Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.5 KB, 23 trang )

Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn kinh
doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp thương mại
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn kinh
doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp thương mại
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Các tác giả:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. Khái niệm và phân loại vốn kinh doanh
2. Đặc điểm của vốn kinh doanh
3. Vai trò của vốn kinh doanh
4. Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại
5. Vốn cố định của doanh nghiệp thương mại
6. Sự cần thiết của việc sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả trong các doanh nghiệp
thương mại
7. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
thương mại
Tham gia đóng góp
1/21
Khái niệm và phân loại vốn kinh doanh
Khái niệm và phân loại vốn kinh doanh:
Khái niệm vốn kinh doanh:
Vốn có vai trò hết sức quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng
và nền kinh tế nói chung. Do vậy, từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm về vốn, ở mỗi
một hoàn cảnh kinh tế khác nhau thì có những quan niệm khác nhau về vốn.


Theo quan điểm của Mác, dưới góc độ các yếu tố sản suất, Mác cho rằng: Vốn (tư bản)
là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá trình sản suất. Định nghĩa của Mác
về vốn có tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ bản chất và vai trò của vốn. Bản chất
của vốn là giá trị, mặc dù nó được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: tài sản cố
định, nguyên vật liệu, tiền công Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ phát triển của nền
kinh tế, Mác chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản suất vật chất và cho rằng
chỉ có quá trình sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Đây là một hạn chế
trong quan niệm về vốn của Mác.
P.A.Samuelson, đại diện tiêu biểu của học thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại, coi đất
đai và lao động là các yếu tố ban đầu sơ khai, còn vốn và hàng hoá chỉ là kết quả của
sản xuất. Vốn bao gồm các loại hàng hoá lâu bền được sản xuất ra và được sử dụng như
các đầu vào hữu ích trong quá trình sản xuất sau đó. Một số hàng hoá vốn có thể tồn tại
trong vài năm, trong khi đó một số khác có thể tồn tại trong một thế kỷ hoặc lâu hơn.
Đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá vốn thể hiện ở chỗ chúng vừa là sản phẩm đầu ra
vừa là yếu tố đầu vào trong sản xuất. Về bản chất vốn là phương pháp sản xuất gián tiếp
tốn thời gian.
David Begg, trong cuốn “Kinh tế học” ông đã đưa ra hai định nghĩa về vốn là: Vốn hiện
vật và vốn tài chính cùa doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất
ra để sản xuất các hàng hoá khác. Vốn tài chính là các giấy tờ có giá và tiền mặt của
doanh nghiệp. Như vậy, đã có sự đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp trong định
nghĩa của David Begg.
Qua các khái niệm trên cho thấy, doanh nghiệp dù hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào
cũng cần có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn đó dùng để thực hiện các khoản đầu
tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, chí phí mua sắm tài sản cố định, nguyên
vật liệu Vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ
đó tạo ra sản phẩm, dịch vụ phục vụ nhu cầu thị trường. Số tiền mà doanh nghiệp thu
về sau khâu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ phải bù đắp được các chi phí bỏ ra, đồng thời
2/21
phải có lãi. Quá trình này diễn ra liên tục đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.

Hiện nay khái niệm vốn kinh doanh được sử dụng phổ biến là:
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại (DNTM) là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ tài sản và các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh doanh bao
gồm:
- Tài sản hiện vật như: nhà kho, cửa hàng, hàng hoá dự trữ
- Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng và đá quí.
- Bản quyền sở hữu trí tuệ và các tài sản vô hình khác.
Phân loại vốn kinh doanh:
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại có thể được xem xét, phân loại theo các
tiêu thức sau:
* Theo giác độ pháp luật:
- Vốn pháp định: là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo năng lực kinh doanh đối với
từng ngành nghề, từng loại hình doanh nghiệp do pháp luật qui định. Dưới mức vốn
pháp định thì không thể đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp.
Theo Nghị Định 221 và 222 HĐBT ngày 23/07/1991 cụ thể hoá một số điều qui định
trong luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân qui định:
+ Vốn pháp định đối với ngành kinh doanh tư liệu sản xuất cho công ty trách nhiệm hữu
hạn là 150 triệu đồng, công ty cổ phần là 500 triệu và doanh nghiệp tư nhân là 80 triệu
đồng.
+ Vốn pháp định cho các cửa hàng dịch vụ của công ty trách nhiệm hữu hạn là 50 triệu
đồng, công ty cổ phần là 200 triệu đồng, doanh nghiệp tư nhân là 20 triệu đồng.
- Vốn điều lệ: là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh
nghiệp. Tuỳ theo ngành nghề và loại hình doanh nghiệp nhưng vốn điều lệ không được
nhỏ hơn vốn pháp định.
* Theo giác độ hình thành vốn kinh doanh:
3/21
- Vốn đầu tư ban đầu: là số vốn phải có khi thành lập doanh nghiệp, tức là số vốn cần
thiết để đăng kí kinh doanh. Đó là vốn đóng góp của các thành viên công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty tư nhân hoặc vốn của nhà nước giao.
- Vốn bổ sung: là số vốn tăng thêm do trích từ lợi nhuận, do ngân sách nhà nước cấp, sự

đóng góp của các thành viên, do bán trái phiếu… bổ sung để tăng thêm vốn kinh doanh.
- Vốn liên doanh: là vốn do sự đóng góp của các bên khi tiến hành cam kết liên doanh,
liên kết với nhau trong hoạt động thương mại, dịch vụ.
- Vốn đi vay: trong hoạt động kinh doanh, ngoài số vốn chủ sở hữu, vốn liên doanh để
có đủ vốn kinh doanh doanh nghiệp phải đi vay của ngân hàng trong và ngoài nước.
* Theo giác độ chu chuyển vốn kinh doanh:
- Vốn cố định: là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định bao gồm: toàn bộ những tư liệu
lao động có hình thái vật chất cụ thể có đủ tiêu chuẩn giá trị và thời gian sử dụng qui
định.
- Vốn lưu động: là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông.
+ Tài sản lưu động là những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn giá trị và thời gian sử
dụng để xếp vào tài sản cố định.
+ Bộ phận quan trọng của vốn lưu động là dự trữ hàng hoá, vốn bằng tiền như tiền gửi
ngân hàng, tiền mặt tồn quỹ các khoản phải thu ở khách hàng
Việc phân chia các loại vốn này có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động kinh doanh thương
mại. Vì tính chất của chúng rất khác nhau và hình thức biểu hiện cũng khác nhau nên
phải có các biện pháp thích ứng để nâng cao hiệu quả sử dụng các loại vốn này.
4/21
Đặc điểm của vốn kinh doanh
Đặc điểm của vốn kinh doanh:
Đặc điểm của vốn lưu động:
Vốn lưu động dùng trong kinh doanh thương mại tham gia hoàn toàn vào quá trình kinh
doanh giá trị của nó có thể trở lại hình thái ban đầu sau mỗi vòng chu chuyển hàng hoá.
Vốn lưu động luôn luôn biến đổi hình thái từ tiền sang hàng và từ hàng sang tiền. Vốn
lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động bao gồm vốn dự trữ hàng
hoá, vốn bằng tiền và tài sản khác.
Do nhiệm vụ của doanh nghiệp thương mại là thực hiện lưu chuyển hàng hoá và thực
hiện các hoạt động dịch vụ, vì vậy cơ cấu và tính chất lưu chuyển của vốn khác hẳn so
với các đơn vị sản xuất. Trong doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động là khoản vốn
chiếm tỉ trọng lớn nhất khoảng 70 – 80% vốn kinh doanh trong đó, bộ phận dự trữ hàng

hoá chiếm tỉ lệ cao.
Ở mỗi thời điểm nhất định, vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại thường thể hiện
ở các hình thái khác nhau như: hàng hoá dự trữ, vật tư nội bộ, tiền gửi ngân hàng, tiền
mặt tồn quĩ, các khoản phải thu và các khoản phải trả.
Tuỳ từng doanh nghiệp, tuỳ thuộc phương thức và lĩnh vực kinh doanh mà vốn lưu động
của doanh nghiệp thương mại sẽ trải qua các thời kỳ chu chuyển khác nhau. Ví dụ vốn
của doanh nghiệp thương mại có sản suất gia công chế biến khác với đơn vị bán buôn,
đơn vị chuyên bán hàng qua kho sẽ khác với đơn vị chỉ bán hàng chuyển thẳng.
Đặc điểm của vốn cố định:
Vốn cố định biểu hiện dưới hình thái tài sản cố định. Theo Quyết Định – 1062/TC/QĐ/
CSTC ngày 14/11/1996 của Bộ Tài Chính: Mọi tư liệu lao động và mọi khoản chi phí
thực tế có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà đồng thời thoã mãn
hai điều kiện: có thời hạn sử dụng từ 1 năm trở lên và có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên
thì đều được coi là tài sản cố định.
Tài sản cố định tham gia nhiều lần vào quá trình kinh doanh, sau mỗi chu kỳ kinh doanh
vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, nên giá trị của nó được chuyển dần từng phần
vào giá trị của sản phẩm.
5/21
Tài sản cố định giữ nguyên hình thái vật chất của nó trong thời gian dài, chỉ tăng thêm
khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Tài sản cố định hao mòn dần, có hai loại
hao mòn: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình phụ thuộc mức độ sử dụng tài sản cố định và các điều kiện khác có
ảnh hưởng tới độ bền lâu dài của tài sản cố định như:
+ Hình thức và chất lượng của tài sản cố định.
+ Chế độ quản lý, sử dụng tài sản cố định.
+ Chế độ bảo vệ, bảo dưỡng, sữa chữa, thay thế thường xuyên, định kỳ đối với tài sản
cố định.
+ Trình độ kỹ thuật, tinh thần trách nhiệm của người sử dụng và sự quan tâm của cấp
lãnh đạo.
+ Các điều kiện tự nhiên và môi trường…

- Hao mòn vô hình chủ yếu là do tiến bộ khoa học- công nghệ mới và năng suất lao động
xã hội quyết định.
Tài sản cố định chuyển đổi thành tiền chậm hơn nhưng những tài sản cố định như: nhà
cửa, kho tàng, quầy hàng lại là những tài sản có giá trị cao, là bộ mặt của doanh nghiệp,
nên có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn.
Ngày nay, các doanh nghiệp thương mại thường đầu tư vốn cố định vào xây dựng nhà
làm việc, cửa hàng ở những đầu mối giao thông để tiện liên hệ với khách hàng và những
tài sản cố định như các thiết bị văn phòng được chú ý đầu tư nhằm thu hút và phục vụ
khách hàng tốt hơn.
6/21
Vai trò của vốn kinh doanh
Vai trò của vốn kinh doanh:
Vốn là một phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết cho bất cứ doanh nghiệp, ngành
nghề kinh tế kỹ thuật, dịch vụ nào trong nền kinh tế. Để tiến hành hoạt động kinh doanh
được, doanh nghiệp cần phải nắm giữ một lượng vốn nhất định nào đó. Số vốn này thể
hiện giá trị toàn bộ tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp trong hoạt động kinh
doanh. Vì vậy vốn kinh doanh có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động và
phát triển của doanh nghiệp. Cụ thể:
- Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại có vai trò quyết định trong việc
thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định. Nó là
điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp. Tuỳ theo nguồn của vốn kinh doanh, cũng như phương thức huy động vốn mà
doanh nghiệp có tên là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh
- Vốn kinh doanh là một trong số những tiêu thức để phân loại qui mô của doanh
nghiệp, xếp loại doanh nghiệp vào loại lớn, nhỏ hay trung bình và là một trong
những tiềm năng quan trọng để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiện
có và tương lai về sức lao động, nguồn cung ứng hàng hoá, mở rộng và phát triển
thị trường, mở rộng lưu thông hàng hoá. Bởi vậy các doanh nhân thường ví “buôn
tài không bằng dài vốn”.

- Trong cơ chế kinh doanh mới, trong điều kiện mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong sản suất kinh doanh. Vốn kinh doanh bao giờ cũng là cơ sở, là tiền đề để
doanh nghiệp tính toán hoạch định các chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Nó cũng là
chất keo để chắp nối, kết dính các quá trình và quan hệ kinh tế và nó cũng là dầu nhờn
bôi trơn cho cỗ máy kinh tế vận động có hiệu quả.
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là yếu tố giá trị. Nó chỉ phát huy được
tác dụng khi bảo tồn được và tăng lên được sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Nếu vốn không
được bảo toàn và tăng lên sau mỗi chu kỳ kinh doanh thì vốn đã bị thiệt hại, đó là hiện
tượng mất vốn. Sự thiệt hại lớn sẽ dẫn đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán sẽ
làm cho doanh nghiệp bị phá sản, tức là vốn kinh doanh đã bị sử dụng một cách lãng
phí, không hiệu quả.
7/21
Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại
Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại.
Thành phần và cơ cấu vốn lưu động.
Vốn lưu động là biều hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Vốn lưu
động biểu hiện ở cả hai hình thái khác nhau là: hình thái hiện vật và hình thái giá trị.
Tài sản lưu động của các doanh nghiệp thương mại gồm vật liệu đóng gói, bao bì, nhiên
liệu, dụng cụ và các thứ khác gọi chung là vật tư dùng cho hoạt động mua bán. Nội
dung vật chất của vốn lưu thông trong doanh nghiệp thương mại là hàng hoá để kinh
doanh, tiền nhờ ngân hàng thu và vốn bằng tiền. Nếu như vốn lưu động cần thiết đối với
doanh nghiệp sản suất để mua vật tư cho sản suất và tiêu thụ sản phẩm, thì đối với doanh
nghiệp thương mại, vốn lưu động cần thiết để dự trữ hàng hoá phục vụ kinh doanh, để
tổ chức công tác mua bán hàng hoá.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại được chia thành vốn lưu động định mức và
vốn lưu động không định mức.
- Vốn lưu động định mức: là số vốn tối thiểu cần thiết để hoàn thành kế hoạch lưu
chuyển hàng hoá và kế hoạch sản suất dịch vụ phụ thuộc của các doanh nghiệp trong kỳ.
Vốn lưu động định mức gồm có vốn dự trữ vật tư hàng hoá và vốn phi hàng hoá để phục
vụ cho quá trình kinh doanh.

+ Vốn dự trữ hàng hoá là số tiền dự trữ hàng hoá ở các kho, cửa hàng, trạm, trị giá
hàng hoá trên đường vận chuyển và trị giá hàng hoá thanh toán bằng chứng từ. Nó
nhằm đảm bảo lượng hàng hoá bán bình thường cho các nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng khác.
Vốn dự trữ hàng hoá chiếm tới 80 – 90% vốn lưu động định mức và thường chiếm
khoảng 50 – 70% trong toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
+ Vốn phi hàng hoá là số tiền định mức của vốn bằng tiền. Vốn phi hàng hoá gồm có
vốn bằng tiền và tài sản khác.
. Vốn bằng tiền gồm có: tiền mặt tồn quỹ, tiền bán hàng chưa nộp vào ngân hàng, tiền
ứng kinh phí cho các cơ sở, khoản tiền đang chuyển.
. Tài sản khác gồm: Bao bì, vật liệu bao gói, các công cụ nhỏ, chi phí đợi phân bổ. Ngoài
ra còn phụ tùng thay thế và dụng cụ nhỏ.
8/21
- Vốn lưu động không định mức là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình kinh
doanh và trong sản suất dịch vụ, nhưng không thể có đủ căn cứ để tính toán định mức
được.
Vốn lưu động không định mức gồm có: vốn bằng tiền (tiền mua hàng và giao cho nhân
viên đi mua hàng), tiền gửi ngân hàng, tài sản có kết toán (các khoản nợ nhờ ngân hàng
thu, các khoản nợ phải đòi ở khách hàng, tiền ứng trước để mua hàng, thanh toán công
nợ dây dưa…), các phế liệu thu nhặt trong ngoài vốn, tài sản chờ thanh lý
* Quá trình chu chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại:
- Với những doanh nghiệp thương mại thuần tuý, thì quá trình chu chuyển của vốn lưu
động thường trải qua hai giai đoạn:
+ Giai đoạn I: Mua hàng hoá (T – H), vốn lưu động chuyển từ hình thái giá trị sang
hình thái hiện vật.
+ Giai đoạn II: Bán hàng hoá (H – T’), T’ = T + ΔT, vốn lưu động quay trở lại hình
thái ban đầu nhưng với số lượng lớn hơn.
Đầu tiên vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại
bằng hình thức tiền tệ. Điều đó có nghĩa là hàng hoá được mua vào không phải để
doanh nghiệp sử dụng mà để bán ra. Hàng hoá bán ra được tức là đã được khách

hàng chấp nhận và doanh nghiệp thương mại nhận được tiền doanh thu bán hàng
và dịch vụ. Toàn bộ vòng chu chuyển của vốn lưu động thể hiện bằng công thức
chung T – H – T’, trong đó T’ = T + Δ T.
Sự vận động của vốn lưu động trong hoạt động kinh doanh thương mại luôn luôn
trái với sự vận động của hàng hoá. Khi hàng hoá mua về doanh nghiệp thì phải trả
tiền, khi xuất hàng ra khỏi doanh nghiệp thì nhận được tiền. Kết quả của quá trình
vận động tiền tệ lại phản ánh đúng đắn kết quả của hoạt động kinh doanh: kinh
doanh lãi hay lỗ, mức độ lãi, lỗ.
- Với những doanh nghiệp thương mại có các đơn vị sản suất phụ thuộc (xí nghiệp,
xưởng, tổ, đội sản xuất) thì vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc gồm có: nguyên
vật liệu chính phụ, nhiên liệu, vốn tiền tệ và tài sản có kết toán. Vốn lưu động của những
đơn vị này trải qua ba giai đoạn:
+ Giai đoạn I: Biến tiền tệ thành dự trữ nguyên vật liệu chính phụ, nhiên liệu, phụ
tùng
+ Giai đoạn II: Biến nguyên nhiên vật liệu chính, phụ thành thành phẩm hàng hoá nhờ
kết hợp sức lao động và công cụ lao động.
9/21
+ Giai đoạn III: Biến thành phẩm hàng hoá thành tiền tệ.
Vốn lưu động phục vụ cho giai đoạn I, II là vốn sản xuất, vốn lưu động ở giai đoạn thứ
III là vốn lưu thông. Như vậy vốn lưu động của các đơn vị sản xuất phụ thuộc gồm có:
Vốn lưu động
của đơn vị = Vốn lưu động + Vốn lưu thông
sản xuất sản xuất
Thành phần vốn lưu động là tổng thể các loại và các nhóm những yếu tố vật chất khác
nhau (hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu ) dưới hình thái giá trị. Cơ cấu vốn lưu động là
quan hệ tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm đó so với toàn bộ giá trị vốn lưu động.
Trong nền kinh tế quốc dân, thành phần và cơ cấu vốn lưu động ở các doanh nghiệp có
sự khác nhau. Điều này do đặc điểm và tính chất hoạt động của ngành đó quyết định.
Kinh doanh thương mại là lĩnh vực lưu thông và phân phối hàng hoá nên vốn lưu động
chiếm tỉ lệ chủ yếu trong vốn kinh doanh, thành phần và cơ cấu vốn của nó cũng khác

với vốn lưu động trong công nghiệp và xây dựng.
Nguồn của vốn lưu động.
Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại gồm vốn tự có, vốn coi như tự có và
vốn đi vay:
- Vốn tự có gồm:
+ Nguồn vốn pháp định gồm: nguồn vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp trên cấp cho
đơn vị (vốn cấp lần đầu và cấp bổ sung), nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do các cổ đông
đóng góp hoặc vốn pháp định của chủ xí nghiệp tư nhân.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
(thông qua các quỹ khuyến khích phát triển sản xuất), các khoản chênh lệch giá hàng
hoá tồn kho.
+ Nguồn vốn liên doanh, liên kết gồm có các khoản vốn của các đơn vị tham gia liên
doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên liệu, vật liệu, công cụ lao
động
- Vốn coi như tự có: do phương pháp kế toán hiện hành có một số khoản tiền tuy không
phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu
động, người ta coi như là vốn tự có. Thuộc khoản này có: tiền thuế, tiền lương, bảo hiểm
xã hội, chi phí trích trước chưa đến hạn phải chi có thể sử dụng và các khoản nợ khác.
10/21
- Nguồn vốn đi vay: để bảo đảm kịp thời thanh toán với ngân hàng trong khi chưa bán
được hàng hoặc sự không khớp trong thanh toán, các doanh nghiệp thương mại phải
thường xuyên có liên hệ với các tổ chức cho vay như: ngân hàng công thương, các tổ
chức tín dụng, ngân hàng cổ phần để vay tiền. Nguồn vốn đi vay là một nguồn quan
trọng, tuy nhiên vay dưới các hình thức vay khác nhau có tỉ lệ lãi suất khác nhau và phải
trả kịp thời cả vốn và lãi vay khi bán được hàng.
11/21
Vốn cố định của doanh nghiệp thương mại
Vốn cố định của doanh nghiệp thương mại.
Thành phần và cơ cấu vốn cố định.
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Vốn này dùng để xây dựng và

trang bị các loại tài sản cố định khác nhau của doanh nghiệp. Tài sản cố định của doanh
nghiệp thương mại phản ánh cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, phản ánh năng
lực kinh doanh hiện có và trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp.
Đặc điểm cơ bản nhất của kinh doanh thương mại là gắn liền với quá trình phân phối
và lưu thông hàng hóa. Do đó vốn cố định của các doanh nghiệp thương mại thường
chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng số vốn kinh doanh. Cũng như các ngành khác, trong
thương mại vốn cố định biểu hiện dưới hai hình thái:
- Hình thái hiện vật: đó là toàn bộ tài sản cố định dùng trong kinh doanh của các doanh
nghiệp bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, công cụ, thiết bị đo lường thí nghiệm,
phương tiện vận tải, bốc dỡ hàng hoá
- Hình thái tiền tệ: đó là giá trị tài sản cố định chưa khấu hao và vốn khấu hao khi chưa
sử dụng để tái sản xuất tài sản cố định, là bộ phận vốn cố định đã hoàn thành vòng luân
chuyển và trở về hình thái tiền tệ ban đầu.
Tài sản cố định được phân loại theo những tiêu thức khác nhau:
- Theo hình thái biểu hiện, tài sản cố định bao gồm:
+ Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu, có hình thái vật chất, có
giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ
nguyên hình thái ban đầu như: kho tàng, nhà xưởng, cửa hàng, máy móc, thiết bị xếp dỡ
hàng hoá
+ Tài sản cố định vô hình: là những tài sản cố định không có hình thái vật chất thể hiện
một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của
doanh nghiệp. Ví dụ như: chi phí sử dụng đất, chi phí bằng phát minh sáng chế
- Căn cứ vào mục đích sử dụng, có các nhóm tài sản cố định sau:
+ Nhóm tài sản cố định dùng trong kinh doanh: đó là những tài sản cố định phục vụ trực
tiếp cho hoạt động mua, bán, bảo quản, vận chuyển hàng hoá.
12/21
+ Nhóm tài sản cố định phục vụ cho công tác quản lý như: nhà làm việc, nhà tiếp khách,
phòng hội họp, y tế, thể thao
+ Nhóm tài sản cố định dùng cho nhu cầu phúc lợi của cán bộ công nhân viên như nhà
nghỉ, phương tiện đưa đón công nhân

+ Nhóm tài sản cố định không cần dùng đang chờ sử lý: đó là những tài sản cố định
doanh nghiệp không có nhu cầu, những tài sản hư hỏng đang chờ giải quyết thanh lý.
- Căn cứ vào công dụng kinh tế, tài sản cố định được chia ra thành các loại sau:
+ Nhà làm việc hành chính, nhà kho, cửa hàng, nhà để sữa chữa, để sản xuất năng lượng,
nhà để xe, phòng thí nghiệm
+ Các công trình xây dựng và vật kiến trúc để tạo điều kiện cần thiết cho việc thực
hiện các hoạt động nghiệp vụ trong kinh doanh thương mại như: cầu để bốc dỡ vật
tư, hàng hoá, đường ô tô, đường dây tải điện
+ Các công cụ, thiết bị, máy móc, phương tiện cân, đo, bảo quản, chứa đựng dùng trong
kinh doanh như các loại cân, các giá để chứa hàng, cần trục, cần cẩu, máy chuyển tải,
phương tiện tính toán, báo động cứu hoả
+ Các loại dụng cụ đồ nghề chuyên dùng để đóng gói hàng hoá, tháo mở bao bì, phân
loại, chuẩn bị hàng hoá
+ Các loại phương tiện vận chuyển như ô tô tải, ô tô chuyên dùng, rơ moóc, xe chuyển
hàng
+ Các loại tài sản cố định khác không ở các nhóm kể trên như bao bì tài sản, container
- Căn cứ vào tình hình sử dụng, tài sản cố định được chia thành:
+ Tài sản cố định đang sử dụng: là những tài sản cố định của doanh nghiệp đang sử dụng
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc phúc lợi, sự nghiệp hay an ninh quốc phòng
của doanh nghiệp.
+ Tài sản cố định chưa cần dùng: là những tài sản cố định cần thiết cho hoạt động
sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện tại chưa
cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này.
+ Tài sản cố định không cần dùng chờ thanh lý: là những tài sản cố định không cần thiết
hay không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thanh
lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu.
13/21
Trong các doanh nghiệp thương mại không phải lúc nào, ở doanh nghiệp nào cũng đủ
các thành phần nói trên của tài sản cố định. Trong quá trình phát triển, vốn cố định của
các doanh nghiệp sẽ được tăng thêm thông qua xây dựng, cải tạo, mở rộng hoặc mua

sắm mới. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại tài sản cố định sẽ làm cho thành phần
của tài sản cố định ngày càng phong phú, cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp ngày
càng hiện đại.
Cơ cấu tài sản cố định của doanh nghiệp thương mại được tính bằng các loại, số lượng
tài sản cố định và tỷ trọng của mỗi loại so với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp.
Cơ cấu đó và sự thay đổi của nó là những chỉ tiêu quan trọng nói lên trình độ kỹ thuật và
khả năng phát triển hoạt động kinh doanh của ngành lưu thông hàng hoá. Nó phản ánh
đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp và giúp cho việc xác định phương hướng tái
sản xuất mở rộng tài sản cố định.
Nguồn của vốn cố định.
Cũng như vốn lưu động, vốn cố định của doanh nghiệp thương mại được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau như:
- Nguồn vốn pháp định: gồm vốn cố định do ngân sách, do cấp trên cấp phát cho doanh
nghiệp, vốn cổ phần do các cổ đông đóng góp bằng tài sản cố định, hoặc vốn pháp định
do chủ xí nghiệp bỏ ra ban đầu khi thành lập xí nghiệp tư nhân.
- Nguồn vốn tự bổ sung: gồm vốn cố định của những tài sản cố định đã được đầu tư hoặc
mua sắm bằng quỹ xí nghiệp.
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết: gồm các khoản vốn do các đơn vị tham gia liên doanh,
liên kết góp bằng tài sản cố định và bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành.
14/21
Sự cần thiết của việc sử dụng vốn kinh
doanh có hiệu quả trong các doanh nghiệp
thương mại
Sự cần thiết của việc sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả trong các doanh
nghiệp thương mại.
Sử dụng vốn trong kinh doanh thương mại là một khâu có tầm quan trọng quyết định
đến hiệu quả của kinh doanh vì bất cứ khâu nào trong kinh doanh cũng liên quan đến
vấn đề sử dụng vốn. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn kinh doanh lại là kết quả tổng hợp
của tất cả các khâu, các bộ phận trong kinh doanh, từ phương hướng kinh doanh đến các
biện pháp tổ chức thực hiện, cũng như sự quản lý, hạch toán theo dõi, kiểm tra, nghệ

thuật kinh doanh và cơ hội kinh doanh.
Mục tiêu cũng như ý tưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh là hướng tới hiệu
quả kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng một cách triệt để mọi nguồn lực sẵn
có. Chính vì thế, các nguồn lực kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng, đặc biệt là
nguồn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có tác động mạnh mẽ tới hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Khai thác sử dụng các tiềm lực về vốn sẽ đem
lại hiệu quả thực sự cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là nhu cầu thường xuyên bắt buộc của bất cứ
doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Đánh giá đúng hiệu quả sử dụng
vốn sẽ thấy được chất lượng của việc sản xuất kinh doanh nói chung và việc sử
dụng vốn nói riêng.
Mục đích của sử dụng vốn trong kinh doanh là nhằm bảo đảm nhu cầu tối đa về vốn cho
việc phát triển kinh doanh hàng hoá trên cơ sở nguồn vốn có hạn được sử dụng một cách
hợp lý, tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Để đạt được mục đích trên yêu cầu cơ bản của việc sử dụng vốn là:
- Bảo đảm sử dụng vốn đúng phương hướng, đúng mục đích và đúng kế hoạch kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Chấp hành đúng các quy định và chế độ quản lí lưu thông tiền tệ của nhà nước.
- Hạch toán đầy đủ, chính xác, kịp thời số vốn hiện có và tình hình sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp.
15/21
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
thương mại
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp thương mại
Các nhân tố chủ quan.
Đây là những nhân tố chủ yếu quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
bao gồm:
- Cơ cấu vốn: bố chí cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng

được nâng cao. Bố trí cơ cấu vốn không phù hợp làm mất cân đối giữa tài sản lưu động
và tài sản cố định dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu một loại tài sản nào đó sẽ làm giảm
hiệu quả sử dụng vốn.
- Việc huy động vốn cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Huy động vốn là để
sử dụng vốn, do vậy nhu cầu sử dụng vốn đến đâu, doanh nghiệp huy động vốn đến đó
để không xảy ra tình trạng thừa hoặc thiếu vốn. Việc huy động vốn hợp lý sẽ đảm bảo
cho việc sử dụng vốn có hiệu quả cao hơn. Mặt khác sử dụng vốn còn chịu ảnh hưởng
của tỷ lệ lãi suất huy động và thời gian huy động vốn. Lựa chọn và tìm được nguồn tài
trợ thích hợp là nhân tố trực tiếp quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Chi phí kinh doanh: là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn. Chí phí
tăng làm giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng theo dẫn đến sức tiêu thụ giảm làm giảm hiệu
quả sử dụng vốn. Do vậy, các doanh nghiệp luôn phấn đấu giảm chi phí, hạ giá thành
sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, quá trình tiêu thụ diễn ra
nhanh hơn, tăng vòng quay của vốn, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Lựa chọn phương án kinh doanh thích hợp: trong nền kinh tế thị trường, quy mô và
tích chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là do thị trường quyết định. Khả
năng nhận biết, dự đoán thị trường và nắm bắt thời cơ là những nhân tố quyết định đến
thành công hay thất bại trong kinh doanh. Vì vậy, việc lựa chọn đúng phương án kinh
doanh có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các phương án
kinh doanh phải được xây dựng trên cơ sở tiếp cận thị trường. Có như vậy sản phẩm sản
xuất của doanh nghiệp mới có khả năng tiêu thụ được, vốn lưu động luân chuyển đều
đặn, tài sản cố định mới có khả năng phát huy hết công suất, hiệu quả sử dụng vốn cao.
16/21
- Các mối quan hệ của doanh nghiệp: những mối quan hệ này thể hiện trên hai phương
diện là quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và giữa doanh nghiệp với nhà cung
cấp. Điều này rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng tới nhịp độ sản xuất kinh doanh, khả
năng phân phối sản phẩm, lượng hàng hoá tiêu thụ và đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Để tạo được mối quan hệ này doanh nghiệp phải có kế

hoạch cụ thể trong việc củng cố các bạn hàng truyền thống và tìm kiếm thêm bạn hàng
mới. Các biện pháp mà doanh nghiệp có thể áp dụng như: mở rộng mạng lưới giao dịch,
tìm nguồn hàng, tiến hành các chính sách tín dụng khách hàng, đổi mới quy trình thanh
toán sao cho thuận tiện, tăng cường công tác xúc tiến, quảng cáo, khuyến mại
- Trình độ tổ chức và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp: đây là yếu tố vô cùng
quan trọng đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một bộ máy quản lý tốt
có trình độ quản lý cao sẽ giúp cho hoạt động của doanh nghiệp đạt kết quả cao
và ngược lại. Do đó doanh nghiệp phải nâng cao trình độ quản lý đặc biệt là đối
với cán bộ quản lý tài chính về chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm để
đảm bảo an toàn về tài chính trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Các nhân tố khách quan.
- Cơ chế quản lý và các chính sách của nhà nước: từ khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường, mọi doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo đúng quy
định của pháp luật và khả năng của mình. Nhà nước tạo hành lang pháp lý và môi trường
thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh theo những ngành nghề mà
doanh nghiệp đã lựa chọn và hướng các hoạt động đó theo chính sách quản lý kinh tế vĩ
mô. Vì vậy, chỉ một thay đổi nhỏ trong cơ chế quản lý và chính sách của nhà nước cũng
ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp như: việc quy định trích khấu hao, tỷ lệ trích
lập các quỹ, các văn bản chính sách về thuế xuất nhập khẩu Nói chung, sự thay đổi
cơ chế và chính sách của nhà nước sẽ gây rất nhiều khó khăn cho việc sử dụng vốn có
hiệu quả trong doanh nghiệp. Song nếu doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được những
thay đổi và thích nghi thì sẽ đứng vững trên thị trường và có điều kiện để phát triển và
mở rộng kinh doanh, phát huy khả năng sáng tạo trong quản lý điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh.
- Sự tác động của thị trường: tuỳ theo loại thị trường mà doanh nghiệp tham gia sẽ có
những tác động riêng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu thị
trường mà doanh nghiệp tham gia là thị trường tự do cạnh tranh, sản phẩm của doanh
nghiệp đã có uy tín với người tiêu dùng thì đó sẽ là tác nhân tích cực thúc đẩy doanh
nghiệp mở rộng thị trường và tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Còn đối với thị trường
không ổn định thì hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cũng không ổn định do kết quả kinh

doanh thất thường nên vốn không được bổ sung kịp thời.
Hiện nay ở nước ta thị trường tài chính chưa phát triển hoàn chỉnh, các chính sách công
cụ nợ trung và dài hạn còn hạn chế, giá của vốn chưa thực sự biến động theo giá thị
17/21
trường mà chủ yếu là giá áp đặt. Đây là điều hết sức khó khăn cho các doanh nghiệp
trong việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh cũng như thực hiện chính sách đầu tư
trong trường hợp có vốn nhàn rỗi. Điều này cho thấy, để đạt được mục đích sử dụng vốn
có hiệu quả là hoàn toàn không dễ dàng. Đây là yếu tố mà doanh nghiệp không có khả
năng tự khắc phục song lại có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động kinh doanh,
làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
18/21
Tham gia đóng góp
Tài liệu: Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp thương mại
Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL: />Giấy phép: />Module: Khái niệm và phân loại vốn kinh doanh
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL: />Giấy phép: />Module: Đặc điểm của vốn kinh doanh
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL: />Giấy phép: />Module: Vai trò của vốn kinh doanh
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL: />Giấy phép: />Module: Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL: />Giấy phép: />Module: Vốn cố định của doanh nghiệp thương mại
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL: />Giấy phép: />Module: Sự cần thiết của việc sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả trong các doanh
nghiệp thương mại
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
19/21
URL: />Giấy phép: />Module: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh

nghiệp thương mại
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL: />Giấy phép: />20/21
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources
– VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho
Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong
phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0
do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước
hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành
một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi
ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học
tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn
tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu
khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của
độc giả.
Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các
tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như
đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring.
Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ
dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng
dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái
niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong
bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong
trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được
chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới.
21/21

×