Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tổng quan về Bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.23 KB, 17 trang )

Tổng quan về bảo hiểm xã hội và quỹ
bảo hiểm xã hội
Biên tập bởi:
Trần Văn Phác
Tổng quan về bảo hiểm xã hội và quỹ
bảo hiểm xã hội
Biên tập bởi:
Trần Văn Phác
Các tác giả:
Trần Văn Phác
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. Sự cần thiết phải có bảo hiểm y tế
2. Vai trò và những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
3. Những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
4. Quỹ bảo hiểm xã hội
Tham gia đóng góp
1/15
Sự cần thiết phải có bảo hiểm y tế
Sự ra đời của bảo hiểm xã hội
Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì vấn đề thuê mướn nhân công diễn ra càng phổ
biến, mâu thuẫn giữa chủ và thợ ngày càng gia tăng. Đặc biệt khi người lao động không
may gặp rủi ro, sự cố như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, mất việc làm…phải nghỉ
việc. Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết không những không mất
đi mà còn tăng lên, thậm chí còn phát sinh ra nhiều nhu cầu mới như: cần được khám
chữa bệnh, điều trị khi ốm đau; cần người nuôi dưỡng, chăm sóc khi gặp tai nạn, thương
tật… Tổng thời gian nghỉ việc người chủ không trả lương, làm cho người lao động càng
gặp nhiều khó khăn hơn và không yên tâm làm việc. Vì vậy, lúc đầu người chủ chỉ cam
kết trả công lao động nhưng sau đó đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người lao động
có một số thu nhập nhất định để họ trang trải khi không may gặp những khó khăn đó.
Trong thực tế, nhiều khi các rủi ro trên không xẩy ra và người chủ không phải chi ra


đồng nào nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một khoản tiền rất lớn
mà họ không muốn. Do đó mâu thuẫn chủ thợ càng trở nên vô cùng gay gắt. Khi những
mâu thuẫn này kéo dài Nhà nước phải đứng ra can thiệp bằng cách: buộc giới chủ phải
có trách nhiệm hơn đối với người lao động mà mình sử dụng, thể hiện ở việc phải trích
ra một phần thu nhập của mình để hình thành quỹ. Sau đó dùng nguồn quỹ này để trợ
cấp cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động không may gặp những rủi ro
và sự cố bất ngờ. Đồng thời Nhà nước đứng ra bảo trợ cho quỹ. Bằng cách đó cả chủ và
thợ đều thấy mình có lợi và tự giác thực hiện, cuộc sống của người lao động được đảm
bảo.Người chủ được bảo vệ việc sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được
những xáo trộn không cần thiết.
Mối quan hệ ba bên nêu trên được thế giới quan niệm là BHXH cho người lao động.
Như vậy BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, bằng cách thông qua
việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ sự đóng góp của người lao động, người
sử dụng lao động (nếu có), sự tài trợ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người
được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các
rủi ro ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo quy
định của pháp luật hoặc tử vong…
Sự cần thiết phải có hệ thống bảo hiểm xã hội
Trong cuộc sống cũng như trong các hoạt động sản xuất hàng ngày, mặc dù không muốn
nhưng người lao động không thể tránh khỏi hết những rủi ro bất ngờ xảy ra như: ốm
đau; bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…Tất cả những nguyên nhân đó xảy
2/15
ra đều ít nhiều làm ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân cũng như
gia đình; người thân của họ.
Muốn khắc phục được khó khăn do các rủi ro nêu trên gây ra, người lao động cần phải
được sự bảo trợ của tập thể số đông. Đặc biệt để người lao động yên tâm tham gia sản
xuất tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước thì nhà nước cần phải can thiệp vào nhằm
làm giảm bớt những khó khăn cho người lao động trong các trường hợp: ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, chết, mất việc làm khi về già…Từ đó BHXH
được ra đời như một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm

thấy cần phải tham gia hệ thống BHXH này.
3/15
Vai trò và những nguyên tắc của bảo hiểm
xã hội
Vai trò của bảo hiểm xã hội
Đối với người lao động
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp
hoá- hiện đại hoá thì những "rủi ro" như ốm đau, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp,
thai sản, mất việc làm…lại diễn ra một cách thường xuyên và ngày càng phổ biến hơn,
phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây khó khăn cho người lao động vế cả vật
chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không tốt cho cả cộng đồng.
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ góp
phần trợ giúp cho cá nhân những người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng cách
tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi…giúp họ ổn
định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó góp
phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho xí
nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nó chung.
Đối với người sử dụng lao động
Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội
thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình lao động sản xuất để tạo ra
sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người biết vận dụng sức lao động
để sản xuất ra sản phẩm, đó chính là những người chủ sử dụng lao động. Muốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ phải tạo được mối quan hệ tốt với
người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình đối với
người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống từ
đó họ lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình
sản xuát kinh doanh của người chủ sử dụng lao động hoạt động đạt kết quả cao. Muốn
vậy người chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những người lao động
của mình để có thể đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao động
khi họ gặp những rủi ro bất chắc. Việc tham gia đóng góp BHXH cho người lao động

của người chủ sử dụng lao động là góp vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất
của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu nhập cho người lao động và góp vào việc phát
triển nền kinh tế của đất nước.
4/15
Đối với xã hội
Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ, cơ quan
BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “ bảo hiểm” cho người lao
động, một loại dịch vụ mà bất cứ ai cũng cần đến (không phải chỉ cán bộ, công nhân
viên chức mới cần). Nếu các doanh nghiệp này càng sản xuất ra nhiều loại bảo hiểm
(đáp ứng đa dạng các nhu cầu) thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng được
tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội.
Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH
sẽ “ bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “ trục trặc”, “
rủi ro” xảy ra đối với những người lao động, góp phần tích cực của mình vào việc phục
hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động
trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực của
mình vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự trợ giúp của người lao động
khi gặp phải rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác động
đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội.
Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ thống
tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì vậy, đặt
ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức
khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển phần “ nhàn rỗi” của quỹ. Phần này
có tác động không nhỏ tới sự phát triển đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất
kinh doanh mới, việc làm mới góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho người
lao đông. Từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, góp phần tăng
thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng
như tổng sản phẩm quốc dân nói chung.
Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối

lại thu nhập giữa những nguời tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này được
tiến hành thông qua hai cách: Phân phối lại theo chiều ngang giữa người khoẻ và người
già, người đang làm việc với người đã nghỉ hưu, người trẻ tuổi với người lớn tuổi, giữa
nam với nữ, người đang hưởng trợ cấp với người chưa hưởng trợ cấp; phân phối lại theo
chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa những người có
thu nhập cao và người có thu nhập thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân,
cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho người nghèo một cách võ đoán. Ý tưởng
của BHXH nhiễu điều phủ lấy giá gương, là đoàn kết tương trợ, phát huy tính tự thân,
sống hoà nhập có tình có nghĩa giữa các nhóm, các giới bạn trong cùng cộng đồng với
nhau mà vốn là tiềm lực của dân tộc ta đã được lịch sử chứng minh.
5/15
Những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
Mọi ngưòi lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm đều có quyền được BHXH .
Quyền đựơc BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền
con người. Nhưng khi muốn xây dựng hệ thống BHXH thì đầu tiên Nhà nước phải tạo
điều kiện và môi trường kinh tế xã hội, về chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế
quản lý cần thiết. Đồng thời, những người sử dụng lao động và người lao động phải thực
hiện trách nhiệm đóng góp tài chính của mình. Không phải là cái có sẵn nên trước hết
phải tìm cách tạo ra nó. Ở mỗi nước không có sự đóng góp này thì chính sách BHXH
có hay đến mấy cũng không bao giờ có BHXH trong thực tiễn. Vì vậy, thực hiện trách
nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều kiện cơ bản nhất để người lao động được hưởng
quyền BHXH.
Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH đối với
người lao động, người lao động cũng phải tự bảo hiểm cho mình.
Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó Nhà nước có vai trò
quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi cả nước. Với vai trò này Nhà
nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ
cần thiết để thực hiện vai trò của mình. Cùng với sự tăng trưởng sự phát triển kinh tế xã
hội, cũng có những kết quả bất lợi không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực

tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho người lao động. Khi xảy ra tình trạng
như vậy nếu không có BHXH thì Nhà nước vẫn phải chi Ngân sách để giúp đỡ người
lao động dưới một dạng khác. Sự giúp đỡ đó chẳng những làm cho đời sống người lao
động ổn định mà còn làm cho sản xuất kinh tế xã hội của đất nước ổn định. Vì vậy, khi
trong xã hội loài người xuất hiện BHXH – một dạng đảm bảo đời sống tiến bộ hơn đối
với người lao động- so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nước càng có điều
kiện và càng có trách nhiệm tổ chức và tham gia dạng hoạt động đó.
Đối với người sử dụng lao động, mọi khía cạnh đặt ra cũng tương tự như trên nhưng
chỉ trong phạm vi một số doanh nghiệp. Ở đó giữa người lao động và người sử dụng lao
động có mối quan hệ rất chặt chẽ. Người sử dụng lao động muốn ổn định và sản xuất
kinh doanh thì ngoài việc chăm lo đầu tư để có máy móc thiết bị hịên đại, công nghệ
tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống của người lao động mà mình sử dụng.
Khi người lao động làm việc bình thường thì phải trả lương (trả công) thoả đáng cho
người lao động. Khi họ gặp rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong
đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động, với những điều kiện lao động cụ
thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy người lao
6/15
động mới yên tâm tích cực lao động sản xuất góp phần tăng năng suất lao động, tăng
hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
Đối với người lao động khi gặp những rủi ro không muốn và không phải hoàn toàn hay
trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn
được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ cho mình, là dàn trải rủi ro của mình
cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết đã Điều đó có
nghĩa là bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm
cho mình.
BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành lên
quỹ BHXH
Ở nguyên tắc trên đã thấy rõ tính khách quan của trách nhiệm phải tham gia BHXH đối
với người lao động của cả ba bên (Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động)
trong nền kinh tế thị trường. Biểu hiện cụ thể của trách nhiệm này là đóng phí BHXH

đầu kỳ. Nhờ sự đóng góp đó mà phương thức riêng có của BHXH là dàn trải rủi ro theo
nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang mới
được thực hiện. Hơn nữa nó còn tạo ra mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa trách nhiệm
với quyền lợi góp phần phòng chống những hiện tượng nhiễu trong hệ thống hoạt động
mang lại nhiều lợi ích cho mọi người có liên quan này.
Phải tuân theo quy luật số lớn
BHXH là một trong các nguyên tắc, các cơ chế an toàn xã hội, trước hết là sự trợ giúp
cho người lao động trong các trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập tạm thời khi họ
bị ốm đau, thai sản… hoặc hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật. Trong cả cuộc
đời của người lao động thường thì thời gian lao động dài hơn thời gian người lao động
bị tạm thời mất khả năng lao động hoặc thời gian từ khi hết tuổi lao động đến lúc chết.
Vả lại tất cả những người tham gia BHXH cùng một lúc có nhu cầu bảo hiểm, vì vậy
nguyên tắc trước hết của BHXH là lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động có thu
nhập để bảo hiểm cho khi giảm hoặc mất khả năng lao động.
Kết hợp giữa các loại lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng nhu cầu
BHXH
Trong BHXH cả ba bên tham gia: Người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước
đều nhận được nhiều lợi ích. Nhưng lợi ích nhận được không phải luôn luôn như nhau,
thống nhất với nhau mà trái lại có lợi ích có lúc lại mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn việc
tăng mức trợ cấp hoặc tăng thời hạn nghỉ làm việc và hưởng trợ cấp BHXH sẽ rất có lợi
cho người lao động nhưng lại gây khó khăn cho người chủ sử dụng lao động, nếu giảm
hậu quả bất lợi cho người sử dụng lao động thì Nhà nước lại phải gánh chịu.
7/15
Mức trợ cấp BHXH phải đảm bảo thấp hơn tiền lương khi đang đi làm,
nhưng cũng phải lớn hơn mức lương tối thiểu
Trợ cấp BHXH nói ở đây là loại trợ cấp thay thế cho tiền lương như trợ cấp ốm đau, thai
sản, hưu trí tuổi già chứ không phải là trợ cấp bù đắp hoặc trợ cấp BHXH. Như đã biết,
tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực
hiện công việc nhất định. Nghĩa là, chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường, có việc
làm bình thường và thực hiện công việc nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau,

tai nạn hay tuổi già không thực hiện được công việc nhất định hoặc không việc làm mà
trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền
lương tạo ra được. Còn nếu cố tìm cách trả trợ cấp BHXH bằng hoặc cao hơn tiền lương
thì không một người lao động nào phải cố gắng có việc làm và tích cực làm việc để có
lương mà ngược lại họ sẽ cố gắng ốm đau, thai sản để hưởng trợ cấp. Hơn nữa cách lập
quỹ, phương thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phép trả trợ cấp BHXH
bằng tiền lương lúc đang đi làm. Vì trả trợ cấp bằng tiền lương thì chẳng khác gì bị rủi
ro đem rủi ro của mình dàn trải hết cho những người khác.
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm. Tuy nhiên
do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể
thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày. Chỉ khi đó BHXH mới có tính nhân văn cao cả.
Kết hợp giữa BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện
Bảo hiểm xã hội áp dụng hình thức bắt buộc để đảm bảo quy luật số lớn và số có hệ số
an toàn cao nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao động. Tuy nhiên, có những trường
hợp, người lao động muốn hưởng trợ cấp hưu trí ở mức cao hơn mức được hưởng dưới
hình thức bắt buộc, hoặc khi cân nhắc thấy họ đóng thêm vào BHXH cũng là một hình
thức gửi tiền tiết kiệm, và có khi còn lợi hơn gửi vào ngân hàng, thì họ sẽ có nhu cầu
đóng phí BHXH nhiều hơn mức quy định. Chính vì vậy, khi đáp ứng nhu cầu đó cũng
thực hiện được đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho người lao động đồng thời quy luật số lớn
vẫn được tôn trọng.
Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời phải
phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành
Hệ thống BHXH của một nước thường gồm nhiều bộ phận cấu thành. Trong đó bộ phận
lớn nhất do Nhà nước tổ chức và bảo hộ đặc biệt bao trùm toàn bộ những người hưởng
lương từ Ngân sách Nhà nước và những người lao động thuộc những khu vực kinh tế
quan trọng của đất nước. Các bộ phận nhỏ hơn do các đơn vị kinh tế và tư nhân tổ chức
ra để bảo hiểm cho một số đối tượng hạn chế do pháp luật quy định. Trong bộ phận
do Nhà nước tổ chức còn có thể có một số bộ phận BHXH chuyên ngành như: BHXH
đối với công chức, BHXH đối với quân nhân hưởng lương và một số bộ phận BHXH
theo ngành kinh tế có tính chất đặc thù (đường sắt, khai thác mỏ ). Các bộ phận BHXH

8/15
đựơc tổ chức như thế nào, nhiều hay ít là do đi ều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và do
Nhà nước quy định. Ở nước ta do những diều kiện kinh tế xã hội chưa cho phép các tổ
chức và cá nhân thực hiện BHXH mà chỉ có BHXH của Nhà nước.
Để BHXH hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải bảo đảm tính thống nhất trên những
vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh tuỳ tiện, tính cục bộ hoặc những mâu thuẫn nảy
sinh. Đồng thời cũng phải có cơ chế để mỗi bộ phận cấu thành có thể năng động trong
hoạt động để chúng có thể bù đắp, bổ xung những ưu điểm cho nhau.
BHXH phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh
tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể
BHXH của một nước gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, với các điều kiện kinh tế xã hội,
với cơ chế và trình độ quản lý đặc biệt là với sự điều chỉnh, sự đồng bộ của nền pháp chế
của nước đó. Trong tình hình nước ta, kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đang
hình thành, nhiều mặt kinh tế xã hội đang chuyển động mạnh. Vì vậy, việc xây dựng và
phát triển BHXH phải bảo đảm chắc chắn, tính toán thận trọng và có bước đi phù hợp.
9/15
Quỹ bảo hiểm xã hội
Vai trò của quỹ bảo hiểm xã hội
Trong đời sống kinh tế xã hội, có rất nhiều loại quỹ khác nhau như: quỹ tiêu dùng,
quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết
kiệm Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài
chính cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước. Quỹ lớn hay quỹ nhỏ biểu
thị khả năng về mặt phương tiện và vật chất để thực hiện công việc cần làm.
Tất cả các quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời điểm mà luôn
biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi
như một dòng chảy liên tục. Để đảm bảo cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng
dự trữ. Bởi vậy, để nắm và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ nắm được
khối lượng của nó tại một thời điểm nhất định, mà quan trọng hơn là phải nắm được lưu
lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo những quan niệm về quỹ nói chung như trên, thì quỹ BHXH là tập hợp những

đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tài chính độc
lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước để chi trả cho những người được BHXH
và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động,
mất việc làm.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phòng, nó vừa mang
tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng
đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất
cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực
hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại
kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nước và ngân
sách gia đình.
Nguồn quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH tập trung những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình
thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được hưởng BHXH và gia
đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất
việc làm.
10/15
Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang
tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng
nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả
những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc giàn trải rủi ro được thực
hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh
tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả Ngân sách nhà nướcvà ngân sách
gia đình.
Quỹ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:
- Thứ nhất, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà
nước, đây là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ.
- Thứ hai, là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức BHXH

chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời.
- Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về
BHXH. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn
nêu trên. Tuy nhiên phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia có
khác nhau.
Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mực đich sau đây:
• Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
• Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử dụng để trợ
cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia
đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà
tổ chức này đã nêu lên trong công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:
• Chăm sóc y tế
• Trợ cấp ốm đau
• Trợ cấp thất nghiệp
• Trợ cấp tuổi già
• Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
• Trợ cấp gia đình
• Trợ cấp sinh đẻ
• Trợ cấp khi tàn phế
11/15
• Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tuỳ điều kiện kinh tế xã
hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác
nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong
năm chế độ: (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa
trên những cơ sở kinh tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương .v.v…Đồng thời tuỳ từng
chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc
gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong…

Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố
liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng
hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là
tuổi đời và giới tính, của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu
trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, co những
nước quy định: Nam 60 tuổi và Nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những
nước quy định: Nam 65 tuổi và Nữ 60 tuổi.v.v…Hoặc khi xác định điều kiện hưởng trợ
cấp cho chê độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố như: Điều
kiện và môi trường lao động; bảo hộ lao động v.v…Các yếu tố này thường có quan hệ
và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hưởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ
và toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao động trên cơ sở tương
ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán
chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và người
lao động. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc
tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất
định so với mức tiền lương hay tiền công. Ở các nước kinh tế phát triển do mức lương
cao nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở những nước đang phát triển do mức tiền
lêong còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, ở pháp mức trợ cấp hưu trí
chỉ bằng 50% mức lương cao nhất ( với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm ), ốm đau
được hưởng trợ cấp bằng 50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm được hưởng trợ cấp không
quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp BHXH bằng 90% tiền lương trong vòng 16
tuần v.v…Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ 42% đến 102%, tuỳ thuộc từng nhóm
lương khác nhau, ốm đau được hưởng 65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được trợ cấp
bằng 100% tiền lương v.v…
Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so với tiền lương
hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nước đã phải tìm cách
khắc phục như: trả ngay 1 lần khi nghỉ hưu, hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của
một mức thu nhập quy định và hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.

12/15
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho chi
phí quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong hệ thông BHXH; khấu hao
tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác… Phần quỹ nhàn rỗi phải
được đem đầu tư sinh lợi. Mục đích đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng
nguồn quỹ. Quá trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận,
có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế- xã hội.
13/15
Tham gia đóng góp
Tài liệu: Tổng quan về bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm xã hội
Biên tập bởi: Trần Văn Phác
URL: />Giấy phép: />Module: Sự cần thiết phải có bảo hiểm y tế
Các tác giả: Trần Văn Phác
URL: />Giấy phép: />Module: Vai trò và những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Trần Văn Phác
URL: />Giấy phép: />Module: Những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Trần Văn Phác
URL: />Giấy phép: />Module: Quỹ bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Trần Văn Phác
URL: />Giấy phép: />14/15
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources
– VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho
Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong
phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0
do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước
hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành
một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi
ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học

tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn
tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu
khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của
độc giả.
Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các
tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như
đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring.
Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ
dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng
dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái
niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong
bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong
trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được
chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới.
15/15

×