Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Đầu tư,nguồn vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư công trình hạ tầng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.09 KB, 34 trang )

Đầu tư,nguồn vốn đầu tư và nguồn vốn
đầu tư công trình hạ tầng
Biên tập bởi:
Phan Anh Đức
Đầu tư,nguồn vốn đầu tư và nguồn vốn
đầu tư công trình hạ tầng
Biên tập bởi:
Phan Anh Đức
Các tác giả:
Phan Anh Đức
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. Một số lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển
2. Phân loại nguồn vốn đầu tư
3. Bản chất của nguồn vốn đầu tư
4. Đầu tư công trình hạ tầng
5. Giới thiệu tổng quát chương trình 135
6. Mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách, giải pháp chủ yếu thực hiện chương trình 135
Tham gia đóng góp
1/32
Một số lý luận chung về đầu tư và đầu tư
phát triển
Khái niệm và phân loại đầu tư:
Đầu tư là "sự bỏ ra, sự hy sinh" các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả
có lợi hơn cho người đầu tư trong tương lai. Hay nói cách khác, đầu tư là sự hy sinh
những lợi ích hiện tại để nhằm thu về lợi ích lớn hơn trong tương lai.
Nguồn lực ở hiện tại có thể là tiền,là tàI nguyên thiên nhiên,là sức lao động và trí
tuệ.Những kết quả đạt được có thể là tàI sản tàI
Chính,tàI sản vật chất,tàI sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ đIũu kiệnđể làm việc với
năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được trên đây,những kết quả là tàI sản vật chất,tàI sản trí tuệ là


nguồn nhân lực tăng thêmcó vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơI,không chỉ đối với
người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế.
Đầu tư có thể chia đầu tư thành 3 loại chủ yếu sau:
- Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua
chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất phụ thuộc vào kết quả sản
xuất kinh doanh của công ty phát hành.
- Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư mà người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hoá và sau đó
bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Hai loại
đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, mà chỉ làm tăng tài sản tài chính
của người đầu tư. Tuy nhiên, chúng đều có tác dụng thúc đẩy đầu tư phát triển.
- Đầu tư phát triển: Là hoạt động đầu tư mà trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến
hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất
kinh doanh và các hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao
đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng các
công trình hạ tầng kinh tế - xã hội, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng và đào tạo nguồn
nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản
này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho
nền kinh tế xã hội.
Nhìn chung đề tài chủ yếu nghiên cứu về đầu tư phát triển - loại hình đầu tư gắn trực
tiếp với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2/32
Đầu tư phát triển và vai trò đối với nền kinh tế:
Như chúng ta đã biết, đầu tư phát triển chính là hoạt động đầu tư tài sản vật chất và sức
lao động chính vì thế nó là nhân tố quan trọng để phát triển và tăng trưởng kinh tế. Vai
trò của nó trong nền kinh tế được thể hiện ở các mặt sau :
- Thứ nhất đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tac động đến tổng cầu:
Về tổng cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, thường từ 24%-28%. Khi mà tổng cung chưa thay đổi, sự tăng lên của đầu tư
làm cho tổng cầu tăng kéo sản lượng cân bằng tăng theo và giá cân bằng tăng.
Về tổng cung: Đầu tư làm tăng năng lực sản xuất làm tổng cung tăng và sản lượng tăng,

giá giảm xuống, cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng lại tiếp tục kích thích sản xuất
phát triển và nó là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu
nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
- Thứ hai đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế :
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư tới tổng cung và tổng cầu của
nền kinh tế làm cho mỗi sư thay đổi của đầu tư dù tăng hay giảm đều cùng một lúc là
yếu tố duy trì sư ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc
gia .
- Thứ ba đầu tư có tác động làm tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất
nước:
Mọi con đường để có công nghệ dù là sự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần
phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư , Do vậy tất cả các con đường đổi mới công nghệ
đều phải gắn với nguồn vốn đầu tư.
- Thứ tư đầu tư có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Con đường tát yếu để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường
đầu tư. Do đó đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia
nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế và sư cân đối giữa các
vùng, các ngành .
- Thứ sáu đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Vì: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư / ICOR
3/32
Do đó nếu hệ số ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu
tư cho nên đầu tư có ảnh hưởng rất quan trọng đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh
tế .
Như vậy từ các nhận xét trên đây ta có thể thấy được vai trò rất quan trọng của đầu tư
tới tăng trưởng và phát triển kinh tế, nó là nhân tố không thể thiếu cho bát kì quốc gia
nào trong quá trình phát triển.
4/32
Phân loại nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn trong nước

* Nguồn vốn nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp
nhà nước.
Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước
cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lựơc phát triển kinh tế
- xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào
lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các công tác lập và thực hiện các quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và
nông thôn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác
dụng tích cực trong việc giảm đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ
chế tín dụng, các đợn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn
vay. Chủ đàu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm
hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ
hình thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng
thu hồi vốn trực tiếp.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành phần chủ đạo
trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn.
Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực thì khu
vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh
nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng
định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể
vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
* Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
5/32

Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của
các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài
Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà cuă được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có
tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ tryuền thống. Nhìn tổng
quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại
tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ
hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia
đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có
quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
+ Tập quán tiêu dùng của dân cư.
+ Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản
đóng góp với xã hội.
Thị trường vốn.
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước
có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các
chủ đầu tư - bao gồm cả Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị trường vốn mà
cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm
của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn dỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức
tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn
khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy
động nào có thể làm được.
Nguồn vốn nước ngoài.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu
chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn
quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế
giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các
nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn
này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực

hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại
các nguồn vốn nước ngòai chính như sau:
6/32
- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance). Nguồn này bao
gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical development assistance) và các hình
thức viện trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF;
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
* Nguồn vốn ODA.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung
cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác,
ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện
ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố
không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di kèm các điều kiện
và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị
trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải
xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có
thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài
những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa
có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính nguyên tắc.
* Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
Điều kiện ưu đẫi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA.
Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị,
xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe,
thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các
nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh
ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc

tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để
đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có
thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng
trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là
sáng sủa.
* Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
7/32
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài khác
là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận
lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án
đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên
kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt
là những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế
nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư .
* Thị trường vốn quốc tế.
Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia
vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế các nguồn vốn cho mỗi quốc
gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Ngay tại nhiều nước
đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ.
Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng
tài chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các thị trường
mới nổi vẫn đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào Châu á
đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD.
8/32
Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà
nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này
được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác - Lênin và kinh tế học hiện đại
chứng minh.

Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại diện điển hình
của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia
tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo
ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu
vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ, C. Mác đã
chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất
và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao
gồm (c + v + m) trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v + m) là phần giá trị mới tạo ra.
Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội
phải đảm bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là:
(v + m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu
hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư
làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất
ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn, nền kinh tế mới có thể dành
một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt
phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm
tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở
khu vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực.
9/32
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác, con đường cơ
bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành
tiết kiệm cả ở trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái

sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền
kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện
đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất
và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: Đầu tư chính
bằng phần thu nhập mà không được chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra
rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng.
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
1. (S)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính song phương của
các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập
chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng
chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc
cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng
lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu
dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác vơí phần gia tăng năng lực sản xuất
mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó, phần
tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính
phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế
không nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hay doanh nghiệp nào. Có thể có
cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham
gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa
hoặc tích luỹ chưa đầy đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc
điều tiết nguồn vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu
sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu (trên cơ sở một số điều

kiện nhất định, theo quy trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào đó
từ các doanh nghiệp và các hộ gia đình - người có vốn dư thừa.
10/32
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao
giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại
nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang cho nước khác để thực hiện đầu tư.
Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể nhỏ hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh
tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa
tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu như nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ nội bộ nền kinh
tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi
đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư
quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong
nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra
nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền
kinh tế.
11/32
Đầu tư công trình hạ tầng
Khái niệm công trình hạ tầng
Công trình hạ tầng là các công trình được thiết kế và xây dựng tại một địa điểm nhất
định nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người như đi lại ,học hành chữa bệnh phcj
vụ sản xuất và dân sinh …
Đối với các công trình hạ tầng tthuộc các xã đặc biệt khó khăn ,vùng sâu vùng xa và
đồng bằng thiểu số …gọi chung công trình hạ tầng thuộc chương trình 135.Chủ yếu là
công trình hạ tầng có quy mô nhỏ với mức vốn đầu tư từ 1 tỷ đồng trở xuống được thực
hiện theo cơ chế đặc biệt để phù hợp với khả năng thực tế của cán bộ và đồng bằng các
dân tộc tại địa phương thuộc chương trình 135 .Đó là những công trình hạ tầng thiết yếu
phịc vụ cho sản xuất dân sinh góp phần xoá đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới.

Vai trò của việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng
Đầu tư xây dựng công trình hạ tầng có những vai trò chủ yếu sau
Thứ nhất ,nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào ,nhân dân .Thực tế động
bào ở nông thôn nói chung và các xã đặc biệt khó khăn nói riêng thì điều kiện về cơ sở
hạ tầng là rất khó khăn ,thường là khong có hoặc có nhưng rất đơn sơ,xuống cấp vì thế
khi chương trình được thực hiện thì cơ sở vật chất được cải thiện phần nào .Mặt khác
nhân dân ở các vùng này nói chung thường suốt ngày làm quần quật thường không có
các điều kiện để tham gia các hoạt động văn hoá vì thế khi chương trình được đưa vào
cuộc sống thì sẽ cải thiện được vấn đề này.Mặt khác nó còn giúp các vùng khó khăn
thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậuhoà nhập vào sự phát triển kinh tế chung của đất
nước.
Góp phần tạo điều kiện xoá đói giảm nghèo với mục tiêu cụ thể là đến năm 2000 không
còn hộ đói kinh niên mỗi năm giảm 4-5% hộ nghèo .Đến năm 2005 giảm tỷ lệ hộ
nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn xuống còn 25%.Các công trình hạ tầng phục vụ nhân
dân,giúp trẻ em có trường để học tập,nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân,từ quá
trình đó đào tạo ra nguồn nhân lực cho đất nước,tạo điều kiện cho nhân dân được tiếp
thu với các phương thức sản xuất mới ,kiến thức khoa học văn hoá xã hội,chủ động vận
dụng các kiến thức trên ghế nhà trường vào cuộc sống.
Các công trình hạ tầng như giao thông giúp cho giao thông trên các vùng khó khăn được
cải thiện đáng kể.Góp phần tạo ra sự giao lưu kinh tế giữa các vùng,các miền,các địa
phương từ đó tạo ra các mối quan hệ kinh tế giữa các vùng góp phần giúp kinh tế phát
triển đi lên.Thường thì ở các xã đặc biệt khó khăn thì phát triển kinh tế chủ yếu là nông
12/32
nghiệp và lâm nghiệp nên khi giao thông thuận lợi sẽ góp phần làm phong phú thêm các
hoạt động khác như thương nghiệp trong đó có sự buôn bán các sản phẩm nông nghiệp
.Điều đó làm tăng thu nhập cho đồng bào nhân dân các vùng này.
Các công trình hạ tầng như điện nó mang ánh sáng văn minh về các thôn bản .Có điện
sẽ rất lợi ích cho các hoạt động sản xuất cũng như tổ chức các hoạt động về văn hoá
…Điện giúp cho các hoạt động sản xuất được tiến hành dễ dàng hơnchẳng hạn như khi
áp dụng cơ khí hoá trong sản xuất trong nông nghiệp thì rất cần các nguồn năng lượng

như điện.Các công trình như bệnh viện thì giúp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân,điều trị
khám chữa bệnh cho nhân dân,giúp tăng lực sản xuất cho nhân dân….
13/32
Giới thiệu tổng quát chương trình 135
Sự cân thiết ra đời chương trình 135
Thực hiện công tác đổi mới dô Đảng cộng sản Việt Nam đè xướng và lãnh đạo ,với
mục tiêu “Dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng dân chủ văn minh “,hơn 10 năm
(1986_1998)chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm đổi mới công tác
quản lý nền kinh tế ,giải phóng lực lượng sản xuất ,khơi dậy và phát huy tiềm tàng của
các thành phần kinh tế ,của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội nên đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn .Kinh tế tăng trưởng khá ,đời sống nhân dân được nâng cao ,công tác quốc
phòng an ninh ,chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo .Tuy nhiên quá trình
chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo ra sự phân hoá giàu
nghèo càng gay gắt giữa các vùng các miền ,khu vực giữa các tầng lớp dân cư trong xã
hội .Để khắc phục tình trạng này ,Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiên chiến lược
phát triển ,tăng trưởng đi đôi với xóa đói giảm nghèo ,thực hiện công bằng xã hội ;ưu
tiên phát triển các vùng động lực ,các ngành kinh tế chủ chốt ,tạo nguồn thu cho ngân
sách ,có tích luỷ để có điều kiện vật chất hỗ trợ chô vùng khó khăn .Yêu cầu của quá
trình đổi mới là phải có những chính sách hợp lý ,đáp ứng được mục tiêu phát triển của
cả nước ,đồng thời thực hiện công bằng xã hội phải có những chính sách đặc thù ,phải
có nguồn lực hỗ trợ cho các địa phương nghèo cùng phát triển .Để thực hiện chương
trình nàythủ tướng chính phủ đã có quyết định phê duyệt chương trình mục tiêu chương
trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo.Đây là một chương triình quan trọng của
đất nước.
Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ đã được xác đình trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ bảy và lần thứ tám,mục tiêu đề ra là đến hết năm 2000 tỷ lệ hộ đói nghèo
bình quân trong cả nước xuống còn 10% nhưng đến năm 1998 vẫn còn 17% .Nguyên
nhân chủ yếu là do công tác xoá đói giảm nghèo thực hiện còn nhiều hạn chế,nguồn
vốn xoá đói giảm nghèo còn hạn hẹp,còn quá nhiều các xã đặc biệt khó khăn vẫn còn
khá nhiều,nhiều xã quá rộng có địa hình khá phức tạp ,dân cư thưa thớt ,nhiều tập tục

lạc hậu trong sản xuất và đời sống đã làm hạn chế khả năng phát triển kinh tế của các
vùng này.Nhưng một nguyên nhân sâu sắc nhất đó là chưa có chương trình quốc gia và
những chính sách đặc biệt hướng tới các vùng này.Để giải quyết và đáp ứng đòi hỏi đó
chính phủ đã ban hành quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 phê duyệt chương
trình phát triển kinh tế –xã hội các xã đặc biệt khó khăn(sau này gọi là chương trình
135).Chương trình 135 là chương trình quốc gia được chính phủ ban hành với mụctiêu
sử dụng các nguồn vốn trong đó vốn ngân sách nhà nước là chủ yếu,bên cạnh đó còn
tận dụng cũng như huy động các nguồn vốn khác nhằm sử dụng tối đa các nguồn vốn
cho công tác xóa đói giảm nghèo .Chương trình bên cạnh hỗ trợ phát triển kinh tế còn
có vai trò xoá bỏ các tập tục lạc hậu trong đời sống hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như nâng cao trình độ văn hoá cho đồng bào ,giúp đồng bào các vùng này tiếp
14/32
cận với các phương thức sản xuất tiến bộ hơn,giúp đồng bào có điều kiện đẻ phát triển
tốt hơn.Từ khi có chương trình 135 đến nay nhiều khu vực đặc biệt khó khăn đã được
hỗ trợ phát triển sản xuất ,tạo chuyển biến khá căn bản trong tăng trưởng kinh tế ,giảm
nghèo và phát triển xã hội .Hoạt động chương trình phải được hưởng ứng tích cực từ
phía nhân dân cũng như phối hợp tích cực từ chính quyền địa phương các cấp.Hoạt động
của chương trình nhằm ra sự phát triển cân đối kinh tế giữa các vùng ,các ngành,các địa
phương.Thực tế đó đã bổ sung tương đối căn bản lý luận về đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Các
công trình hạ tầng 135 được tiến hành công khai dân chủ được hội đồng nhân dân xã
quyết định danh mục,quy mô thứ tự ưu tiênđầu tư và khả năng huy động nguồn lực tại
xã để xây dựng công trình nên đã nâng cao được vai trò của người dân trong việc thực
hiện dự án.Các dự án sẽ được thiết kế theo phương pháp mới là trao quyền cho cấp xã và
cộng đồng tự quyết định.Theo phương châm “dân biết dân bàn dân làm dân kiểm tra”.
Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Quan điểm chỉ đạo
- Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển đất nước đã được khẳng định
trong các văn kiện Đại hội Đảng là đảm bảo phát triển hài hoà giữa tăng trưởng với công
bằng xã hội, từ đó hệ thống chính sách phát triển đã được hoạch định trên những quan

điểm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cẩ khâu phân
phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện
cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Tạo điều kiện
cho tất cả các vùng đều phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng cảu mỗi
vùng để hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết giữa các vùng, tạo nên sự phát
triển kinh tế, xã hội mạnh mẽ của cả nước. Kết hợp phát triển có trọng điểm với phát
triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng
giữa các vùng, điều tiết một phần tích luỹ từ nền kinh tế để hỗ trợ cho vùng khó khăn.
Vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu căn cứ cách mạng được xác định
là địa bàn còn nhiều khó khăn nhất cần được hỗ trợ, nhằm tạo điều kiện ban đầu để các
vùng đó từng bước vươn lên, hoà nhập với cả nước cùng phát triển.
- Thực hiện công bằng xã hội được thể hiện trên mọi phương diện, trong đó việc tạo cơ
hội cho mọi tầng lớp dân cư thuộc mọi dân tộc có điều kiện tham gia vào quá trình phát
triển là hết sức cần thiết, thể hiện trên các mặt: được bình đẳng trong việc đầu tư phát
triển hạ tầng, hỗ trợ sản xuất,phát triển kinh tế, văn hoá, giải quyết vấn đề xã hội, cải
thiện cuộc sống của đồng bào các dân tộc…, được trực tiếp đóng góp công sức, vật lực
của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng thôn xóm cho xây dựng quên hương mình;
được đào tạo nâng cao kiến thức sản xuất, tổ chức cuộc sống, nâng cao năng lực mọi
mặt cho cán bộ và người dân trong vùng; giúp họ tham gia sản xuất hàng hoá để trao đổi
15/32
với bên ngoài; được cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, định hướng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh; được tiếp cận với các dịch vụ xã hội khác.
Vùng ĐBKK miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số có vai trò quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc. Từ xa
xưa, các cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm đều lấy vùng sâu, vùng xa làm căn cứ;
trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng này tiếp tục được dùng
làm căn cứ, làm an toàn khu, đồng bào các dân tộc trong vùng đã hết lòng ủng hộ cách
mạng, ủng hộ kháng chiến, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Sau khi chiến
tranh kết thúc, đất nước rơi vào khó khăn mới nên chưa có điều kiện hỗ trợ cho các vùng

này, nay cần được đền đáp lại một cách xứng đáng. Vì vậy, đây là đối tượng và phạm vi
đầu tư của Chương trình 135.
Mục tiêu phát triển của các vùng lãnh thổ
Dựa trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong các
kỳ Đại hội Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định về quy hoạch, kế hoạch dài
hạn, kế hoạch 5 năm đối với các vùng đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, vùng công nghiệp
và vùng nông nghiệp hàng hoá; nhìn chung các vùng trên có nhiều điều kiện thuận lợi
và có định hướng rõ ràng, vấn đề đặt ra là tạo điều kiện thu hút nguồn lực để đảm bảo
chất lượng và tốc độ phát triển. Riêng vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là
địa bàn có nhiều khó khăn, là vùng ít có cơ hội thuận lợi, khó huy động nguồn lực nên
cần được Nhà nước ưu tiên đầu tư, tạo điều kiện hỗ trợ ban đầu, để:
- Trước mắt thực hiện chương trình XĐGN, việc làm, tạo thu nhập nâng cao đời sống
cho đồng bào các dân tộc trong vùng.
- Từng bước tăng khả năng khai thác các lợi thế và nguồn lực tại chỗ giải quyết việc
làm, tăng nguồn thu cho ngân sách.
- Tạo bước đi ban đầu để tăng tính hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư.
Việc lựa chọn những đại bàn xung yếu, những lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ phát triển là
nhiệm vụ bức thiết có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển kinh tế - xã hội khu vực
này.
1. Sự hình thành các khu vực phát triển ở các xã miền núi, vùng dân tộc thiểu số nước
ta trước khi có chương trình 135
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1997), tình hình kinh tế - xã hội
miền núi và vùng dân tộc thiểu số ở nước ta đã đạt được những tiến bộ đáng kể, đến cuối
năm 1996 đã hình thành 3 khu vực phát triển với trình độ khác nhau:
16/32
- Khu vực I: gồm các khu trung tâm đô thị, các thị trấn, các khu công nghiệp: có 806
xã, phường; 1.068.845 hộ với 5.275.369 người, chiếm tỷ lệ 39,02% dân số của các tỉnh
miền núi và vùng dân tộc.
Nét nổi bật của khu vực này là kinh tế hàng hoá phát triển khá, là vùng động lực phát
triển chính của các tỉnh, huyện miền núi; GDP bình quân đầu người có địa phương đạt

cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã được xây
dựng tương đối đồng bộ, bước đầu phục vụ tốt sản xuất, đời sống đồng bào. Trình độ
dân trí, đời sống văn hoá - xã hội cộng đồng khá tiến bộ.
- Khu vực II: là khu vực đệm giữa khu vực I (đô thị…) với khu vực III (vùng sâu, vùng
xa…); có 1.737 xã, phường; 1.516.005 hộ với 7.764.202 người, chiếm tỷ lệ 44,18% dân
số của các tỉnh miền núi và vùng dân tộc.
Nhìn chung kinh tế khu vực này phát triển chậm, sản phẩm hàng hoá ít; GDP bình quân
đầu người chỉ bằng 70% mức bình quân chung cả nước; sản xuất nông lâm nghiệp còn
nhiều hạn chế, một bộ phận dân cư còn phát rừng làm rẫy, khả năng tái du canh du cư
và tái trồng cây thuốc phiện còn nhiều; đời sống kinh tế tuy đã được cải thiện nhưng
thiếu bền vững. Số hộ đói nghèo chiếm tỷ lệ cao (20-50%). Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội đã được xây dựng nhưng chưa đồng bộ hoặc còn tạm bợ, chưa phục vụ tốt sản xuất,
đời sống đồng bào. Mặt bằng dân trí còn thấp, đời sống văn hoá -xã hội cộng đồng còn
nhiều mặt hạn chế so với khu vực I.
- Khu vực III: gồm 1.557 xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên. Vùng căn cứ
kháng chiến; có 799.034 hộ với 4.533.598 người, chiếm tỷ lệ 25,8% dân số của các tỉnh
miền núi và vùng dân tộc.
Đây là khu vực còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội rất yếu kém (còn 672
xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xa) - nhiều nơi thiếu đất canh tác nông nghiệp,
thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên, tự cấp, tự túc,
phát, đốt rừng làm rẫy, sống du canh du cư hoặc định cư nhưng còn du canh… Số hộ đói
nghèo chiếm trên 60%. GDP bình quân đầu người chỉ bằng 31% mức bình quân chung
cả nước. Trình độ dân trí rất thấp, số người mù chữ, thất học chiếm trên 60%. Đời sống
văn hoá - xã hội cộng đồng chậm cải thiện, thiếu thông tin liên lạc, truyền thanh, truyền
hình nhiều nơi chưa đến dân… Tuy nhiên, khu vực này lại có vị trí rất quan trọng đối
với quốc phòng, an ninh và là vùng đầu nguồn của các con sông lớn nên có vai trò to
lớn bảo vệ môi trường sinh tái của cả nước.
Để tạo điều kiện cho các khu vực khai thác lợi thế của mình, đẩy nhanh nhịp độ phát
triển kinh tế - xã hội trong những năm tới, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xác định đúng cơ chế đầu tư và có chính sách hỗ trợ phát

triển phù hợp với điều kiện và trình độ của từng khu vực.
17/32
*. Cơ chế đầu tư đối với từng khu vực
- Đối với khu vực I: Cần tạo điều kiện cho khu vực này tiếp tục phát triển với nhịp độ
cao hơn hoặc bằng mức bình quân chung cả nước, phát huy vai trò vùng động lực, thúc
đẩy ở các vùng phụ cận phát triển, làm đầu mối giao lưu với các vùng khác trong nước
và với nước ngoài. Cơ chế đầu tư thích hợp với khu vực là tích cực huy động nguồn lực
từ cộng đồng, sử dụng vốn vay trong nước và nước ngoài để phát triển là chính. Nhà
nước hỗ trợ chủ yếu cho việc hoàn thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã
có, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho sản xuất và đời sống của dân cư trong vùng.
- Đối với khu vực II: Tuy có nhiều tiềm năng phát triển nhưng trước mắt còn nhiều khó
khăn, hạn chế. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước, kết hợp với
các nguồn lực từ cộng đồng để xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội.
Huy động các nguồn vốn trong dân và vốn tín dụng Nhà nước cho vay với lãi suất ưu
đãi, giúp đồng bào khai thác lợi thế của địa phương, mở rộng diện tích trồng cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây được dược liệu, phát triển chăn nuôi hình thành vùng nguyên
liệu có khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng lớn và đa dạng, tạo nguồn thu nhập để
xoá đói giảm nghèo, thực hiện định canh định cư và bỏ trồng cây thuốc phiện một cách
bền vững.
- Đối với khu vực III: đây là khu vực có nhiều khó khăn nhất, trình độ phát triển thấp
kém nhất, đòi hỏi Nhà nước phải tập trung đầu tư một cách đồng bộ theo chương trình,
dự án phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn huyện-xã. Các ngành, các cấp phải
tăng cường đi sâu chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện các chương trình lồng ghép trên địa
bàn đảm bảo đưa lại lợi ích thiết thực cho đồng bào. Những nơi cơ sở quá yếu phải có
cán bộ tăng cường đến công tác trực tiếp hướng dẫn đồng bào thực hiện xoá đói giảm
nghèo và xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh.
Những nhiệm vụ cơ bản về phát triển vùng ĐBKK
- Bố trí lại sản xuất
Bố trí lại sản xuất là một trong những nhiệm vụ cơ bản thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời
sống của đồng bào các dân tộc. Để thực hiện nhiệm vụ này phải dựa vào quy hoạch, kế

hoạch phát triển của địa phương, phải lấy hiệu quả kinh tế làm trọng tâm, phải phát huy
mọi nguồn lực trong dân cư để bố trí lại sản xuất, sắp xếp quy mô và cơ cấu sản xuất,
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của những vùng khó khăn một cách hợp lý. Trên
thực tế, việc ổn định đời sống đồng bào các xã khu vực III và các thôn bản ĐBKK của
xã khu vực II chủ yếu dựa vào phát triển nông nghiệp, nhằm tăng thu nhập cho người lao
động thông qua biện pháp tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng biện pháp kỹ thuật,
kể cả khâu bảo quản sau thu hoạch, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Vì vậy ở
vùng ĐBKK đòi hỏi từng bước hình thành các vùng sản xuất hàng hoá từ cây trồng, vật
nuôi, gắn với chế biến và tiêu thụ. Để hỗ trợ phát triển cho các ngành nông lâm nghiệp
18/32
và từng bước tiến hành công nghiệp hoá nông thôn, tập trung nghiên cứu phát triển các
cơ sở công nghiệp sơ chế quy mô vừa và nhỏ, khai thác các mỏ nhỏ, phát triển các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp kết hợp tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hoá cho mọi người
dân. Nguồn vốn đầu tư vào khu vực này chủ yếu từ ngân sách, tín dụng ưu đãi và vốn
dân cư; ở những địa phương quá khó khăn, trung ương xem xét hỗ trợ vốn ngân sách để
đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội; vốn tín dụng hỗ trợ phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp,
xoá đói giảm nghèo. Nhà nước phải có biện pháp tập trung vốn ngân sách đầu tư theo
chương trình tổng hợp và có sự chỉ đạo chặt chẽ giúp cho khu vực này phát triển mới cơ
hiệu quả.
Quy hoạch bố trí lại dân cư thôn bản ở xã ĐBKK
- Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1996 - 2010 của từng
địa phương, điều kiện tự nhiên, tính chất đặc điểm của từng vùng, khả năng đất đai, tập
quá từng dân tộc để bố trí lại các cụm dân cư theo phương châm không gây ra những
biến động lớn trong đời sống nhân dân, điều chỉnh dân cư từng bước để đạt mục đích,
yêu cầu tổng thể về sắp xếp lại sản xuất, ổn định xã hội và nâng cao đời sống đồng bào
các dân tộc. Trong đó quy hoạch phát triển hệ thống giao thông là khâu đột phá, đi trước
một bước trong quá trình hình thành các cụm dân cư, các thị trấn, thị tứ, các TTCX, từ
đó hình thành và phát triển các vùng kinh tế hàng hoá.
- Trên phạm vi miền núi, việc bố trí dân cư phải gắn với việc thực hiện chương trình
định canh định cư theo các dự án ổn định và phát triển, chương trình hỗ trợ dân tộc đặc

biệt khó khăn, chưong trình quốc gia 06/CP… và các chính sách xã hội. Trên quan điểm
tận dụng lao động, việc sắp xếp lại các cụm dân cư phải gắn với quy hoạch phát triển
các vùng nguyên liệu, các cơ sở chế biến. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng vùng mà
phát triển cây trồng, vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến, công nghiệp khai khoángm
vật liệu xây dựng, ngành nghề truyền thống với quy mô thích hợp để sản xuất nhiều sản
phẩm hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đối với các vùng biên giới
nhiệm vụ an ninh, quốc phòng cần được coi trọng hơn. Việc tạo ra các tụ điểm dân cư
dọc tuyến biên giới không những có ý nghĩa trong việc phát triển các ngành kinh tế có
lợi, khai thác các nguồn lực sẵn có, nhất là khai thác các cửa khẩu biên giới, mà còn có
ý nghĩa chiến lược về an ninh biên giới, mở ra khả năng tăng cường giao lưu văn hoá,
phát triển tình đoàn kết hữu nghị với các nước láng giềng. Nhiệm vụ quy hoạch lại dân
cư trước mắt được triển khai trong khuôn khổ thôn bản của xã ĐBKK, đảm bảo bốn lợi
ích.
+ Đưa dân sống phân tán vào hoạt động trong các cộng đồng thôn bản
+ Tiết kiệm đất sản xuất theo quy hoạch
+ Ngăn chặn bọ tội phạm, bọn phản động thù địch lợi dụng hoạt động gây mất ổn định.
19/32
+ Thuận lợi và tiết kiệm cho việc đầu tư hạ tầng.
Xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
- Nâng cấp và xây dựng mới các tuyến đường giao thông là nhiệm vụ hàng đầu trong
việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở miền núi. Nguồn vốn đầu tư làm đường giao thông do
ngân sách Nhà nước cấp và dựa vào sự đóng góp của nhân dân. Ưu tiên đầu tư nâng cấp
và xây dựng các tuyến đường dọc biên giới và đường đến các huyện vùng sâu, vùng xa.
Đường giao thông từ tỉnh đến huyện và trung tâm cụm xã do Nhà nước đảm nhận và
đảm bảo thông suốt bốn mùa. Đường từ trung tâm xã đến các bản làng do dân làm là
chính, Nhà nước hỗ trợ một phần vật tư, xi măng, thuốc nổ, cáp làm cầu treo dân sinh.
Phương thức quản lý và xây dựng hệ thống đường ra biên giới, các tuyến đường phục
vụ an ninh, quốc phòng đã được xác định tại Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg ngày 6/
11/2003 của Chính phủ.
- Điện lưới quốc gia thông suốt đến các tỉnh lỵ, các huyện lỵ, các TTCX. Đối với những

nơi xa xôi hẻo lánh không kéo được điện lưới thì phát triển thuỷ điện nhỏ, cực nhỏ và
các nguồn năng lượng khác để đồng bào vùng dân tộc và miền núi được dùng điện trong
sản xuất và sinh hoạt.
- Về thuỷ lợi, trên phạm vi vùng miền núi, tập trung xây dựng các công trình thuỷ lợi
lớn, các hồ chứa nước để tưới tiêu cho các vùng cây công nghiệp; xây dựng một số công
trình thuỷ điện gắn với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái, cân bằng nguồn
nước và chống lũ. Xây dựng các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ phục vụ phát triển sản
xuất của từng vùng sinh thái. ở các xã ĐBKK chủ yếu cải tạo, nâng cấp, kiên cố hoá và
xây dựng mới các công trình thuỷ lợi quy mô nhỏ cấp nước tưới và sinh hoạt cho dân
cư.
- Tiếp tục đưa chương trình nước sạch vào phục vụ sản xuất cho đồng bào vùng dân tộc
và miền núi, ưu tiên giải quyết nước sạch ở khu vực III và phần khó khăn của khu vực
II. Phấn đấu đến năm 2005 có 75% số dân vùng dân tộc và miền núi được dùng nước
sạch, bảo đảm đủ nước sinh hoạt cho các đồn biên phòng.
- Về cơ sở hạ tầng xã hội: mục tiêu cơ bản là tạo điều kiện thuận lợi ở mức tương đối về
giáo dục cơ sở, nhiệm vụ cơ bản là hoàn thành việc xây dựng các trường phổ thông nội
trú ở TTCX, trường bán trú ở xã. Mục tiêu chăm sóc sức khoẻ trong những năm trước
mắt là các trung tâm cụm xã đều có trạm y tế/ phòng khám đa khoa; ở thôn, xã, bản có
phát hình và phát thanh các xã, các đồn biên phòng có thể liên lạc bằng điện thoại… để
đồng bào được hưởng các dịch vụ văn hoá phúc lợi xã hội.
Đầu tư hạ tầng trên địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, trước hết đầu tư cho lĩnh vực
giao thông, phát triển kinh tế - văn hoá- xã hội; đồng thời đầu tư các loại công trình khác
20/32
phục vụ cho phát triển sản xuất, tạo nghề mới tỏng nông thôn, tạo cơ sở vật chất phục
vụ văn hoá, dân sinh.
Tiêu chí phân định 3 khu vực
Để có cơ sở hỗ trợ đầu tư, vận dụng thực hiện các chủ trương chính sách sát hợp với
từng khu vực, từng đối tượng ở vùng dân tộc- miền núi, Thủ tướng Chính phủ có văn
bản số 7189/ĐP1 ngày 14/12/1995 về việc công bố tiêu chí 3 khu vực miền núi, vùng
cao; giao uỷ ban Dân tộc và Miền núi công bố tiêu chí này và hướng dẫn các địa phương

thực hiện để làm căn cứ cho việc lập và xét duyệt kế hoạch, dự án đầu tư, thực hiện
chính sách đối với miền núi và dân tộc. Uỷ ban Dân tộc và Miền núi có thông tư số 41/
UB-TT ngày 08/01/1996 quy định và hướng dẫn thự hiện tiêu chí từng khu vực ở vùng
dân tộc-miền núi theo trình độ phát triển của từng vùng nói trên. Cơ sở để phân định khu
vực là dựa theo trình độ phát triển cụ thể của từng xã theo năm tiêu chí sau:
Dựa theo điều kiện tự nhiên, địa bàn cư trú: được chia thành 3 vùng
+ Vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
+ Vùng ảnh hưởng của các trung tâm phát triển: thị xã, thị trấn, thị tứ
+ Vùng kinh tế hàng hoá phát triển, ven các quốc lộ, tỉnh lộ, đường ô tô liên huyện, liên
xã, … hoặc ở vùng đệm giữa các trung tâm phát triển và vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Cơ sở hạ tầng hiện có
Đường giao thông, điện và các nguồn năng lượng khác, thuỷ lợi phục vụ sản xuất và cấp
nước sinh hoạt dân cư. Trong đó đặc biệt quan tâm là:
+ Đường giao thông gồm có: đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ, đường liên huyện, liên xã);
đường sắt chạy qua và ga đường sắt đặt tại khu vực; sân bay; đường thuỷ.
+ Điện lưới quốc gia, thuỷ điện nhỏ, các nguồn năng lượng khác…
+ Thuỷ lợi: Năng lực tưới tiêu cho diện tích lúa, công công nghiệp…kết hợp thuỷ lợi
với giải quyết vấn đề nước sạch: các công trình nước sạch, giếng khoan, bể chứa…
Các điều kiện hạ tầng được đánh giá và xem xét trên cơ sở quy mô, cấp hạng kỹ thuật,
năng lực của các công trình so với đòi hỏi của yêu cầu sản xuất và đời sống của đồng
bào trong khu vực.
21/32
Các yếu tố xã hội
Trình độ dân trí, các vấn đề về y tế, văn hoá, xã hội. Quy mô và chất lượng các cơ sở
trường học, chữa bệnh, phát thanh, truyền hình, văn hoá…
Trình độ dân trí: trình độ văn hoá, tỷ lệ mù chữ, khả năng tiếp thu và vận dụng các chủ
trương, chính sách, tiến bộ khoa học kỹ thuật…; các vấn đề về y tế: phòng chống dịch
bệnh, bảo đảm sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình; đời sống văn hoá tiến bộ hay lạc hậu.
Quy mô và chất lượng các công trình hạ tầng xã hội như: trường học, cơ sở chữa bệnh,
phát thanh, truyền hình, các cơ sở văn hoá…; mức độ đáp ứng nhu cầu cơ bản về xã hội

của dân cư.
Điều kiện sản xuất
- Diện tích đất cho sản xuất nông lâm nghiệp tính bình quân cho hộ gia đình hoặc cho
đầu người. Công cụ phục vụ sản xuất; trình độ sản xuất; cơ cấu ngành nghề; kết quả sản
xuất và hoạt động kinh doanh trao đổi hàng hoá.
- Diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đại gia súc, gia cầm, tính bình quân cho
một hộ, một người, công cụ sản xuất thô sơ hay mức độ cơ giới hoá còn hạn chế…
- Trình độ thâm canh cây trồng vật nuôi; mức độ áp dụng khoa học công nghệ vào sản
xuất, cơ cấu sản xuất: lâm nghiệp, nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch
vụ.
- Trình độ sản xuất hàng hoá, hình thành vùng hàng hoá với những sản phẩm hàng hoá
chủ yếu; hình thành thị trường hàng hoá; trung tâm thương mại, chợ khu vực, khả năng
giao lưu hàng hoá.
Về đời sống
Phân loại hộ đói nghèo theo "chuẩn mực đói nghèo và mức độ đói nghèo ở Việt Nam"
do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quy định tại báo cáo số 13.266/LĐ-TBXH.BT
ngày 29/8/1995. Đơn vị chuẩn để xác định đói nghèo là mức thu nhập của hộ gia đình
được quy đổi ra gạo tính bình quân đầu người hàng tháng:
Hộ nghèo:
Dưới 25 kg gạo ở thành thị
Dưới 20 kg gạo ở nông thôn vùng đồng bằng và trung du
Dưới 15 kg gạo ở nông thôn miền núi
22/32
Hộ đói:
Dưới 13kg gạo ở bất kể vùng nào.
Dựa theo 5 tiêu chí trên, phân các xã thuộc khu vực miền núi, vùng cao của cả nước theo
3 khu vực:
Khu vực I: khu vực bước đầu phát triển.
Khu vực II: khu vực tạm ổn định.
Khu vực III: khu vực khó khăn.

Đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 2974/
ĐP1 ngày 13/6/1997 đồng ý Uỷ ban Dân tộc và miền núi vận dụng tiêu chí 3 khu vực
miền núi, vùng cao (quy định tại Thông tư 41/UB-TT ngày 8/1/1996 của UBDT&MN)
để phân định khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, nơi đồng bào Khmer,
Chăm và các dân tộc thiểu số khác đang sinh sống ở đồng bằng thuộc các tỉnh phía Nam.
Những căn cứ cụ thể để xác định khu vực khó khăn:
- Địa bàn cư trú: gồm các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao hẻo lánh, vùng biên giới hải
đảo. Khoảng cách của các xã đến các khu trục động lực phát triển trên 20km (riêng các
tỉnh ĐBSCL khoảng cách này là trên 10km).
- Cơ sở hạ tầng: chưa được xây dựng hoặc còn tạm bợ. Giao thông rất khó khưn, không
có đường ô tô vào xã. Các công trình điện, thuỷ lợi, nước sạch, trường học, bệnh xá,
dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
- Các yếu tố xã hội: chưa đạt mức tối thiểu. Dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ và thất
học trên 60%, bệnh tật nhiều, tập tục lạc hậu, không có thông tin, v.v… (riêng các tỉnh
ĐBSCL tỷ lệ thất học và mù chữ trên 50%).
- Điều kiện sản xuất: rất khó khăn, thiếu thốn. Sản xuất mang tính tự nhiên hái lượm,
chủ yếu phát rừng làm nương rẫy, du canh, du cư (riêng các tỉnh ĐBSCL: số hộ không
có và thiếu đất sản xuất trên 20% số hộ của xã; số hộ làm thuê trên 20% số hộ của xã).
- Về đời sống: số hộ đói nghèo trên 60% số hộ của xã. Đời sóng thực sự khó khăn, nạn
đói thường xuyên xảy ra (riêng các tỉnh ĐBSCL số hộ nghèo đói trên 30% số hộ của
xã).
23/32

×