Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.64 KB, 39 trang )

Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Các tác giả:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. Nguồn gốc của thương mại quốc tế
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia
3. Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu
4. Các loại hình xuất khẩu
5. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu
6. Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu
7. Ký kết hợp đồng xuất khẩu
8. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
9. Đánh giá hiệu quả xuất khẩu
10. Các yếu tố đặc trưng của hàng tơ tằm xuất khẩu
11. Đặc điểm của ngành sản xuất tơ tằm xuất khẩu
Tham gia đóng góp
1/37
Nguồn gốc của thương mại quốc tế
Nguồn gốc của thương mại quốc tế
TMQT có từ hàng ngàn năm nay, nó ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ vị trí trung
tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
TMQT trước hết là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia. Tiền đề xuất hiện sự
trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên
môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày
một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn. Thương mại bắt


nguồn từ sự đa dạng và điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn
hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài
mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn đem lại lợi nhuận lớn hơn.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự hình thành TMQT
giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch
Song như chúng ta đã biết phần lớn số lượng thương mại trong các mặt hàng không xuất
phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Một nước có thể sản xuất được mặt hàng
này tại sao lại nhập khẩu chính mặt hàng đó từ một nước khác? Làm sao nước ta với
xuất phát điểm thấp, chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các cường
quốc kinh tế lại có thể vẫn duy trì quan hệ thương mại với các nước đó? Để giải thích
những câu hỏi trên chúng ta hãy xem xét quy luật lợi thế tương đối (hay lý thuyết về lợi
thế so sánh) của nhà kinh tế học David Ricardo (1772- 1823).
Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chía
khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi quốc gia
chuuyên môn hóa sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu
quả sản xuất cao nhất thì thương mại có hiệu quả cho cả hai nước. Nếu một quốc gia
có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản
phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào
TMQT quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc
sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối). Còn nhiều lý
do khác nhau khiến TMQT ra đời và ngày càng trở lên quan trọng, đặc biệt trong một thế
giới hiện đại. Một trong những lý do đó có thể là TMQT tối cần thiết cho việc chuyên
môn hoá để có hiệu quả kinh tế cao trong các ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn
hoá quy mô lớn làm chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực
hiện trong hàng hoá các nước sản xuất. Sự khác nhau về sở thích và mức cầu cũng là
một nghuyên nhân khác để có TMQT. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối ở
hai nơi giống hệt nhau, TMQT vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về sở thích.
2/37
Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, con đường xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
theo kiểu cô lập với bên ngoài, tự cấp, tự túc hay thay thế nhập khẩu đã hoàn toàn không

có sức thuyết phục. Thực tế cho thấy con đường dẫn đến phát triển nhanh, bền vững
không phải qua chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng để sản xuất ra những sản phẩm sơ
chế, mà thông qua việc mở rộng và phát triển các ngành sản xuất chế biến sâu, có giá
trị thặng dư cao, hướng về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế những sản phẩm trong
nước sản xuất có hiệu quả hơn để khai thác tốt nhất lợi thế so sánh về nguồn nhân lực,
tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường cho sự phát triển. Để thấy rõ
điều này chúng ta hãy xem xét những vai trò sau đây của TMQT nói chung và của xuất
khẩu nói riêng.
3/37
Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia
Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có được đầy đủ mọi
thứ hàng hoá. Buôn bán quốc tế có ý nghĩa sống còn, mở rộng khả năng tiêu dùng của
một nước. Xuất khẩu là một hoạt động TMQT có vai trò quan trọng thể hiện trên các
mặt sau:
Xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế, phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước
Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa của mình lại
phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể
đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng các thành tựu kinh tế khoa
học kỹ thuật của loài người để phát triển. Nền kinh tế “mở cửa”, trong đó xuất khẩu
đóng vai trò then chốt sẽ mở hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm
năng sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố
tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ
thuật, thị trường và kĩ năng quản lý. Xuất khẩu là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm
tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về
lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần
rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, tạo nguồn vốn và kỹ thuật bên

ngoài cho quá trình sản xuất trong nước
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành nhân tố quyết định cho sự
phát triển của sản xuất. Xuất khẩu để tăng khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm cho nền
kinh tế nông nghịêp lạc hậu sản xuất nhỏ là phổ biến có nguồn bổ sung kỹ thuật tiên tiến
nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Quá trình phát triển của nền kinh tế đỏi hỏi phải nhập khẩu một lượng ngày càng nhiều
máy móc thiết bị và nguyên liệu công nghiệp Trong các nguồn như đầu tư nước ngoài,
vay nợ, viện trợ thì bằng cách này hay cách khác đểu phải trả. Chỉ có xuất khẩu mới
là hoạt động có hiệu quả nhất taọ ra nguồn vốn nhập khẩu bởi chúng không phải trả bất
cứ một khoản chi phí nào khác như nguồn vốn vay ngoài hơn nữa còn thể hiện tính tự
chủ của nguồn vốn. Trong thực tiễn, xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết
4/37
với nhau, vừa là kết quả, vừa là tiền đề của nhau, đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cường
nhập khẩu, tăng nhập khẩu để mở rộng và tăng khả năng xuất khẩu.
Trong tương lai nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ
của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay
thấy được khả năng xuất khẩu- nguồn vốn duy nhất để trả nợ- trở thành hiện thực.
Xuất khẩu góp phần mở rộng tiêu thụ hàng hoá, giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống nhân dân.
Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ bảo đảm cho sự phát triển công nghiệp với
quy mô hiện đại, sản xuất hàng loạt do đó không tạo thêm công ăn việc làm, một vấn đề
mà các nước nghèo luôn luôn phải giải quyết.
Với phạm vi vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hoạt động xuất khẩu mở ra một thị trường
tiêu thu rộng lớn với nhu cầu vô cùng đa dạng của mọi tầng lớp, mọi dân tộc trên toàn
thế giới. Sản xuất phải gắn với thị trường, có thị trường là điều kiện tiên quyết để thúc
đẩy sản xuất hàng xuất khẩu, đến lượt nó sản xuất hàng xuất khẩu lại là nơi thu hút hàng
triệu lao động vào làm việc và tăng thu nhập. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập
khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú
thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát

triển.
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất đó là thành quả của công
cuộc khoa học và công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình
công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với
đất nước ta. Vì vậy xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sản xuất và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
• Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, tức
là sự phát triển của ngành hàng xuất khẩu này sẽ kéo theo sự phát triển của một
ngành khác có quan hệ mật thiết.
• Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị
trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải
tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường.
• Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng
cao năng lực sản xuất trong nước.
• Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng
lực sản xuất trong nước.
• Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, hoàn thiện công
việc quản trị sản xuất và kinh doanh.
5/37
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của
nước ta.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại luôn có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau.
Xuất khẩu là một bộ phận rất quan trọng của kinh tế đối ngoại. Vì vậy khi hoạt động
xuất khẩu phát triển sẽ kéo theo các bộ phận khác của kinh tế đối ngoại phát triển như
dịch vụ, quan hệ tín dụng, đầu tư, hợp tác, liên doanh, mở rộng vận tải quốc tế Mặt
khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện mở rộng xuất khẩu. Vì
vậy đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng
cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế, góp phần vào sự ổn định kinh tế
chính trị của đất nước.
Nói tóm lại, với những vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế, phát triển hoạt

động xuất khẩu luôn là chiến lược để phát triển kinh tế ở nước ta.
6/37
Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất
khẩu
Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu có các chức năng cơ bản sau:
• Tạo vốn và kỹ thuật bên ngoài cho quá trình sản xuất trong nước.
• Thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất trong nước.
• Tăng hiệu quả sản xuất.
Từ những chức năng trên hoạt động xuất khẩu tự đặt ra cho mình một số nhiệm vụ chủ
yếu sau:
• Nghiên cứu chiến lược, chính sách và công cụ nhằm phát triển TMQT nói
chung, hoạt động xuất khẩu nói riêng, hướng tiềm năng, khả năng kinh tế nói
chung và sản xuất hàng hoá dịch vụ của nước ta nói riêng vào sự phân công lao
động quốc tế . Ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực cua đất nước, không
đánh giá mình quá cao, quá lạc quan cũng như không tự ti đánh giá mình quá
thấp, từ đó bỏ lỡ cơ hội làm ăn với nước ngoài, liên kết và đan xen vào chương
trình kinh tế thế giới.
• Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng ngày càng chứa đựng
nhiều hàm lượng chất xám, kỹ thuật và công nghệ để tăng nhanh khối lượng và
kim ngạch xuất khẩu.
• Tạo ra những mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn đáp
ứng những đòi hỏi cuả thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và
số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao.
• Mở rộng thị trường và đa phương hoá đối tác.
• Hình thành các vùng, các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo các chân hàng
vững chắc, phát triển hệ thống thu mua hàng xuất khẩu.
• Xây dựng các mặt hàng chủ lực ở phạm vi chiến lược, từ đó có kế hoạch phát
triển và mở rộng mặt hàng chủ lực.
7/37

Các loại hình xuất khẩu
Các loại hình xuất khẩu
Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau phụ thuộc vào số lượng
và các loại hình trung gian thương mại. Mỗi phương thức có đặc điểm riêng, có kỹ thuật
tiến hành riêng. Thông thường có các loại hình xuất khẩu chủ yếu sau:
Xuất khẩu trực tiếp.
Giống như các hoạt động mua bán thông thường trực tiếp ở trong nước, phương thức
xuất khẩu trực tiếp trong kinh doanh TMQT có thể được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi
trong đó người mua và người bán trực tiếp gặp mặt ( hoặc thông qua thư từ, điện tín )
để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức
thanh toán mà không qua người trung gian. Những nội dung này được thoả thuận một
cách tự nguyện, việc mua không nhất thiết gắn liền với việc bán.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này khác với hoạt động nội thương ở
chỗ: bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở các quốc gia khác nhau, đồng tiền
thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên, hàng hoá là đối tượng của giao
dịch được di chuyển qua khỏi biên giới của một nước.
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp thường có những ưu điểm sau:
• Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất, ít xảy ra những hiểu
lầm đáng tiếc.
• Giảm được chi phí trung gian.
• Có điều kiện xâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý kiến của khách hàng, khắc
phục thiếu sót
• Chủ động trong việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá
Tuy nhiên hoạt động này cũng gặp phải một số hạn chế đó là:
• Đối với thị trường mới còn nhiều bỡ ngỡ, dễ bị ép giá trong mua bán
• Khối lượng mặt hàng cần giao dịch phải lớn để bù đắp được chi phí: giấy tờ, đi
lại, điều tra tìm hiểu thị trường.
Xuất khẩu gián tiếp.
Nếu trong xuất khẩu trực tiếp người bán tìm đến người mua, người mua tìm đến người
bán và họ trực tiếp thoả thuận quy định những điều kiện mua bán, thì trong xuất khẩu

8/37
gián tiếp, một hình thức giao dịch qua trung gian, mọi việc kiến lập quan hệ giữa người
bán và người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua người thứ
ba. Người thứ ba này gọi là người trung gian buôn bán. Người trung gian buôn bán phổ
biến trên thị trường thế giới là đại lý và môi giới.
Đại lý: là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ
thác của người uỷ thác (principal). Quan hệ giữa người uỷ thác với đại lý là quan hệ hợp
đồng đại lý.
Môi giới: là loại thương nhân trung gian giữa người mua và người bán, được người bán
hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá hay dịch vụ. Khi tiến hành
nghiệp vụ, người môi giới không được đứng tên của chính mình mà đứng tên của người
uỷ thác, không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người uỷ
thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng. Người môi giới không tham gia vào
việc thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp được uỷ quyền. Quan hệ giữa người uỷ thác với
người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng lần, chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn.
Việc sử dụng những người trung gian thương mại (đại lý và môi giới) có những lợi ích
như:
• Những người trung gian thường có hiểu biết rõ tình hình thị trường, pháp luật
và tập quán địa phương, do đó, họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và
tránh bớt rủi ro cho người uỷ thác.
• Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất định,
do đó, khi sử dụng họ, người uỷ thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
• Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại, đóng gói, người uỷ
thác có thể giảm bớt chi phí vận tải.
Tuy nhiên việc sử dụng trung gian có khuyết điểm như:
• Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường.
Công ty cũng thường phải đáp ứng những yêu sách của đại lý hoặc môi giới.
• Lợi nhuận bị chia sẻ
Trước sự phân tích lợi hại như vậy, người ta chỉ thường sử dụng trung gian trong những
trường hợp cần thiết như: khi thâm nhập vào một thị trường mới, khi mới đưa vào thị

trường mới một mặt hàng mới, khi tập quán đòi hỏi phải bán hàng qua trung gian, khi
mặt hàng đỏi hỏi sự chăm sóc đặc biệt như hàng tươi sống chẳng hạn.
Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu (counter- trade) là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong
đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng
hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Ở đây mục đích của xuất
9/37
khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hoá khác
có giá trị tương đương.
Buôn bán đối lưu đã ra đời lâu trong lịch sử quan hệ hàng hoá- tiền tệ, trong đó sớm
nhất là “ hàng đổi hàng”, rồi đến trao đổi bù trừ. Ngày nay, ngoài hai hình thức truyền
thống đó, đã có nhiều loại hình mới ra đời từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Các loại hình buôn bán đối lưu phải kể đến như:
• Nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter): trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi trực tiếp
với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra gần
như đồng thời.
• Nghiệp vụ bù trừ (compensation): đây là hình thức phát triển nhanh nhất của
buôn bán đối lưu. Trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên
cơ sỏ giá trị hàng giao và hàng nhận đến cuối kỳ hạn, hai bên mới đối chiếu sổ
sách, so sánh giữa giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ
tiền hàng như thế, mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu
cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
• Nghiệp vụ mua đối lưu (counter- purchase): trong nghiệp vụ này một bên giao
thiết bị cho khách hàng của mình và để đổi lại mua sản phẩm của công nghiệp
chế biến, bán thành phẩm, nguyên vật liệu
• Giao dịch bồi hoàn (offset): người ta đổi hàng hoá và/hoặc dịch vụ lấy những
dịch vụ và ưu huệ ( như ưu huệ trong đầu tư và giúp đỡ bán sản phẩm).
• Nghiệp vụ mua lại sản phẩm (buy- backs): trong nghiệp vụ này một bên cung
cấp thiết bị toàn bộ và/hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật (know-how) cho
bên khác, đồng thời cam kết mua lại những sản phẩm do thiết bị hoặc sáng chế

hoặc bí quyết kỹ thuật đó chế tạo ra.
Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là
bên đặt gia công) giao (hoặc bán) nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho một bên khác
(gọi là bên nhận gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại (hoặc bán lại) cho bên đặt
gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy trong gia công quốc tế hoạt động
xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều nước.
Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ tận dụng được giá rẻ về nguyên liệu
phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này
giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được
thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc.
Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng được phương thức gia công quốc tế mà có
được một nền công nghiệp hiện đại như Hàn Quốc, Thái Lan, Xingapo
10/37
Giao dịch tái xuất.
Là hoạt động xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu chưa qua
chế biến ở nước tái xuất.
Xuất khẩu theo nghị định thư.
Là hình thức xuât khẩu hàng hoá (hay trả nợ) được kí theo nghị định thư của chính phủ.
Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm: khả năng thanh toán chắc chắn (do nhà nước
trả cho đối tác xuất khẩu), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận.
11/37
Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất
khẩu
Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu
Không chỉ riêng với hoạt động xuất khẩu mà với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào trước
khi bước vào nghiên cứu thực hiện các khâu nghiệp vụ người kinh doanh phải nắm bắt
được các thông tin về thị trường. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu là vấn đề đầu tiên cần
thiết được tiến hành hết sức kỹ lưỡng trong hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường

tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại
hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi cung cầu và giá cả trên thị trường giúp họ giải
quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường, khả năng
tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá từ đó mà lựa chọn thị trường xuất khẩu
thích hợp nhất cho sản phẩm của mình.
Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng đó là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán
hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện
mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về
thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ
giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh. Công
tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong phương châm hành động “ chỉ
bán cái thị trường cần chứ không bán cái có sẵn”.
• Có hai loại thông tin cần thu thập trong nghiên cứu thị trường:
- Thông tin sơ cấp (primary information): là những thông tin thu thập mang tính chất
trực tiếp từ thị trường đó.
Đối với loại thông tin này người ta thường áp dụng phương pháp nghiên cứu tại thị
trường (Field study): đây là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi
người trên thị trường. Nói cách khác, đó là cách thu thập thông tin từ trực quan, qua các
quan hệ giao tiếp với thương nhân và với người tiêu dùng. Biện pháp cụ thể: điều tra,
phỏng vấn, quan sát, thực nghiệm.
Như vậy, xét về tính phức tạp và mức độ chi phí, nghiên cứu tại thị trường là một hoạt
động tốn kém và không phải ai cũng đủ trình độ để làm được. Tuy vậy, phương pháp
nghiên cứu này cho kết quả khá chính xác. Vì vậy, trước hết cần sơ bộ xử lý các thông
tin về các thị trường đã đề cập, chọn ra những thị trường có nhiều triển vọng nhất. Sau
12/37
đó căn cứ vào kết quả lựa chọn để tiến hành nghiên cứu hiện trường và lập kế hoạch
khảo sát.
+ Thông tin thứ cấp (Secondary information):
Đối với loại thông tin này người ta sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk

study). Về cơ bản nghiên cứu tại bàn bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư
liệu xuất bản hay không xuất bản và tìm những nguồn đó. Chìa khoá thành công của
nghiên cứu tại bàn là phát hiện ra các nguồn thông tin và triệt để khai thác những nguồn
thông tin đó. Ngày nay, trong thời đại tin học, thông tin về thị trường, hàng hoá, giá
cả rất phong phú. Có thể lấy được thông tin từ các nguồn như: qua hệ thống Internet,
qua các cơ quan xúc tiến thương mại, các cơ quan thống kê, qua các sách báo thương
mại được xuất bản, qua quan hệ với thương nhân Trong đó, số liệu thông kê là một
trong những loại thông tin quan trọng nhất, được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu
thị trường, đặc biệt là nghiên cứu tại bàn. Đó là những số liệu thống kê về sản xuất, tiêu
thụ, xuất khẩu, dự trữ tồn kho, giá cả Nó giúp cho người nghiên cứu có một cái nhìn
bao quát về dung lượng thị trường và xu hướng phát triển.
Nghiên cứu tại bàn, có thể nói là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị trường,
vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những người xuất khẩu mới tham gia
vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế như chậm và mức độ tin
cậy có hạn. Kết quả nghiên cứu tại bàn cũng cần phải bổ sung bằng nghiên cứu tại thị
trường.
• Nội dung thông tin cần thu thập khi nghiên cứu thị trường: nghiên cứu tình
hình cung cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá và một số yếu tố khác.
• Nghiên cứu tình hình cung- cầu hàng hoá:
Nghiên cứu tình hình cung cầu hàng hoá cần nắm được các vấn đề sau:
• Số lượng các doanh nghiệp cung ứng mặt hàng đó trên thị trường và khả năng
cung ứng của từng doanh nghiệp đó.
• Nghiên cứu chu kỳ đưa hàng ra thị trường của từng doanh nghiệp cung ứng đó.
• Sảnphẩm của hãng đang ở giai đoạn nào trên thị trường (mặt hàng đang ở pha
nào của chu kỳ sống)
Về mặt tiêu thụ nhà kinh doanh phải biết mặt hàng định xuất khẩu đang ở giai đoạn nào
của chu kỳ sống của nó trên thị trường. Chu kỳ này là tiến trình phát triển việc tiêu thụ
một mặt hàng bao gồm 4 giai đoạn (gđ) sau đây:
Giai đoạn triển khai: đây là giai đoạn đầu tiên trong chu kỳ sống của sản phẩm. Trong
giai đoạn này về cơ bản chưa có sản phẩm cạnh tranh, sản phẩm của doanh nghiệp chưa

được người tiêu dùng biết đến, doanh nghiệp cần nỗ lực làm cho khách hàng biết đến
sản phẩm của mình.
13/37
Giai đoạn tăng trưởng: đây là giai đoạn phát triển của sản phẩm, trong giai đoạn này
sản phẩm được người tiêu dùng biết đến và được thị trường chấp nhận, cần đẩy nhanh
quá trình đưa sản phẩm có tính độc đáo của mình vào thị trường, qua đó tạo được môi
trường tốt, tăng phạm vi lựa chọn sản phẩm.
Giai đoạn bão hoà: trong giai đoạn này doanh thu tiêu thụ vẫn tăng nhưng tăng chậm
và có xu hướng giảm. Giai đoạn này có sự cạnh tranh kịch liệt giữa các đối thủ vào thị
trường và một hình ảnh mà doanh nghiệp cần thấy rõ là sự tràn ngập hàng hoá trên thị
trường.
Giai đoạn suy thoái: đây là giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ sống của sản phẩm. Trong
giai đoạn này thị trường đã bão hoà về sản phẩm, doanh số bán ra của sản phẩm giảm đi
rất nhiều. Để tránh khả năng bị loại khỏi thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải có những
biện pháp cải tiến, đổi mới mẫu mã kỹ thuật, hoặc thay thế bằng sản phẩm mới.
Từ sự phân tích như trên ta nhận thấy, việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở giai đoạn
triển khai và tăng trưởng gặp thuận lợi lớn nhất. Tuy vậy, có khi mặt hàng đã ở giai đoạn
suy thoái nhưng nhờ thực hiện các biện pháp xúc tiến tiêu thụ (như quảng cáo, cải tiến
hệ thống tổ chức tiêu thụ, giảm giá ) người ta vẫn có thể đẩy mạnh được xuất khẩu.
Tóm lại, có nắm vững mặt hàng ta đang dự định kinh doanh đang ở giai đoạn nào của
chu kỳ sống thì mới có thể xác định những biện pháp cần thiết để làm tăng doanh số bán
hàng và tăng lợi nhuận.
Cấu trúc của cung, nghĩa là xác định tình hình cạnh tranh trên thị trường. Nếu sự cạnh
tranh đã gay gắt, điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp phải rút lui, nó có thể giữ vị
trí thế thủ chờ đợi giai đoạn chuyển sang tấn công
Nghiên cứu những sản phẩm khác cùng đáp ứng nhu cầu còn phải xác định xem sự cạnh
tranh ấy tồn tại được bằng cách nào, tỷ lệ hoa hồng thường được chấp nhận là bao nhiêu,
hậu quả của cạnh tranh như thế nào, nó sẽ diễn biến ra sao và khả năng phản ứng của
nó trước một đối thủ mới.
Phân tích tình hình cầu:

Từ những thông tin về hàng hoá đang bán cần xác định xem những sản phẩm nào có thể
thương mại hoá được. Người tiêu dùng hiện nay là những ai, họ được phân nhóm như
thế nào, nhóm xã hội, nghề nghiệp, tuổi, dân tộc, tôn giáo, nam nữ, cách sống
. Thống kê số lượng khách hàng có nhu cầu mua hàng hoá.
. Sức mua trung bình của một doanh nghiệp, một khách hàng.
. Nhịp độ mua hàng của họ (chu kỳ mua lặp lại).
14/37
. Sản phẩm của hãng đang ở thế hệ nào.
. Lý do mua hàng của khách hàng là gì?
. Ai có khả năng trở thành người tiêu dùng? Cần xác định sự tăng dân số, nhất là sự tăng
của bộ phận xác định và tiến hành phân tích sự tăng mức sống. Nếu không có yêu cầu
mua vào thời điểm phân tích thì phải xác định xem có yêu cầu không và khi nào.
• Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời là một nhân tố cấu thành
thị trường. Do việc mua bán giữa các khu vực khác nhau diễn ra trong một thời gian
dài, hàng vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế quan khác nhau, giá cả thị
trường lại càng trở lên phức tạp, trong đó giá cả hàng hoá được coi là giá tổng hợp bao
gồm giá vốn hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác
tùy theo các bước thực hiện và sự thoả thuận giữa các bên tham gia. Nghiên cứu giá cả
bao gồm việc nghiên cứu giá cả của từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị trường,
xu hướng biến động của giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó như: nhân
tố chu kỳ, nhân tố lũng loạn của các công ty siêu quốc gia, nhân tố cạnh tranh, nhân tố
cung cầu, nhân tố lạm phát, nhân tố thời vụ và một số nhân tố khác như: chính sách của
chình phủ, tình hình an ninh chính trị của các quốc gial Từ đó mới có thể dự đoán một
cách tương đối chính xác về giá cả quốc tế của hàng hoá. Rõ ràng việc nghiên cứu và
tính toánh một cách chính xác giá cả của các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là
một công việc khó khăn đòi hỏi phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, nhưng đó lại là
một nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả thực hiện các hợp đồng kinh doanh TMQT.
• Nghiên cứu các loại hình kinh doanh khác trên thị trường như điều kiện vận tải,
tốc độ, phương tiện vận tải như thế nào, chi phí vận tải ra sao, bảo hiểm, vận

chuyển
• Nghiên cứu một số yếu tố khác liên quan đến hoạt động kinh doanh trên thị
trường như: quan hệ chính trị, văn hoá: làm việc với ai phải hiểu văn hoá của
người đó, đồng thời có cái nhìn khách quan về nền văn háo của họ, không thể
so bì với văn hoá của ta mà cho rằng nền văn hoá của họ không tốt, kinh doanh
TMQT cần luôn hiểu “ không có một nền văn hoá nào là tốt hay xấu mà chỉ có
sự khác biệt”. Nghiên cứu chính sách, thể chế của quốc gia khác đặc biệt là yếu
tố về luật, thể chế tài chính. Nghiên cứu yếu tố tự nhiên của từng đoạn thị
trường: vị trí địa lý, khí hậu
Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thị trường xuất khẩu giúp đơn vị kinh doanh lựa chọn
thị trường, việc lựa chọn thị trường phải căn cứ vào những tiêu chuẩn mà các thị trường
phải đáp ứng được:
15/37
Tiêu chuẩn chung:
• Về chính trị: có những chính thể này thuận lợi hơn những chính thể khác đối
với hoạt động xuất khẩu, nghiên cứu cả những bất chắc chính trị và sự ổn định
của chính thể.
• Về địa lý: khoảng cách địa lý, khí hậu, tháp dân số
• Về kinh tế: những chỉ tiêu về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP bình quân
đầu người, tỷ lệ tăng GDP
• Về kỹ thuật: những khu vực phát triển và triển vọng phát triển.
Tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ:
• Biện pháp bảo hộ mậu dịch: thuế quan, các giấy phép và hạn ngạch
• Tình hình tiền tệ: tỷ lệ lạm phát, sự diễn biến của tỷ giá hối đoái
Tiêu chuẩn về thương mại:
• Phần của sản xuất nội địa
• Sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam trên các thị trường
• Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường lựa chọn.
Những tiêu chuẩn này sau đó phải được cân nhắc, điều chỉnh tuỳ theo mức quan trọng

của chúng đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào
khách hàng. Trong cùng những điều kiện như nhau việc giao dịch với khách hàng cụ thể
này thì thành công, với khách hàng khác thì bất lợi. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng
của đơn vị kinh doanh trong lựa chọn thị trường là lựa chọn khách hàng. Việc lựa chọn
khách hàng (hay lựa chọn thương nhân) để giao dịch không nên căn cứ vào những lời
quảng cáo, tự giới thiệu mà cần tìm hiểu khách hàng về:
• Tình hình sản xuất kinh doanh của họ, năng lực, phạm vi kinh doanh và tư cách
pháp nhân.
• Khả năng về vốn và cơ sỏ vật chất kỹ thuật.
• Năng lực con người và năng lực quản lý của họ
• Trình độ và quan điểm kinh doanh của thương nhân đó
• Uy tín của họ trong kinh doanh
Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn những đối tác trực
tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào
các thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm.
16/37
Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để
thực hiện thắng lợi các hợp đồng TMQT, song nó phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của
người làm công tác giao dịch.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong TMQT nói chung và trong kinh doanh
xuất khẩu nói riêng là hết sức cần thiết trong hoạt động kinh doanh. Đó là bước chuẩn
bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh TMQT một
cách có hiệu quả nhất.
17/37
Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu
Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu
Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trườn,
đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án này là kế hoạch hoạt động của
đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh.

Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau:
• Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân: trong bước này, người lập
phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích thuận lợi và khó
khăn trong kinh doanh.
• Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn
này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình có liên quan.
• Đề ra mục tiêu. Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh bao giờ
cũng là mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng với giá cả bao nhiêu,
sẽ thâm nhập vào những thị trường nào
• Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này có thể bao gồm nhiều biện
pháp trong nước (như đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế,
tăng giá thu mua ) và cả các biện pháp ở ngoài nước (như đẩy mạnh quảng
cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới đại lý )
• Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu
chủ yếu: chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ, chỉ tiêu thời gian hoàn vốn, chỉ tiêu tỷ suất
doanh lợi, chỉ tiêu điểm hoà vốn.
Sau khi phương án đã được đề ra, đơn vị kinh doanh phải cố gắng để thực hiện phương
án, tức là tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với khách hàng đã chọn. Nhưng để tiến tới
ký kết hợp đồng mua bán với nhau người xuất khẩu và nhập khẩu thường phải qua một
quá trình giao dịch, thương thảo về các điều kiện giao dịch. Quá trình đó có thể bao gồm
những bước chính như: hỏi hàng, chào hàng, đặt hàng.
• Hỏi hàng: hỏi hàng còn gọi là hỏi giá, tuy không ràng buộc trách nhiệm của
người hỏi, nhưng nếu hỏi nhiều nơi, nhiều hãng quá có thể gây lên hiểu lầm về
nhu cầu của mình. Vả lại, hỏi nhiều sẽ kéo theo việc trả lời và các công việc
hành chính văn thư khác. Điều này cũng dễ gây nên tốn thời gian và chi phí.
• Chào hàng: là lời đề nghị biểu thị muốn bán hàng do người bán đưa ra. Trước
khi chào hàng cần nắm được quan hệ cung cầu về hàng hoá đó trên thế giới,
mức giá hiện hành trên thị trường, nhu cầu của đối phương và khả năng của ta.
Trên cơ sở đó, ta xác định nên đưa ra đơn chào hàng cố định hay đơn chào
hàng tự do.

18/37
Chào hàng cố định: là lời đề nghị ký hợp đồng của người bán chỉ gửi cho một đối tác,
trong thời hạn có hiệu lực của chào hàng thì không được gửi cho các đối tác khác. Nếu
người nhận chào hàng cố định chấp nhận mua coi như chào hàng được ký.
Chào hàng tự do:là lời đề nghị chào bán một mặt hàng nào đó được gửi cho nhiều người
và không ràng buộc về mặt pháp lý. Nếu người nhận chào hàng tự do đồng ý mua nhưng
người bán vẫn có thể không thực hiện lời chào hàng đó.
Có khi, bên mua chưa hỏi mua, nhưng ta chủ động tìm hiểu thấy họ có nhu cầu và ta đưa
ra đơn chào hàng (chào hàng chủ động). Cũng có khi, trên cơ sỏ hỏi hàng của bên mua,
chúng ta chào hàng để đáp lại thư hỏi hàng của đối phương (chào hàng thụ động).
Dù chào hàng theo cách nào, đơn chào hàng cũng cần rõ ràng và có sức hấp dẫn. Sự hấp
dẫn không chỉ thể hiện ở giá thấp, ở sự giảm giá, mà có thể ở cả dịch vụ cung cấp cho
người mua, phẩm chất hàng tốt, điều kiện thanh toán có lợi cho người mua.
• Đặt hàng: đặt hàng là lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, xuất phát
từ người mua. Do đó, người mua chỉ đặt hàng ở nhà cung cấp nào mà đã biết rõ
về chất lượng hàng, mức giá cả, khả năng giao hàng của họ. Người bán cần
nắm được điều này để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng tăng hiệu quả
kinh doanh.
19/37
Ký kết hợp đồng xuất khẩu
Ký kết hợp đồng xuất khẩu
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng ngoại thương:
là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nươc khác nhau, theo
đó một bên gọi là bên xuất khẩu (bên bán) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho
một bên khác gọi là bên nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá, bên
mua có nghĩa vụ nhận tiền hàng và trả tiền hàng.
Về điều kiện hiệu lực của hợp đồng TMQT, theo điều 81 của Luật Thương mại Việt
Nam, hợp đồng mua bán quốc tế có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
• Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý.
• Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của

pháp luật.
• Hợp đồng mua bán quốc tế phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp đã quy
định.Theo điều 50 của Luật Thương mại Việt Nam, những điều khoản sau buộc
phải có trong hợp đồng bao gồm: tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng, giá
cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra, các bên
có thể thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản khác trong hợp
đồng.
• Hình thức của hợp đồng phải là văn bản.
• Nội dung chủ yếu của một hợp đồng TMQT thường bao gồm những nội dung
sau:
. Số hợp đồng
. Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng
. Tên và địa chỉ của các đương sự
. Những định nghĩa dùng trong hợp đồng
. Cơ sở pháp lý để kí kết hợp đồng
. Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng: điều khoản thương phẩm, điều khoản tài
chính, điều khoản vận tải, điều khoản pháp lý
20/37
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất khẩu- với
tư cách là một bên ký kết- phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc
rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được
quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau:
Kiểm tra L/C.
Nếu trong điều khoản thanh toán của hợp đồng ngoại thương quy định sử dụng phương
thức tín dụng chứng từ thì bước đầu tiên đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần phải làm đó
là đôn đốc người nhập khẩu ở nước ngoài mở L/C đúng hạn và nội dung như hợp đồng
quy định. Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra so sánh với nội dung

và điều kiện ghi trong hợp đồng, nếu phù hợp người xuất khẩu mới tiến hành làm những
công việc thực hiện hợp đồng còn chưa phù hợp phải yêu cầu bên nhập khẩu sửa đổi bổ
sung bằng văn bản.
Xin giấy phép xuất khẩu.
Giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu
trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhà
nước tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh làm hàng xuất khẩu và
xuất khẩu những mặt hàng nhà nước không hạn chế.
• Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch và bằng luật pháp, hàng hoá
là đối tượng quản lý có 3 mức:
• Những danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu:
Việc điều chỉnh danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu do Thủ tướng Chính
phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Trong trường hợp đặc
biệt, việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu
phải được Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định từng trường hợp cụ thể.
• Hàng hoá xuất nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại:
Bộ Thương mại chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan cụ thể hoá danh mục
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại theo mã số của danh
21/37
mục biểu thuết xuất, biểu thuế nhập khẩu (nếu có). Việc điều chỉnh danh mục hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại, bao gồm cả lộ trình bãi bỏ loại
giấy phép này, do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ
Thương mại. Việc ký hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục này chỉ
được thực hiện sau khi đã có giấy phép của Bộ Thương mại.
• Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành:
Việc điều chỉnh bổ sung danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý
chuyên ngành và nguyên tắc áp dụng do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề
nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý chuyên ngành và Bộ trưởng Bộ Thương mại, các
bộ ngành quản lý chuyên ngành hướng dẫn thực hiện việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá trong danh mục này.

• Thủ tục cấp giấy phép:
Khi đối tượng hợp đồng trong phạm vi phải xin giấy phép xuất nhập khẩu, doanh nghiệp
phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm:
• Bản sao hợp đồng xuất/nhập
• Phải có bản giải trình với mặt hàng cấm xuất/nhập
• Đơn xin cấp giấy phép
Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện ngoài bản sao giấy tờ, đơn xin phép
phải có bản sao hạn ngạch. Sau khi hoàn tất thủ tục gửi đến cơ quan cấp giấy phép (Bộ
Thương mại), sau đó Bộ Thương mại gửi hồ sơ đến các bộ quản lý chuyên ngành.
Thời gian cấp giấy phép:
• Riêng mặt hàng cấm xuất/nhập thì không quy định thời gian
• Với mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện thì giao cho nhân viên quản lý thụ lý
hồ sơ, sau 3 ngày phải trả lời với những hồ sơ xin phép cần bổ sung, cần sửa
đổi hoặc những hồ sơ không cấp giấy phép
• Đối với những hồ sơ hợp lệ cấp giấy phép sau 7 ngày.
Chuẩn bị hàng xuất khẩu.
Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu, chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành chuẩn
bị hàng xuất khẩu. Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng đã ký với nước ngoài
và/hoặc L/C (nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C).
Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm 3 khâu chủ yếu: thu gom tập trung làm
thành lô hàng xuất khẩu, đóng gói bao bì và kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu.
22/37
• Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu:
Việc mua bán ngoại thương thường tiến hành trên cơ sở số lượng lớn. Trong khi đó sản
xuất hàng xuất khẩu ở nước ta, về cơ bản, là một nền sản xuất manh mún, phân tán;
nguồn hàng để xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ cấp (nguyên vật liệu qua sơ chế, hàng bán
thành phẩm), hàng thủ công mĩ nghệ, hàng nông lâm, thổ, thuỷ sản. Vì vậy trong rất
nhiều trường hợp muốn làm thành lô hàng xuât khẩu chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành
thu gom tập trung từ các cơ sở sản xuất nhỏ, từ trong nhân dân, từ các cơ sở thương
mại (gọi tắt là các chân hàng). Cơ sở để thực hiện thu gom hàng xuất khẩu là hợp

đồng kinh tế giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu với các chân hàng. Những loại
hợp đồng kinh tế thường được sử dụng để huy động hàng xuất khẩu có thể là: hợp đồng
mua bán hàng xuất khẩu, hợp đồng gia công, hợp đồng đổi hàng, hợp đồng uỷ thác thu
mua hàng xuất khẩu, hợp đồng liên doanh liên kết xuất khẩu
• Bao bì đóng gói hàng xuất khẩu:
Trong buôn bán quốc tế, tuy không ít mặt hàng để trần hoặc để rời, nhưng đại bộ phận
hàng hoá đòi hỏi phải được đóng gói và bao bì trong qúa trình vận chuyển và bảo quản.
Tổ chức đóng gói, bao bì là khâu quan trọng của việc chuẩn bị hàng hoá bởi những tác
dụng to lớn sau:
• Bao bì đóng gói bảo đảm được phẩm chất hàng hoá trong quá trình vận chuyển,
tránh được rủi ro mất mát.
• Tạo điều kiện thuận lợi cho bốc xếp, di chuyển, vận chuyển và giao nhận hàng
hoá.
• Tạo điều kiện cho việc nhận biết phân loại hàng hoá.
• Gây ấn tượng và làm cho người mua thích thú hàng hoá.
Trong kinh doanh TMQT người ta thường dùng các loại bao bì như: hòm, bao, kiện hay
bì, thùng đây là bao bì bên ngoài, ngoài ra còn có loại bao bì bên trong và bao bì trực
tiếp. Nói chung tuỳ thuộc đặc điểm và tính chất của hàng hoá cần bao gói, vào những
điều đã thoả thuận trong hợp đồng mà lựa chọn loại bao bì thích hợp. Ngoài ra cần phải
xét đến những nhân tố: điều kiện khí hậu môi trường, điều kiện vận tải, bốc xếp hàng,
điều kiện luật pháp thuế quan, chi phí vận chuyển.
• Kẻ kýmã hiệu hàng xuất khẩu:
Ký mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên các
bao bì bên ngoài nhằm thông báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ và
bảo quản hàng hoá.
23/37

×