sự giảng dạy của giáo viên và
sự tiếp thu của học sinh thì đào tạo Đại học lại đào tạo cho đất nước nguồn
lao động chất lượng cao, do vậy việc đào tạo ở bậc Đại học còn là quá trình
trang bị cho SV khả năng tự học, tự nghiên cứu. Để sau khi ra trường SV có
khả năng độc lập giải quyết những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực chuyên môn
của mình và tiếp tục học lên ở bậc sau Đại học.
Do phương pháp học tập ở trường đại học khác cơ bản so với phương
pháp học phổ thông, ở đại học không có sự kiểm tra hàng ngày của giáo viên
nên việc học tập của SV phần lớn là tự học. SV tự đề ra kế hoạch và tự thực
hiện kế hoạch. Các bài kiểm tra chính là kết quả học tập và nghiên cứu của
SV. Rất nhiều SV cho rằng 50% kiến thức là tự học.
Việc tự học của SV đại học là hoạt động tự học diễn ra liên tục, trong
một phạm vi lớn nhằm lĩnh hội rất nhiều tri thức. Nếu như học sinh phổ thông
được giáo viên giao những bài tập nhất định về nhà thì SV đại học phải tự tìm
tòi tài liệu, chọn đọc tài liệu sao cho thích hợp với môn học và phải đảm bảo
tính khoa học trong công tác tự học mới đạt được hiệu quả tốt. Thêm vào đó,
việc tự học của SV đại học là sự nỗ lực cao, tính tự giác cao hơn học sinh phổ
thông, SV thực sự làm chủ thời gian, phải quan tâm đến chất lượng tự học của
bản thân để từ đó có phương hướng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho mình.
11
1.1.2. Vị trí của đào tạo đại học trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước
Giáo dục nước ta trong thập kỷ tới phát triển trong bối cảnh thế giới có
nhiều thay đổi nhanh và phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế và giáo
dục đã trở thành xu thế tất yếu khách quan. Cuộc cách mạng KHCN (Khoa
học công nghệ), công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức ngày
càng phát triển mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến sự phát triển của các nền giáo
dục trên thế giới nói chung và nền giáo dục Việt Nam nói riêng.
Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng.
Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa
các vùng miền ngày càng rõ rệt, gây nguy cơ dẫn đến sự thiếu bình đẳng trong
tiếp cận Giáo dục, gia tăng khoảng cách chất lượng Giáo dục giữa các vùng
miền và cho các đối tượng người học. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 – 2020 đã xác định rõ một trong ba đột phá là phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới
căn bản, toàn diện nền Giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng KHCN. Sự phát triển của đất nước trong
giai đoạn mới sẽ tạo ra nhiều cơ hội và thuận lợi to lớn, đồng thời cũng phát
sinh nhiều thách thức đối với sự nghiệp phát triển Giáo dục.
Đảng và Nhà nước đã luôn khẳng định phát triển Giáo dục là quốc sách
hàng đầu, đầu tư cho Giáo dục là đầu tư cho phát triển; Giáo dục vừa là mục
tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc tập trung nâng
cao chất lượng đào tạo ở các cấp học, đặc biệt là ở bậc đại học, cao đẳng gắn
liền với nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực giáo
dục là nhiệm vụ cấp thiết và khách quan. Giáo dục Đại học bao gồm đào tạo
trình độ từ cao đẳng trở lên với mục tiêu: là Đào tạo con người có phẩm chất
chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực
12
hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tào, có sức khỏe, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Đào tạo trình độ Đại học giúp SV nắm
vững kiến thức chuyên môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng
làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết các vấn đề thuộc chuyên ngành được
đào tạo với nguyên lý học đi đôi với hành, Giáo dục kết hợp với lao động và
sản xuất. Nó khác nhiều so với các bậc đào tạo trước đó, những kiến thức cơ
bản ở bậc phổ thông thiết thực hàng ngày, ở đây những kiến thức chuyên
môn, sâu rộng đặc trưng bởi việc tự học tự nghên cứu của SV.
Trong chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020, Thủ tướng Chính
phủ đã chỉ rõ mục tiêu cụ thể đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại
học. Đó là hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp và đại học; điều
chỉnh cơ cấu ngàng nghề và trình độ đào tao, nâng cao chất lượng đào tạo,
đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; đào tạo ra những con
người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và
kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ luật lao động, tác phong công
nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích ứng với những biến động
của thi trường lao động và một bộ phận có khả năng cạnh tranh trong khu vực
và thế giới.
Đến năm 2020, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đủ khả năng tiếp
nhận 30% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở; tỉ lệ lao động qua đào tạo
nghề nghiệp và đại học đạt khoảng 70%; tỷ lệ SV tất cả các hệ đào tạo trên
một vạn dân và khoảng 350 – 400. Với bậc đại học, để thực hiện mục tiêu này
cần nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo dục, cần phải đổi mới nội dung,
phương pháp giáo dục đại học, chuẩn hóa chương trình, giáo trình bậc đại
học, hệ thống cơ sở vật chất trang thiết bị nhà trường và đặc biệt là nguồn
chất lượng trong tuyển sinh được phân loại cụ thể, phù hợp với năng lực và
trình độ đáp ứng yêu cầu và xu thế phát triển của đất nước.
13
Giáo dục là nền tảng để phát triển CNH – HĐH (công nghiệp hóa – hiện
đại hóa) đất nước. Do đó tập trung nâng cao chất lượng đào tạo ở các cấp học,
đặc biệt là bậc đại học, cao đẳng gắn liền với nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý
nhà nước trong lĩnh vực giáo dục là nhiệm vụ cần thiết và khách quan.
Giáo dục đảm nhiệm công việc dạy người với bốn trọng tâm của “chiến
lược con người” ở thế kỷ thứ XXI:
- Thứ nhất: Học tri thức (con người có tri thức chuyên sâu, có trình độ
học vấn và trình độ văn hóa cao, có khả năng cống hiến).
- Thứ hai: Học cách làm việc (biết tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh
thần có chất lượng cao cho xã hội, sự năng động sáng tạo trong công việc).
- Thứ ba: Học cách tồn tại (để có khả năng thích nghi với nhịp điệu của
xã hội hiện đại trong môi trường sống rộng mở, phức tạp, đa chiều, nhất là
trong xu thế hội nhập hiện nay).
- Thứ tư: Học cách sống chung (có kiến thức về bản sắc riêng của từng
dân tộc, am hiểu văn hóa thế giới, đáp ứng xu thế quốc tế toàn cầu hóa con
người sống chung trong đối thoại hòa bình).
Điều đó đặt giáo dục trước những cơ hội vàng, song giáo dục cũng phải
chấp nhận những thách thức lớn lao của thời đại. Nếu không được đầu tư
đúng mức, khả năng đạt mục tiêu rất khó.
Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước và hội nhập quốc tế,
nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết
định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có
vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt
Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Điều này đòi hỏi giáo
dục phải có chiến lược phát triển đúng hướng hợp quy luật, xu thế và xứng
tầm thời đại.
14
Sau 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế
- xã hội, sự ổn định chính trị làm cho thế và lực nước ta mạnh lên nhiều so với
trước. Sự đóng góp về nguồn lực của nhà nước và nhân dân cho sự phát triển
giáo dục ngày càng được tăng cường.
Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học, công nghệ trên thế
giới có thể làm cho khoảng cách về kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các
nước ngày càng lớn hơn. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo ra cho giáo dục cơ
hội phát triển mà còn chứa đựng nhiều thách thức, đặc biệt là nguy cơ xâm
nhập của những giá trị văn hóa và lối sống xa lạ làm hao mòn bản sắc dân tộc.
Phát triển nền giáo dục cần dựa trên một hệ thống triết lý. Đó chính là
một hệ thống các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cần được vận
dụng một cách sáng tạo, phù hợp thực tiễn giai đoạn mới được trình bày trong
dự thảo chiến lược phát triển giáo dục 2009 – 2020 đó là:
- Giáo dục và Đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong
bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và động lực CNH - HĐH
đất nước.
- Phát triển nền giáo dục của dân, do dân, vì dân, là quốc sách hàng đầu.
- Giáo dục vừa đáp ứng yêu cầu của xã hội, vừa thỏa mãn nhu cầu phát
triển của mỗi cá nhân mang đến niềm vui học tập cho mỗi người và tiến tới
một xã hội học tập.
- Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và giáo dục phải dựa trên cơ sở bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng nền giáo dục giàu nhân
tài, tiên tiến, hiện đại.
- Phát triển dịch vụ giáo dục và các yếu tố cạnh tranh trong hệ thống
giáo dục là một trong những động lực phát triển giáo dục
- Giáo dục phải đảm bảo chất lượng tốt nhất trong điều kiện chi phí còn
hạn hẹp.
15
1.2. Đặc điểm của đào tạo theo hệ thống tín chỉ
Để giáo dục Việt Nam dần thu hẹp khoảng cách với nền giáo dục tiên
tiến trên thề giới, trong những năm gần đây Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào
tạo cũng đã chú trọng tới hình thức đào tạo theo tín chỉ. Thực chất của việc
đào tạo theo tín chỉ, người học vẫn phải hoàn thành một chương trình do Bộ
Giáo dục và Đào tạo cùng trường đào tạo quy định.
Đào tạo theo học chề tín chỉ là một trong bảy bước đi quan trọng trong
lộ trình đổi mới giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2010. Theo chủ
trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngay trong năm 2006-2007 các trường
phải tập trung triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ và phải hoàn thành vào
năm 2010.[2]
Phương thức đào tạo theo tín chỉ (học chế tín chỉ) là phương thức đào
tạo linh hoạt và mềm dẻo, trong đó SV chủ động lập kế hoạch và đăng ký học
tập, tích lũy từng phần kiến thức theo tiến độ phù hợp với năng lực và điều
kiện của bản thân và nhà trường nhằm hoàn tất chương trình đào tạo để được
cấp bằng tốt nghiệp.
Chương trình học được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến
thức: Giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. Chương trình học bao
gồm các học phần bắt buộc và các học phần tự chọn (học phần bắt buộc là
học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính yếu của mỗi chương
trình và bắt buộc sinh viên phải tích lũy). Học phần tự chọn là học phần chứa
đựng những nội dung kiến thức cần thiết, nhưng sinh viên được lựa chọn theo
hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hóa hướng chuyên môn hoặc tự chọn tùy
ý để tích lũy đủ số học phần theo quy định của mỗi chương trình). Tùy theo
khối lượng kiến thức ít hay nhiều mà mỗi môn học được quy định số tín chỉ.
Tín chỉ là đơn vị quy chuẩn dùng để lượng hóa khối lượng kiến thức và
khối lượng học tập giảng dạy trong quá trình đào tạo. Khối lượng học tập gồm
16
1 tiết học lý thuyết (50 phút) trong một tuần lễ và kéo dài một học kỳ (15 – 18
tuần) thì được tính là 1 tín chỉ. Các tiết học lọai khác như: thực hành, thí
nghiệm, thực địa, thể dục,… thì thường có 3 tiết trong 1 tuần kéo dài một học
kỳ được tính một tín chỉ.Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo một tín
chỉ tương đương với 15 giờ học lí thuyết ở trên lớp, 30 giờ thực tập trong
phòng thí nghiệm, 45 - 60 giờ đi thực tập, thực tế, thực địa. Để học một giờ
tín chỉ sinh viên phải chuẩn bị trước khi lên lớp và tự học từ 2 - 4 giờ. Để
hoàn thành một tín chỉ thời gian đào tạo là 15 tuần. Như vậy với khái niệm
tín chỉ, không phải chỉ đơn thuần là khối lượng kiến thức giảng viên phải
chuyển tải cho sinh viên và sau đó được đo lường bằng kết quả thi của sinh
viên mà còn được đo lường bằng toàn bộ thời gian tự học của sinh viên (tự
học bài mới trước khi lên lớp, tự học chủ động ngay trên lớp dưới sự hướng
dẫn của giảng viên, tự học sau khi lên lớp ở nhà và tự học trong giờ thảo luận
nhóm dưới sự hướng dẫn của giảng viên).
Trong đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải tự đăng ký lịch học, sinh viên
không đăng ký sẽ không có lịch học.
Để sinh viên tự học tốt và tự nhận thức được các vấn đề khoa học,
giảng viên ngoài nhiệm vụ chuyển tải kiến thức cho sinh viên còn dành phần
lớn thời gian và công sức vào việc hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho sinh viên sẽ
được giảng viên liên tục định hướng, uốn nắn, đánh giá trong suốt quá trình
học tập. Trong đào tạo theo tín chỉ sẽ giảm áp lực thi hết môn cho sinh viên
và dần thay thế bằng đánh giá sinh viên trong quá trình học tập. Vấn đề không
phải ở chỗ sinh viên có thuộc lòng giáo trình hay không mà chủ yếu đánh giá
thái độ chuyên cần tham gia xây dựng bài học, khả năng vận dụng lí thuyết
vào thực tiễn, khả năng thực hành tay nghề, lòng ham hiểu biết, say mê
nghiên cứu môn học, khả năng học hiểu thấu đáo, đào sâu đến tận gốc rễ
của từng vấn đề, học tập theo hướng nghiên cứu. Tín chỉ cũng là một phần
17
kiến thức tương đối hoàn chỉnh cần phải trang bị cho sinh viên để làm nền
tảng cho các học phần về sau hoặc là những kiến thức không thể thiếu để
phục vụ nghề nghiệp của sinh viên sau này nên mỗi tín chỉ luôn phải có
mục tiêu, mục đích rõ ràng, nên kiên quyết cắt bỏ những phần kiến thức
trùng lặp (một nội dung do nhiều bộ môn giảng dạy) hoặc không cần thiết
cho sinh viên để giảm tải chương trình từ đó có thời gian và điều kiện rèn
luyện khả năng tự học, kỹ năng thực hành tay nghề cho sinh viên.
1.2.1. Về chương trình đào tạo
Một trong những điểm mấu chốt, quan trọng nhất trong xây dựng
chương trình trong đào tạo theo học chế tín chỉ là các chương trình đào tạo có
tính liên thông cao, là đào tạo tiềm năng.
Một chương trình giáo dục đại học bao giờ cũng có khối kiến thức đại
cương (Toán, hóa, sinh ) và các môn chung như Mác - Lênin, ngoại ngữ, tin
học Các môn học này cần được xây dựng trên một nền chung đáp ứng cho
tất cả các ngành đào tạo trong một lĩnh vực đào tạo nhất định. Việc tổ chức
xây dựng chương trình có tính liên thông cao như vậy sẽ đào tạo cho sinh viên
một tiềm năng lớn và sinh viên có khả năng học liên thông các ngành trong
cùng một lĩnh vực.
Khi đã xây dựng được chương trình có tính liên thông cao, liên thông
ngang giữa các ngành trong cùng một khối và liên thông dọc từ cao đẳng
lên đại học thì sinh viên rất có điều kiện để học cùng một lúc nhiều ngành
và trong một thời gian nhất định có thể phấn đấu học được hai hoặc ba
bằng đại học.
Để chuyển đổi sang hình thức đào tạo theo tín chỉ, Bộ GD và ĐT đã
quy định chuyển đổi chương trình đào tạo theo niên chế sang chương trình
đào tạo theo tín chỉ theo tỷ lệ: cứ 1 đơn vị học trình quy đổi thành 1 tín chỉ.[3]
18
Trong đào tạo theo tín chỉ, thời gian có mặt trên lớp giảm đi 1/2 thay vào
đó là thời gian tự học. Theo quy định cứ 1 tín chỉ SV phải tự học là 30 tiết.
Trong đào tạo theo tín chỉ yêu cầu về chuẩn đào tạo không hề thay đổi, trước mắt
vẫn giữ nguyên và dần dần sẽ tăng lên theo yêu cầu của công tác thẩm định chất
lượng. Như vậy thời gian giảng dạy trên lớp giảm đi, thời gian tự học của SV
tăng lên trong khi không được giảm yêu cầu trong kiểm tra và đánh giá kết quả
học tập của các môn học. Vì thế để đảm bảo chất lượng cần đổi mới phương
pháp giảng dạy như: phương pháp dạy học tích cực, phương pháp tăng dần yêu
cầu…Các phương pháp giảng dạy trong đào tạo theo niên chế vẫn tiếp tục được
phát huy các điểm mạnh, nhưng việc SV phải tích cực trong giờ học được đặt lên
hàng đầu. Để đáp ứng được yêu cầu này SV phải nghiên cứu tài liệu trước khi
lên lớp, giảng viên phải tăng cường cho SV học ngay trên lớp bằng các biện
pháp như đặt ra giả thuyết yêu cầu SV tìm ra cách giải theo định hướng của giáo
viên để từ đó hình thành thói quen tự học cho SV.[3]
Trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ, 1 tín chỉ tương đương 1 đơn vị học
trình về số tiết (15 tiết), một tiết trong đào tạo tín chỉ bằng 50 phút. Quá trình
chuyển đổi từ niên chế sang học chế tín chỉ có biến chuyển quan trọng: Tổng
thời lượng dành cho chương trình đào tạo giảm 1/3 số tiết, thay vào đó là yêu
cầu tự học của SV tăng lên. Sự thay đổi đó đòi hỏi có sự thay đổi căn bản về
tổ chức đào tạo và tổ chức giờ học. Trong đó giáo viên đóng vai trò là người
chỉ đạo, định hướng và đặt ra các yêu cầu học tập để SV tìm tòi, nghiên cứu,
phát huy năng lực tự học của bản thân.
Như vậy việc tiếp tục giảng dạy bằng phương pháp một chiều không
còn phù hợp nữa. Nếu giảng viên cùng với các phương tiện hỗ trợ giảng dạy
như máy tính xách tay, kế hoạch…sẽ tăng tốc độ giảng lên 2 lần để cho không
bị “cháy giáo án” thì SV sẽ bị quá tải về thông tin và không phân biệt được
các vấn đề chính, vấn đề phụ của bài giảng, từ đó không hiểu bài, không hiểu
bản chất của vấn đề, dẫn đến chất lượng học tập của SV sẽ bị giảm sút. Đây là
vấn đề rất lớn của các trường khi chuyển sang đào tạo theo tín chỉ.
19
Hoặc do giáo viên quá đề cao hiệu quả học bài trước ở nhà rồi, lên lớp
chỉ giảng những vấn đề khó và trả lời những thắc mắc của học sinh. Nếu theo
xu hướng này bài giảng sẽ không được trình bày theo giáo án và sự tự học của
SV không đồng đều cũng không đạt được hiệu quả trong đào tạo.
Phương châm giảng – dạy là học – hiểu, dưới sự hướng dẫn của giáo
viên, SV phải được tham gia vào từng vấn đề của bài giảng cho đến khi tất
cả các vấn đề của bài giảng được làm sáng tỏ, được giải quyết dưới sự
hướng dẫn của giảng viên để làm được vấn đề này đòi hỏi SV phải tự học
tự nghiên cứu.
1.2.2. Về tổ chức đào tạo
Trong đào tạo theo tín chỉ, sinh viên được quyền chủ động tự đăng ký
lịch học (trong khuôn khổ phù hợp với quy định của quy chế đào tạo) sinh
viên không đăng ký sẽ không có lịch học.
Để làm được việc đó đòi hỏi sinh viên phải có sự hiểu biết, tìm hiểu về
quy chế, nội quy của nhà trường, nắm vững chương trình đào tạo, các học
phần phải học trước, các học phần học song hành, phần kiến thức giáo dục đại
cương, phần kiến thức giáo dục chuyên nghiệp… để có thể có được đăng ký
lịch học cho từng học kỳ cho phù hợp (phù hợp ở đây là phù hợp với quy định
của nhà trường và phù hợp với sức học của sinh viên). Sinh viên đã phải tự
học các quy chế, quy tắc một cách thật sự. Ưu điểm của cách tổ chức này là
sinh viên có quyền lựa chọn, sinh viên không những được lựa chọn các môn
chính khóa của ngành được đào tạo mà còn có thể được đăng ký học thêm 1
số học phần tự chọn yêu thích hỗ trợ cho hướng phát triển ngành nghề sau
này. Trong thời gian học chính khóa có thể học thêm ngoại ngữ, tin học hoặc
học văn bằng 2.
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một
SV bình thường để học một môn cụ thể. Thời gian toàn phần bao gồm 3 thành
tố: thời gian lên lớp; thời gian làm bài tập, thực hành…; và thời gian dành
cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài.
20
Một giờ tín chỉ lên lớp bao gồm 1 tiết (50 phút) giáo viên giảng bài và 2
tiết sinh viên tự học, tự nghiên cứu ở nhà; một giờ tín chỉ thực hành bao gồm
2 tiết giáo viên hướng dẫn, điều khiển và giúp đỡ sinh viên thực hành, thực
tập và và 1 tiết sinh viên tự học, tự chuẩn bị; một giờ tín chỉ tự học bao gồm 3
tiết sinh viên tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành theo những nội dung giáo
viên giao và những gì sinh viên thấy cần phải nghiên cứu hoặc thực hành
thêm (những hoạt động học tập này có thể được thực hiện ở nhà hoặc ở trong
phòng thí nghiệm, trong studio, v.v.).[15]
Hình thức tổ chức giờ tín chỉ là cách thức tổ chức thực hiện các hoạt
động của giảng viên và SV ứng với cách tổ chức chương trình môn học, bài
học, trong đó coi trọng cả khâu tự học, năng lực nghiên cứu, thực tập, thực
hành, thực tế nhằm tích lũy đủ khối lượng kiến thức theo yêu cầu của phương
thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Dạy học trong đào tạo theo tín chỉ, vai trò người học được đặc biệt coi
trọng (dạy học lấy người học làm trung tâm, coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự
học, tạo điều kiên cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng
thực hành…). Hướng lấy người học làm trung tâm được quán triệt từ khâu thiết kế
chương trình, biên soạn nội dung giảng dạy và sử dụng phương pháp giảng dạy
nhằm hướng tới việc giảm bớt tính hàn lâm và tăng cường rèn luyện kỹ năng thực
hành (tăng số giờ thực hành, thảo luận, tự học…). Điều này giúp người học đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn của công việc sau khi ra trường.
1.2.3. Tính ưu việt của đào tạo theo hệ thống tín chỉ
Việc triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ có tác động tích cực đến
hoạt động đào tạo của các trường như: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lí, sử dụng hiệu quả các nguồn lực về cơ sở vật chất, đội ngũ
giảng viên, tạo sự mềm dẻo trong kế hoạch học tập của sinh viên, nâng cao
tính năng động của người học…
21
Học chế tín chỉ được truyền bá nhanh chóng và áp dụng rộng rãi nhờ có
nhiều ưu điểm sau:
- Có hiệu quả đào tạo cao
Học chế tín chỉ ghi nhận kịp thời tiến trình tích lũy kiến thức và kỹ
năng của SV để dẫn tới văn bằng. Với học chế này, SV được chủ động thiết
kế kế hoạch học tập cho mình; được quyền lựa chọn cho mình tiến độ học tập
thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh riêng của mình. Điều đó làm
cho quá trình đào tạo trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng tạo khả năng cho
việc thiết kế chương trình liên thông giữa các cấp và các ngành đào tạo khác
nhau. Do đó học chế này dễ đảm bảo cho việc chuyển từ đào tạo tinh hoa sang
đào tạo đại chúng.
- Có tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao
Nó cho phép SV có thể thay đổi ngành chuyên môn trong tiến trình học
tập khi thấy cần thiết mà không phải học lại tự đầu. Các trường cũng có thể
mở thêm ngành học một cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu nhu cầu của thị
trường lao động và SV.
Học chế tín chỉ cung cấp cho các trường đại học một ngôn ngữ chung, tạo
thuận lợi cho SV khi chuyển trường cả ở trong và ngoài nước (liên thông ngang).
- Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo
Có thể tổ chức những môn học chung cho SV nhiều khoa, nhiều
trường, tránh các môn học trùng lặp ở nhiều nơi. Do đó cho phép sử dụng
được đội ngũ giáo viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất cho từng môn học.
Có thể liên thông, chấp nhận kết quả tích lũy kiến thức của SV tự học
hoặc học ở những cơ sở khác ngoài cơ sở đào tạo.
1.2.4. Những hạn chế cơ bản của đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay
Bên cạnh những mặt tích cực, ưu điểm cũng cần phải thừa nhận rằng
hình thức đào tạo theo tín chỉ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Việc
22
chuyển đổi cơ học đơn vị đo khối lượng học tập và chương trình đào tạo từ
niên chế sang hệ thống tín chỉ chỉ ở hình thức, không thay đổi nhiều về nội
dung chương trình đào tạo. Mặt khác, hệ thống quản lý đào tạo theo tín chỉ
chưa đáp ứng yêu cầu (hạ tầng mạng, hệ thống thông tin và phần mềm quản lý
đào tạo). Về đội ngũ giảng viên, trợ giảng cũng như cơ sở vật chất chưa đáp
ứng yêu cầu đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Ngoài ra, cơ sở đào tạo và cơ quan
tuyển dụng lao động còn lúng túng trong việc tính và nhận diện điểm bằng số
và điểm bằng chữ.
Có thể thấy rằng, nếu các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng
viên được đảm bảo, đáp ứng được yêu cầu thì hình thức đào tạo này sẽ phát
huy được ưu điểm, nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao tính chủ động, sáng
tạo của sinh viên. Song để đáp ứng được các điều kiện trên cần sự chỉ đạo
thống nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo, sự chủ động của các trường trong quá
trình đào tạo.
Do đó có thể thấy được những hạn chế cơ bản của đào tạo theo hệ
thống tín chỉ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay gồm có:
- Cắt vụn kiến thức
Do các môđun trong học chế này được quy định tương đối nhỏ (cỡ 3
đến 4 tín chỉ) nên đôi khi không đủ thời gian để đảm bảo sự trọn vẹn một môn
học theo một trình tự liên tục. Khắc phục nhược điểm này, vào những năm
cuối, nhà trường thường tổ chức các môn học và các kỳ thi có tính tổng hợp
để SV có cơ hội liên kết, tổng hợp các kiến thức đã học.
- Khó tạo nên sự gắn kết trong SV
Vì các lớp học theo môđun không ổn định, khó xây dựng được các tập
thể gắn kết chặt chẽ như các lớp theo niên chế; sinh hoạt đoàn thể của SV có
khó khăn nghĩa là “khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng tính
cộng đồng”. Do đó phải sắp xếp kế hoạch học tập (thời khóa biểu) thật hợp lý.
23
1.3. Tầm quan trọng của hoạt động ngoại khóa trong đào tạo đại học
1.3.1 Khái niệm và phân loại hoạt động ngoại khóa
- Khái niệm:
Hoạt động ngoại khóa (HĐNK) là hình thức tổ chức dạy học ngoài giờ
lên lớp, là các hoạt động nằm ngoài chương trình học chính khóa, không quy
định bắt buộc trong chương trình, thường mang tính chất tự nguyện hơn là bắt
buộc. Người học có thể tham gia hoạt động ngoại khóa ở lớp, trường hoặc
ngoài xã hội với rất nhiều lựa chọn khác nhau: Thể thao, văn hóa, nghệ thuật,
tình nguyện… Hoạt động ngoại khóa đóng một vai trò quan trọng trong việc
bổ sung các kỹ năng và kinh nghiệm sống cho bạn, giúp bạn trở thành một
con người toàn diện và thú vị hơn.
Đặc điểm cơ bản của HĐNK: HĐNK được phân biệt với các hình thức
tổ chức dạy học khác bởi những nét chủ yếu sau:
+ HĐNK là hoạt động ngoài giờ lên lớp, không được quy định trong
chương trình nội khóa.
+ Là hoạt động của tự nguyện của cá nhân hay nhóm học sinh có cùng
hứng thú, sở thích, mối quan tâm về một vấn đề nào đó của nội dung học tập.
+ Khi tổ chức HĐNK giáo viên không trực tiếp hoạt động cùng học
sinh, nhưng phải là người hướng, tổ chức, tư vấn, giám khảo cho các trò chơi
và có thể trong nhiều trường hợp cần thiết còn là người chỉ đạo điều khiển các
hoạt động ngoài giờ học của học sinh.
+ Nội dung HĐNK thường liên quan với nội dung học tập trong
chương trình và phù hợp với hoàn cảnh của địa phương và đặc điểm của các
em tham gia hoạt động. Khi tổ chức HĐNK giáo viên không tổ chức kiểm tra,
đánh giá kết quả hoạt động ngoại khóa với các hình thức tương tự như giờ học
chính khóa.
24
- Phân loại hoạt động ngoại khóa
+ HĐNK có thể được tổ chức dưới nhiều dạng: tập thể, theo nhóm năng
khiếu, thường kì hay đột xuất nhân dịp kỉ niệm lễ hội. Ví dụ: cắm trại chào
mừng ngày 20 -11…
+ HĐNK có thể được tổ chức theo những hình thức như: câu lạc bộ
môn học, diễn đàn, hội thi, trò chơi…
+ HĐNK có thể do tổ bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh… và học sinh của một lớp, một khối lớp hay toàn
trường thực hiện.
1.3.2. Tầm quan trọng của hoạt động ngoại khóa
Luật giáo dục 2005 quy định : “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”.[13]
HĐNK là một trong những mảng hoạt động giáo dục quan trọng ở nhà
trường phổ thông trong việc giáo dục HS phát triển toàn diện. Hoạt động này
có ý nghĩa hỗ trợ cho giáo dục chính khóa, góp phần phát triển và hoàn thiện
nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo của học sinh, kích thích
thiên hướng của HS về một mặt hoạt động nào đó. Có thể thấy những tác
dụng quan trọng của HĐNK nói chung là:
- HĐNK có tác dụng giải stress, nâng cao hứng thú học tập chính khóa.
- Nội dung của HĐNK rất phong phú và đa dạng thể hiện qua các hoạt động
xã hội, văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan, lao động, nghiên cứu khoa học
v.v…nhờ đó các kiến thức tiếp thu được ở trên lớp có cơ hội được củng cố,
khắc sâu áp dụng mà mở rộng hơn trên thực tế.
25