Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.13 KB, 35 trang )

Tranh chấp Thương mại và giải quyết
tranh chấp thương mại
Biên tập bởi:
Đại Học Thương Mại
Tranh chấp Thương mại và giải quyết
tranh chấp thương mại
Biên tập bởi:
Đại Học Thương Mại
Các tác giả:
Đại Học Thương Mại
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. (Untitled)
1.1. TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.3. Trọng tài kinh tế và giải quyết tranh chấp bằng thủ tục
1.4. Các vấn đề khi đưa tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài
1.5. Ngôn ngữ,trình tự của thủ tục trọng tài
Tham gia đóng góp
1/33
(Untitled)
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
Tranh chấp kinh tế
Khái niệm
Ngay từ xa xưa, khi Nhà nước còn chưa hình thành thì mọi người đã tiến hành các hoạt
động sản xuất và trao đổi sản phẩm hàng hoá theo các phương thức giản đơn khác nhau.
Hay nói một cách khác, lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế có từ rất lâu trước khi
Nhà nước xuất hiện và đưa ra nx chế định để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội cùng
với sự ra đời và phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội, tranh chấp cũng phát sinh và
đặt ra nhu cầu được giải quyết sao cho công bằng và hợp lý nhất trong bối cảnh kinh tế


- chính trị - xã hội đó.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và
nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn này có thể phát
sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên chúng được gọi theo
ngành luật đó. Ví dụ: Tranh chấp về tiền lương giữa người lao động và người sử dụng
lao động được gọi là tranh chấp lao động. Tương tự như vậy, tranh chấp dân sự, tranh
chấp đất đai những tranh chấp rõ là có liên quan đến lợi ích kinh tế của các bên. Do
đó chúng có thể được gọi là tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng. Một đặc trưng của các
tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng đó là các chủ thể tham gia vào quan hệ này không
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Trong phạm vi hẹp, quan hệ kinh tế là quan hệ giã các chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực
kinh tế. Kể từ khi nước ta có pháp luật về hợp đồng kinh tế, những tranh chấp phát sinh
từ quan hệ hợp đồng kinh tế gọi là tranh chấp kinh tế, đó là sự bất đồng quan điểm của
các bên về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng kinh tế. Song
trong nền kinh tế thị trường mở cửa và nhiều thành phần kinh tế hiện nay, tranh chấp
kinh tế không chỉ đơn thuần là tranh chấp hợp đồng kinh tế, mà còn nhiều loại tranh
chấp khác, phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh như: tranh chấp giã công ty và
các thành viên công ty; giữa các thành viên công ty với nhau, các tranh chấp liên quan
đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu
Tóm lại: "tranh chấp kinh tế là tranh chấp trong quan hệ kinh doanh " Kinh doanh như
quy định tại Khoản 2 - Điều 3 - Luật doanh nghiệp "Là việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
2/33
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời" Chủ thể của các hoạt động kinh
doanh là các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế, vì thế có thể có một khái niệm về tranh
chấp kinh tế như sau: "Tranh chấp kinh tế là những bất đồng, xung đột, mâu thuẫn xảy
ra ở các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế trong quá trình thành lập, tổ chức hoạt động và
giải thể doanh nghiệp".
Phân loại tranh chấp kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường mở, nhiều thành phần các quan hệ kinh doanh rất đa dạng

và phức tạp. Tranh chấp kinh tế cũng vì vậy mà phức tạp không kém. Việc phân loại
tranh chấp kinh tế giúp chúng ta đơn giản hoá được chúng và có cách xa phù hợp.
* Theo mối quan hệ giữa các chủ thể thì tranh chấp kinh tế có thể là:
- Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá
nhân có đăng ký kinh doanh.
- Tranh chấp giữa các công ty với các thành viên công ty hoặc giữa các thành viên công
ty liên quan đến việc thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể công ty.
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
- Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật
* Tranh chấp trong hợp đồng kinh tế và tranh chấp ngoài hợp đồng kinh tế.
* Tranh chấp kinh tế trong nước và tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài.
* Theo lĩnh vực kinh doanh thì gồm: tranh chấp thương mại, tranh chấp về tài chính,
tranh chấp đầu tư, tranh chấp về bảo hiểm, tranh chấp về vận chuyển hàng hoá
* Theo thẩm quyền giải quyền thì gồm có tranh chấp do Toà án giải quyết và tranh chấp
do các tổ chức khác giải quyết.
* Theo số lượng đương sự trong tranh chấp gồm có tranh chấp liên quan đến hai bên và
tranh chấp liên quan đến nhiều bên.
Tranh chấp thương mại
Khái niệm
Một cách đơn giản có thể hiểu tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực thương mại. Điều 238 Luật thương mại Việt Nam nêu ra khái niệm về tranh chấp
3/33
thương mại "là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
hợp đồng trong hoạt đồng thương mại".
Tại Khoản 2 - Điều 5 cũng quy định "hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận
hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội".
Tuy nhiên, hành vi thương mại gồm những hành vi nào là điều đáng quan tâm hơn cả.
Hiện nay trên thế giới có nhiều quy định khác nhau về hành vi thương mại:

Ở Việt Nam, Điều 45 Luật thương mại quy định các loại hành vi thương mại gồm:
1. Mua bán hàng hoá
2. Đại diện cho thương nhân
3. Môi giới thương mại
4. Uỷ thác mua bán hàng hoá
5. Đại lý mua bán hàng hoá
6. Gia công trong thương mại
7. Đấu giá hàng hoá
8. Dịch vụ giao nhận hàng hoá
9. Đấu thầu hàng hoá
10. Dịch vụ giám định hàng hoá
11. Khuyến mại
12. Quảng cáo thương mại
13. Trưng bày giới thiệu hàng hoá
14. Hội chợ, triển lãm thương mại
Tuy vậy, ngoại diên của khái niệm hành vi thương mại ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển có phạm vi rộng hơn nhiều. Ở Anh nói riêng và cộng đồng Anh ngữ nói
chung thuật ngữ "Commerce" không đồng nhất với "trade", mà nó bao gồm cả "trade",
4/33
"bank", "insurrance" , "transport", hay nói một cách khác thương mại bao gồm cả việc
mua, bán, các sản phẩm vô hình có tính chất đặc thù khác. Tác động thương mại là hoạt
động "thường xuyên, độc lập và mưu cầu lợi nhuận", và theo luật thương mại của Pháp,
hoạt động thương mại bao gồm:
1. Mua bán động sản với mục đích bán lại để kiếm lời
2. Hoạt động trung gian trong việc mua bán động sản và bất động sản.
3. Cho thuê động sản và bất động sản.
4. Chế tạo và chuyên chở
5. Hoạt động đổi tiền và ngân hàng
6. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Và tranh chấp thương mại là tranh chấp trong các hoạt động trên. Trong giới hạn của bài

viết ở đây chỉ làm rõ tranh chấp trong hoạt động thương mại đã được quy định tại luật
thương mại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/1998.
Phân loại tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại cũng là một tranh chấp kinh tế, do đó tranh chấp thương mại có
thể là:
* Theo phạm vi lãnh thổ: Tranh chấp thương mại trong nước và tranh chấp thương mại
quốc tế.
* Tranh chấp hai bên và tranh chấp nhiều bên
* Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên
- Tranh chấp do người mua không thực hiện hay thực hiện không đúng theo quy định
của hợp đồng.
- Tranh chấp do người bán không thực hiện hay thực hiện không đúng theo quy định
hợp đồng.
* Tranh chấp hiện tại và tranh chấp tương lai. Tranh chấp hiện tại là tranh chấp đã xảy
ra đang cần được giải quyết. Tranh chấp tương lai được hiểu là tranh chấp có thể xảy ra
và việc giải quyết được dự liệu trong một điều khoản của hợp đồng.
* Theo nghiệp vụ giao dịch
5/33
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá
- Tranh chấp liên quan đến viêc thanh toán
* Theo tính pháp lý của hợp đồng (gồm có giá trị pháp lý và hiệu lực của hợp đồng)
- Tranh chấp liên quan đến việc áp dụng sai chế độ ký kết hợp đồng
Vi phạm nguyên tắc ký kết
Căn cứ ký kết không hợp pháp
Chủ thể ký kết hợp đồng không hợp pháp, hợp lệ
- Tranh chấp liên quan đến nội dung của hợp đồng
- Tranh chấp liên quan đến cách thức ký kết hợp đồng
* Theo tiến trình thực hiện hợp đồng
- Tranh chấp trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng

- Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng
+ Do người bán không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình như đã
thoả thuận trong hợp đồng (liên quan đến nghĩa vụ giao hàng, cung cấp chứng từ hàng
hoá, thông qua kiểm định ).
+ Do người mua không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình trong
hợp đồng (không mở L/C đúng hạn, thanh toán chậm hay không thanh toán, không hoặc
trì hoãn việc nhận hàng).
Tranh chấp thương mại.
* Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh từ những quan hệ có do ngành luật
thương mại điều chỉnh, vì vậy nó có những đặc trưng khác biệt so với tranh chấp dân sự,
tranh chấp lao động.
Thứ nhất, tranh chấp thương mại thường là nguyên nhân phát sinh thiệt hại về vật chất
đối với các bên khi các bên có sự thoả thuận thông nhất một cách giải quyết có lợi nhất
cho cả hai bên. Khác với các tranh chấp khác, tranh chấp thương mại thường có giá trị
lớn được phát sinh trong việc đầu tư vốn, tài sản nhằm thu lợi nhuận. Tranh chấp nảy
6/33
sinh sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của không những các đương sự mà còn ảnh
hưởng đến các chủ thể kinh doanh khác.
Thứ hai, quan hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều
kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Hoạt động thương mại của doanh nghiệp là hoạt
động thiết lập một mạng lưới các hành vi thương mại, mà mục tiêu của các bên khi tham
gia vào các quan hệ này là lợi nhuận. Các bên tuy hợp tác, song vẫn canh tranh nhau để
thu về được lợi ích nhiều nhất. Chính vì thế sẽ không tránh khỏi những mâu thuẫn bất
đồng trong việc giải thích về quyền và nghĩa vụ, cũng như quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ đó của các bên - đó chính là những tranh chấp thương mại.
Thứ ba, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể được Nhà nước
thừa nhận quyền doanh nghiệp có chức năng kinh doanh đó là các doanh nghiệp. Vì vậy
không phải tranh chấp nào phát sinh từ hoạt động kinh doanh cũng là tranh chấp thương
mại. Là tranh chấp thương mại khi các đơn vị kinh tế có đăng ký kinh doanh thuộc tất cả
các thành phần kinh tế (các doanh nghiệp Nhà nước, Công ty TNHH, Công ty cổ phần,

Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hộ kinh doanh cá thể ).
Thứ tư, tranh chấp thương mại có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh chấp này có thể
dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của các quan hệ kinh tế giữa
các chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, mua bán trao
đổi là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục, các chủ thể cùng một lúc có thể thiết
lập nhiều mối quan hệ kinh tế khiến cho những mối quan hệ này tạo thành một chuỗi
quan hệ có liên quan đến nhau khiến cho nếu tranh chấp phát sinh ở quan hệ này sẽ rất
có thể dẫn đến tranh chấp trong mối quan hệ khác. Chẳng hạn doanh nghiệp A vay tiền
của ngân hàng để mua nguyên vật liệu của doanh nghiệp B và bán sản phẩm cho doanh
nghiệp C theo các hợp đồng đã ký. Nếu doanh nghiệp B không cung cấp đúng nguyên
vật liệu như đã thoả thuận thì doanh nghiệp A cũng sẽ không giao được hàng cho bên C
như trong hợp đồng và không thu hồi được vốn đầu tư để trả cho ngân hàng. Tranh chấp
phát sinh giữa doanh nghiệp A và doanh nghiệp B; doanh nghiệp A và doanh nghiệp C;
doanh nghiệp A và ngân hàng.
Tính tất yếu tồn tại tranh chấp thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, sản phẩm được sản xuất ra để bán,
trao đổi trên thị trường, mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều là đối tượng tự do mua bán
trên thị trường kể cả sản phẩm chất xám. Kinh tế thị trường là nền kinh tế tiền tệ hoá rất
cao, mục đích của các chủ thể khi tham gia vào kinh tế thị trường là lợi nhuận, lợi nhuận
càng cao càng tốt.
Trong cơ chế thị trường, các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ rất cao và họ có toàn quyền
quyết định việc thiết lập các quan hệ kinh tế - thương mại của mình miễn là không trái
với quy định của pháp luật. Chính vì vậy các quan hệ thương mại trong nền kinh tế rất
7/33
đa dạng và phức tạp. Tính phức tạp và chồng chéo đan xen của các quan hệ thương mại
ẩn chứa một nguy cơ cao phát sinh tranh chấp. Chỉ một trục trặc nhỏ trong "mắt xích"
sẽ làm kéo theo hàng loạt các trục trặc khác và làm nảy sinh tranh chấp.
Các chủ thể kinh kế khi tham gia vào những quan hệ thương mại mà họ cho là có lợi,
có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất và khi mà mục đích có nguy cơ không đạt
được cũng sẽ làm phát sinh tranh chấp. Trong quan hệ thương mại, quyền lợi của bên

này cũng tương ứng với một nghĩa vụ của bên kia, điều đó khiến cho xung đột lợi ích sẽ
phát sinh nếu các bên không đi đến một thoả thuận thống nhất dung hoà được quyền lợi
và nghĩa vụ của họ. Đảm bảo nguyền tắc cùng có lợi trong quan hệ thương mại.
Đặc biệt trong thương mại quốc thế sự khác nhau về tập quán kinh doanh cũng là một lý
do quan trọng dẫn đến tranh chấp. Tập quán kinh doanh ở đây được hiểu là toàn bộ các
quyết định luật pháp, quy tắc thực hành, thông lệ trong hoạt động thương mại ở mỗi
quốc gia, mỗi khu vực kinh tế. Một hành vi được coi là hợp pháp ở quốc gia này nhưng
rất có thể là hành vi vi phạm pháp luật ở nước khác. Chẳng hạn theo quy định nhập khẩu
của Trung Quốc, hàng hoá nhập khẩu vào Trung Quốc bắt buộc phải in mã số mã vạch
trên bao bì, nhãn hiệu hàng hoá. Các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc
nếu không tìm hiểu rõ quy định này và xuất hàng chưa đăng ký và in mã số, mã vạch thì
sẽ không được thông qua nhập khẩu và thế là tranh chấp phát sinh. Hay như quy định về
hạn ngạch dệt may của Mỹ khác với quy định của EU là ở loại hạn ngạch tính theo số
lượng nhập khẩu
Các rủi ro khách quan như: sự thay đổi pháp luật, cấm vận, chiến tranh, bạo loạt, đình
công ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng của các bên làm phát sinh tranh chấp.
Mặc dù đó có thể là những trường hợp bất khả kháng, song việc giải quyết hậu quả, phân
định mức thiệt hại cho mỗi bên cũng có thể phát sinh tranh chấp. Tranh chấp còn phát
sinh khi một bên cho rằng rủi ro không nằm trong các trường hợp được miễn trách.
Trong nền kinh tế thị trường đạo đức kinh doanh không phải lúc nào cũng được các bên
tôn trong, đặc biệt là việc giữ chữ tín với bạn hàng. Vì lợi nhuận họ sẵn sàng có những
hành động cố tình vi phạm hợp đồng, hoặc lừa đào khách hàng làm thiệt hại cho đối
tác. Bản thân mục tiêu lợi nhuận không mang tính đạo đức nhưng cách thức để đạt được
lợi nhuận thì có và tranh chấp phát sinh, trong trường hợp này thuộc về lý do chủ quan.
Rõ ràng trong nền kinh tế thị trường quan hệ kinh tế trở lên sống động, đa dạng và phức
tạp. Mục đích nhằm tối đa hoá lợi nhuận trở thành động lực trực tiếp của các bên tham
gia quan hệ kinh tế thương mại. Trong điều kiện đó, tranh chấp là một vấn đề tất yếu,
không thể tránh khỏi, đòi hỏi phải có sự quan tâm giải quyết một cách thoả đáng. Điều
này vừa là một yêu cầu nghiêm ngặt của nguyên tắc pháp chế vừa là một đòi hỏi bức
xúc của quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ thương mại nói riêng.

8/33
Giải quyết tranh chấp thương mại trong nền kinh tế thị
trường
Giải quyết tranh chấp thương mại trong nền kinh tế thị trường
Cùng với sự phát triển của kinh tế, tính đa dạng và phức tạp trong quan hệ thương mại
làm cho tranh chấp thương mại cũng trở lên phức tạp về nội dung, gay gắt về mức độ
tranh chấp và phong phú hơn nhiều về chủng loại xuất phát từ lợi nhuận của các bên và
sự hấp dẫn của nền kinh tế, việc giải quyết tranh chấp là hết sức quan trong và cần thiết.
ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả.
Khi bắt đầu một thương vụ, các chủ thể không bao giờ muốn tranh chấp xảy ra bởi tranh
chấp đồng nghĩa với sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, làm gián đoạn
quá trình kinh doanh, tốn thời gian chi phí và công sức để giải quyết tranh chấp. Không
những thế còn liên quan đến chủ thể khác có quan hệ với các bên tranh chấp, uy tín của
chủ thể trên thương trường có thể bị ảnh hưởng, cũng như các yếu tố khác thuộc về bí
mật kinh doanh có thể bị tiết lộ hoặc bị lợi dụng
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn chế đến mức tối
thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở mức chi phí thấp nhất. Song,
quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của
các bên khi tham gia vào kinh tế thương mại.
Giải quyết tốt tranh chấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Muốn có
một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ kinh tế thương
mại nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp luật, phải đảm bảo bằng pháp luật. Việc
đầu tiên là hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra bằng cách đặt ra các chế định và chế
tài tạo thành một "sân chơi" lành mạnh và công bằng. Khi tranh chấp xảy ra phải có các
thủ tục, biện pháp để giải quyết, nếu không giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ dây dưa
kéo dài và thiệt hại rất lớn. Điều đó không những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền
kinh tế mà còn gây nên một khuyết điểm lớn của môi trường kinh doanh, các chủ thể
sau tranh chấp có thể "quay lưng" lại với nhau đố kỵ và không tin tưởng lẫn nhau. Một
tâm lý yên tâm làm ăn kinh tế, mạnh dạn đầu tư sẽ góp phần cải thiện nền kinh tế.
Giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp còn có ý nghĩa cực kỳ quan trong việc quản lý xã

hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiập, vừa góp phần tạo môi
trường pháp lý có kỷ cương. Trong sản xuất kinh doanh tạo niềm tin, thực hiện công
bằng và bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Thực hiện sản xuất
kinh doanh có hiệu quả.
9/33
Tính hiệu quả được xét ở hai góc độ hiệu quả chuyên môn và hiệu quả kinh tế. Muốn
vậy trong khi tiến hành một hình thức giải quyết tranh chấp nào cũng phải tuân thủ một
số nguyên tắc.
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp.
Dựa trên cơ sở tự do và tự chủ trong kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật, việc giải
quyết tranh chấp phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tự định đoạt: Theo nguyên tắc này thể hiện trước hết là ở chỗ các bên
có quyền thoả thuận phương thức giải quyết tranh chấp có lợi nhật có thể là tự thương
lượng, hoặc thông qua trung gian hoà giải, hoặc thông qua một hình thức tài phán. Sau
đó các bên có thể không nhất thiết phải tham gia tố tụng mà có thể uỷ quyền cho người
khác tham gia tố tụng, có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền và lợi ích
của mình. Cuối cùng khi đã đưa tranh chấp ra trọng tài hoặc toà án các bên có quyền
hoà giải hoặc thay đổi nội dung đơn kiện hoặc rút đơn kiện.
- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của các bên không phân biệt thành phần kinh tế, số vốn, tài sản.
- Nguyên tắc hoà giải: Trước hết các bên phải tiến hành tự hoà giải, chỉ khi nào không
hoà giải được mới nhờ đến các cơ quan tài phán giải quyết. Khi thụ lý vụ án các cơ quan
tài phán cũng tiến hành các biện pháp hoà giải và công nhận hoà giải trước khi xét xử.
(Quy định tại Điều 35 pháp lệnh giải quyết vụ án tranh chấp kinh tế, Điều 35 quy tắc tố
tụng trọng tài trong nước và Điều 35 quy tắc tố tụng của trung tâm trong tài quốc tế Việt
Nam).
- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và kịp thời, đảm bảo hạn chế gián đoạn
quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh được thực hiện theo chu trình sản
xuất khép kín, vì vậy ở bất kỳ một công đoạn nào xảy ra trục trặc đều dẫn đến ảnh hưởng
toàn bộ quá trình kinh doanh. Giải quyết tranh chấp không được tiến hành một cách

nhanh chóng kịp thời sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển vững mạnh của chủ thể
kinh doanh. Nhanh chóng, kịp thời nhưng phải dứt điểm, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm
bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên.
Ngoài ra, xuất phát từ mức độ lợi ích của doanh nghiệp, việc giải quyết tranh chấp phải
quan tâm đến một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, là giải quyết đước tranh chấp với chi phí thấp nhất về tiền bạc và thời gian chi
phí để bỏ ra giải quyết tranh chấp cũng là chi phí kinh doanh, vì vậy khi phát sinh tranh
chấp là nảy sinh thêm chi phí. Đặt ra yêu cầu phải hạn chế ở mức thấp nhất các chi phí
không mang lại hiệu quả kinh doanh này. Các bên nên lựa chọn giải quyết với chi phí
10/33
thấp nhất, đồng thời các cơ quan giải quyết tranh chấp cũng phải tính đến yêu cầu này
để đặt ra nhưng quy định phù hợp, tạo niềm tin cho người kinh doanh.
Thứ hai, phải bảo vệ được uy tín của các bên trong thương trường. Trong quá trình giải
quyết tranh chấp, không bên nào được đưa ra bất kỳ một thông tin nào ngoài phạm vi
giải quyết tranh chấp, nhằm hạ uy tín hay ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của đối
phương trên thương trường, trước công luận, hay trước tổ chức giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp phải bảo đảm các yếu tố bí mật trong kinh doanh trong
hoạt động kinh doanh để có được thành công thì các chủ thể đều có những bí quyết riêng
của mình vì vậy họ không muốn đề người khác biết. Khi mà quyền kinh doanh được coi
là hợp pháp thì quyền giữ bí mật trong kinh doanh cũng được pháp luật bảo hộ.
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp chỉ có thông qua toà án là xét xử công khai
nhưng ngay cả trong trường hợp các bên kiện ra toà, thì yêu cầu về tính bảo mật và uy
tín cũng được tôn trọng như quy định ở Điều 7 pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế: "Các vụ án kinh tế được xét xử công khai trừ trường hợp cần giữ bí mật Nhà
nước hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ".
Trong nền kinh tế, có nhiều phương thức và loại hình giải quyết tranh chấp khác nhau,
tất cả đều nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất, quyền và lợi ích của các bên đều
được bảo đảm. Các khả năng, hình thức và biện pháp giải quyết tranh chấp được quy
định trong pháp luật của mỗi quốc gia thích ứng với điều kiện kinh tế xã hội của quốc
gia đó. Đó là việc giải quyết tranh chấp thông qua một cơ quan tài phán có đơn kiện,

hoặc giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục đơn kiện.
Các biện pháp giải quyết tranh chấp.
Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.
Đây là biện pháp các bên áp dụng trước khi đi kiện khi pháp sinh tranh chấp. Các bên
sẽ đưa ra trao đổi bàn bạc các biện pháp để đi đến thống nhất chung cho việc giải quyết
tranh chấp. Các bên có thể trực tiếp hoặc thông qua đại diện gặp nhau đàm phán để giải
quyết những vấn đề phát sinh. Đại diện củ7a mỗi bên có thể là giám đốc, là người được
giám đốc uỷ quyền hoặc luật sư thay mặt doanh nghiệp đó tham gia vào quá trình thương
lượng. Việc thương lượng có thể tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các hình thức trao
đổi thông tin.
Trong hình thức thương lượng, các bên có quyền tự do ý trí, bình đẳng, cùng nhau xem
xét vấn đề trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành. Nếu các bên đạt được sự
thoả thuận thì coi như tranh chấp được giải quyết.
11/33
Biện pháp thương lượng là biện pháp giải quyết đơn giản, tiết kiệm được thời gian và
chi phí đối với mỗi bên. Việc thương lượng còn thể hiện sự thiện chí thương lượng của
các bên trong việc giải quyết tranh chấp, sau khi đã thoả thuận thống nhất các bên vẫn
giữ được mối quan hệ tốt với nhau trong các thương vụ sau này, cũng như giữ được uy
tín và bảo vệ được bí mất kinh doanh.
Tuy vậy biện pháp này thường chỉ thành công khi các bên cùng có thiện chí trong việc
giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên tỏ ra quá nóng vội, khiêu khích thì quá trình
thương lượng coi như thất bại. Mặt khác, nếu mâu thuẫn quá phức tạp các bên không giữ
được cách đánh giá khách quan thì rất khó thoả hiệp. Hoặc nếu tranh chấp liên quan đến
nhiều bên, tranh chấp mà việc giải quyết nó nằm ngoài khả năng của các bên thì phải có
một bên thứ ba hoặc một cơ quan hoà giải mới giải quyết được chứ thương lượng không
giúp ích gì nhiều.
Giải quyết tranh chấp bằng trung gian hoà giải.
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên thông qua một người thứ ba gọi
là hoà giải viên. Hoà giải viên được các đương sự chọn có nghĩa vụ "trung lập" tạo điều
kiện giúp đỡ các bên tranh chấp đạt được một giải pháp để điều hoà lợi ích khắc phục

mâu thuẫn bất đồng đã phát sinh.
Hoà giải viên sẽ tiến hành họp kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả hai bên để
tìm hiểu kỹ nội dung tranh chấp, đưa ra những lý giải, phân tích cho các bên thấy rõ lợi
ích của mình và của bên kia để cùng tìm ra một giải pháp thống nhất giải quyết tranh
chấp hợp tình hợp lý. Hoà giải viên không có quyền hạn gì để ra quyết định hoặc áp đặt
một giải pháp nào đối với các bên, cũng như không thể đưa ra các biện pháp khẩn cấp
tạm thời.
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp mang tính chất tự nguyện, nó mang đầy đủ
những ưu điểm của thương lượng. Ngoài ra, hoà giải còn có những ưu điểm khiến không
giải quyết tranh chấp dễ dàng hơn. Chẳng hạn hoà giải viên thường là những chuyên gia
am hiểu về vấn đề đang tranh chấp, họ lại có một đánh giá sự việc khách quan hơn, hoà
giải viên có thể đưa ra giải quyết cho cả hai bên cùng tham khảo, họ thường có những
phân tích chính xác, rõ ràng các vấn đề thực tế trong tranh chấp, từng bước gỡ từng bước
"mút" bất đồng.
Hoà giải cũng chỉ thành công khi hai bên có thiện chí giải quyết tranh chấp và nhìn
chung thể thức này không có giá trị bắt buộc trừ khi các bên đạt được sự thoả thuận. Nếu
các bên cứ khăng khăng bảo thủ thì tranh chấp cũng không giải quyết được vì hoà giải
viên không đưa ra những quyết định buộc các bên phải thi hành.
Người trung gian hoà giải được chọn thông qua sự thống nhất thoả thuận của các bên.
Đó có thể là các tranh chấp trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Trong hoạt động kinh tế
12/33
đối ngoại, đặc biệt trong thương mại quốc tế trung gian hoà giải có thể là một tổ chức
Chính phủ như đại sứ quán các trung tâm xúc tiến thương mại hoặc là các tổ chức phi
Chính phủ .
Hai phương thức trên có giải quyết tranh chấp thành công hay không đều phụ thuộc rất
lớn vào sự tự nguyện và thiện ý của các bên. Thiếu những yếu tố đó việc giải quyết tranh
chấp sẽ thất bại. Do đó cần giải quyết bằng những phương thức khác, quyết định của cơ
quan giải quyết tranh chấp phải được tuân thủ. Người có quyền lợi bị vi phạm sau khi
không thành công trong việc áp dụng của các biện pháp trên (hoặc bỏ qua) có thể kiện
ra toà án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền lợi của mình.

Giải quyết tranh chấp theo thủ tục toà án.
Điều 1 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã quy định về quyền yêu cầu Toà
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như sau "cá nhân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp
luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án kinh tếư để yêu cầu toàn án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình''.
Tranh chấp kinh tế nói chung và tranh chấp thương mại nói riêng được kiện đối và xét
xử ở toà kinh tế. Toà án có thẩm quyền xét xử các tranh chấp pháp sinh từ tất cả các mối
quan hệ kinh tếư trong nước kể cả thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Thẩm quyền giải quyết của toà án được phân cấp, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của
nguyên đơn.
+ Thẩm quyền theo cấp:
Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp đồng
kinh tế mà giá trị thấp dưới 50 triệu, trừ những tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án kinh tếư thuộc thẩm
quyền của Toà án nhân dân cấp huyện.
Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao chỉ xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm các vụ án
kinh tế.
Toà án phúc thẩm Toà án nhân dân tối cac xét xử phúc thẩm các bản án sơ thẩm của toà
án kinh tế Toà án nhân dân cấp huyện.
+ Thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ: Toà án cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là Toà
án nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú. Nếu vụ án chỉ liên quan đến bất động sản thì toà án
có nơi có bất động sản giải quyết.
13/33
+ Theo yêu cầu giải quyết của nguyên đơn: Nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án để
yêu cầu giải quyết trong các trường hợp sau: Toà án an có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi
cư trú của bị đơn hoặc chi nhánh của bị đơn.
Toà án nơi thực hiện hợp đồng kinh tế nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác
nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú hoặc có trụ sở của một trong các
bị đơn giải quyết vụ án.
Nếu vụ án có liên quan đến bất động sản thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có

bất động sản hoặc nơi cư trú của bị đơn giải quyết, hoặc chọn một trong các nơi nếu liên
quan đến bất động sản ở nhiều nơi.
Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài xảy ra ở Việt Nam, Toà án cũng có thẩm quyền
xét xử, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết
hoặc tham gia có quy định khác.
Muốn đưa tranh chấp ra kiện ở Toà án nguyên đơn phải có đơn và tài liệu chứng minh
cho yêu cầu của mình, đồng thời phải tạm ứng án phí. Trước khi xét xử Toà sẽ tiến hành
hoà giải. Nếu hoà giải thành thì thẩm phán lập biên bản hòa giải thành và coi đây như là
quyết định của Toà án, bằng không cũng lập biên bản hoà giải không thành và tiếp tục
xét xử. Việc xét xử gồm xét xử sơ thẩm và phúc thẩm (nếu có). Sau phiên sơ thẩm, nếu
không nhất trí với quyết định của Toà thì các đương sự vẫn có quyền kháng cáo theo thủ
tục phúc thẩm, trong thời gian 10 ngày, lên Toà án trên một cấp. Bản án phúc thẩm sau
khi tuyên thì có hiệu lực pháp luật ngay và không được quyền kháng cáo.
Trong một số trường hợp đặc biệt sau khi thi hành án, có thể có những phiên giám đốc
thẩm và tái thẩm.
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng tại Toà án thường là giải pháp cuối cùng của
các bên bởi quyết định của Toà án có tính cưỡng chế rất cao vì được đảm bảo bằng bộ
máy thi hành và giám sát thi hành án của Nhà nước. Ngoài ra trong quá trình thụ lý và
xét xử , Toà án có thể đưa ra những "biện pháp khẩn cấp tạm thời" như tạm giữ tài sản,
phong toả tài khoản để bảo vệ bằng chứng, bảo đảm việc thi hành án.
Tuy nhiên, tranh chấp kinh tế trên thế giới thường ít được kiện ra Toà án vị nhiều lý do.
Trước hết đó là trong thủ tục Toà án, quyền tự quyết của các đương sự ở mức thấp nhất
so với các phương thức khác, pháp luật can thiệp trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh
chấp. Các bên sẽ phải tuân thủ theo những thủ tục cứng nhắc, bắt buộc, phức tạp và kéo
dài, án phí lại thường cao. Thứ hai, một khi đã đưa tranh chấp ra Toà thì những bí mật
kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp sẽ không được bảo toàn, cho dù doanh
nghiệp là bên thắng kiện. Thứ ba, khi đã kiện tụng trước Toàn thì quan hệ hợp tác giữa
hai bên khó có thể duy trì, doanh nghiệp sẽ mất một đối tác, một bạn hàng nghĩa là mất
nguồn lợi do quan hệ kinh tế đem lại.
14/33

Giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục trọng tài
Tranh chấp thương mại có thể được giải quyết thông qua trọng tài kinh tế. Đây là một
phương thức giải quyết tranh chấp do các bên tự thoả thuận lập ra nhằm giải quyết dứt
điểm các vụ tranh chấp. Trọng tài kinh tế tồn tại từ rất lâu và phát triển mạnh mẽ trên
thế giới như ngày nay vì tố tụng của nó đã mang lại những lợi ích thiết thực cho các nhà
doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam trọng tài phi Chính phủ vẫn còn chưa quen thuộc
với đa số các nhà doanh nghiệp. Phần tiềp theo, người viết sẽ tập trung vào phương pháp
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
15/33
Trọng tài kinh tế và giải quyết tranh chấp bằng thủ tục
TRONG TÀI KINH TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG THỦ
TỤC
Trọng tài.
Khái niệm.
Theo từ điển luật học của Black's "Trọng tài là cơ quan xét xử do các bên đương sự thoả
thuận thành lập để giải quyết tranh chấp giữa chính các bên đương sự đó. Thành phần
của trong tài do các bên đương sự thoả thuận giải quyết định "
Theo Điều 1, Nghị định 116/CP về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế quy đinh:
"Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty và các thành viên công ty; giữa các
thành viên của công ty với nhau; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu,
trái phiếu.
Ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây còn có hệ thống trọng tài kinh tế
của Nhà nước, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ trưởng hoặc Uỷ ban nhân dân
cùng cấp và chịu sự chỉ đạo, giám sát của trọng tài kinh tế cấp trên. Các cơ quan trọng
tài này hoạt động như một cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý công tác hợp đồng
kinh tế và xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế.
Các hình thức trọng tài kinh tế.
Đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp vốn đa dạng và phức tạp, tạo điều kiện cho các
bên tranh chấp thực hiện quyền lựa chọn của mình đối với các hình thức trọng tài kinh

tế trong nền kinh tế thị trường có thể được phần ra theo những tiêu thức sau:
Căn cứ vào quy chế tổ chức gồm trọng tài vụ việc (trọng tài AD -HOC) và trọng tài
thường trực
Trọng tài AD-HOC: Là loại hình trọng tài không có cơ quan thường trực do các bên
tranh chấp lập ra để giải quyết vấn đề mà họ yêu cầu. Trọng tài AD - HOC không có
quy chế hoạt động riêng và chỉ giải quyết vấn đề xong thì giải tán.
Khi áp dụng hình thức trọng tài AD - HOC, các bên phải tự thoả thuận và lập ra quy
tắc tố tụng, lựa chọn trọng tài viên và địa điểm xét xử. Về cơ bản các bên không bị ràng
buộc bởi các quy định pháp lý về tố tụng khi mà họ vẫn đảm bảo được nguyên tắc khách
quan trong quá trình xét xử trường hợp của họ.
16/33
Giải quyết bằng trọng tài AD - HOC khá đơn giản, nhanh chóng và tiết kiệm được chi
phí do không phải trả phí cho bộ máy hành chính. Đây là biện pháp giải quyết tranh chấp
mềm dẻo, linh hoạt, phán quyết của trọng tài AD - HOC vẫn được công nhận có giá trị
chung thẩm và được thi hành.
Để thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp thì khi lựa chọn trọng tài vụ việc,
các bên nên thoả thuận quy tắc tố tụng trong hợp đồng để khi muốn áp dụng thì chỉ cần
dẫn chiếu. Trong trường hợp cần thiết, các bên có thể sửa đổi, bổ sung một số chi tiết
cho phù hợp với tính chất từng vụ việc. Việc áp dụng các quy tắc này không đòi hỏi các
bên phải trả thêm bất kỳ một khoản lệ phí nào mà lại có thể mang lại cho các bên một
cách thức giải quyết nhanh.
Tuy nhiên trọng tài vụ việc còn có nhược điểm là tính hiệu quả của nó phụ thuộc vào
tinh thần hợp tác toàn diện của các bên tranh chấp và cần có sự hỗ trợ của một hệ thống
pháp luật kinh tế hoàn chỉnh. Nguyên tắc "tự do lựa chọn" sẽ chỉ là hình thức nếu các
bên không có thiện chí với nhau. Trình tự xét xử dễ bị trì hoãn nếu các bên không thống
nhất được thủ tục giải quyết hoặc trở ngại trong việc lựa chọn trong tài viên.
Trọng tài vụ việc trên thực tế chỉ thích hợp với những tranh chấp nhỏ, khi các đương sự
có sự am hiểu về pháp luật, dày dạn trên thương trường và có kinh nghiệp tranh tụng.
Trọng tài thường trực: bên cạnh loại hình trọng tài AD - HOC, còn có loại hình trọng
tài hoạt động thường xuyên, theo thông lệ quốc tế được gọi là trọng tài thường trực hay

trọng tài quy chế. Trọng tài thường trực có điều lệ riêng và quy chế hoạt động cụ thể.
Mỗi tổ chức trọng tài quy chế đều đưa ra một bản quy tắc tố tụng hướng dẫn trình tự tiến
hành thủ tục giải quyết tranh chấp. Các trung tâm trọng tài này đươc gọi dưới các tên
như Toà án trọng tài (Ví dụ Toà án trọng tài quốc tế, Toà án trọng tài Luân Đôn); Trung
tâm trọng tài (Ví dụ Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế
Hông kông ); hay Hiệp hội trọng tài (Hiệp hội trọng tài Mỹ ). Các Trung tâm trọng tài
được tổ chức dưới dạng công ty hoặc Hiệp hội.
Về cơ cấu tổ chức, mỗi tổ chức trọng tài quy chế gồm một bộ phận thường trực hoặc
ban thư ký nhằm cung cấp các dịch vụ hành chính và giám sát việc áp dụng các quy tắc
trọng tài. Thành phần thứ hai không thể thiếu ở các tổ chức trọng tài qui chế là các trọng
tài viên, họ là các luật sư, các chuyên gia giỏi, giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực thương
mại, hàng hải, bảo hiểm
Trọng tài thường trực là hình thức trung gian giữa Toà án và Trọng tài vụ việc, Trọng
tài thường trực giống trọng tài AD - HOC ở khả năng lựa chọn trọng tài viên, tuy có
hạn chế hơn (vì phải chọn một hoặc tất cả trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên
có sẵn của Trung tâm trọng tài). Mặt khác, trong tố tụng trọng tài thường trực, các bên
đương sự buộc phải tuân theo các quy chế xét xử của từng Trung tâm trọng tài, bất luận
nó có phức tạp hoặc không hợp lý đến mức nào. Tuy nhiên, trên thực tế điều này là rất
17/33
hãn hữu, vì để tồn tại và phát triển, bên cạnh chất lượng của đội ngũ trọng tài viên thì
quy chế tố tụng của từng Trung tâm trọng tài phải rất linh hoạt, có khả năng đáp ứng đòi
hỏi của các nhà kinh doanh trong việc giải quyết tranh chấp.
Lợi thế lớn nhất của trọng tài thường trực là có sẵn các bộ quy tắc tố tụng trọng tài và
các bên đương sự chỉ cần thoả thuận áp dụng quy tắc là đủ mà không cần phải tốn công
tạo ra một bộ quy tắc mới. Các bản quy tắc trọng tài cũng được bổ sung thường xuyên,
điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Những điều này rất
thuận lợi cho các doanh nghiệp mới bước vào nghề, hoặc không am hiểu nhiều về luật
pháp, về thủ tục kiện tụng. Nếu họ không muốn có điều gì bất lợi cho mình thì họ chọn
trọng tài thường trực với bộ quy tắc có sẵn để giải quyết tranh chấp. Hơn nữa trọng tài
quy chế hoạt động thường xuyên, có tổ chức chặt chẽ tạo điều kiện cho các bên dễ dàng

quy định một thoả thuận trọng tài riêng. Một ưu điểm khác của trọng tài quy chế là vấn
đề lựa chọn trọng tài viên. Trong trường hợp vụ việc tranh chấp bị một bên gây căng
thẳng làm cản trở việc lựa chọn trọng tài viên thì sự chỉ định của Chủ tịch Trung tâm
trọng tài là hết sức cần thiết. Các trọng tài Trung tâm là những người được tuyển chọn
kỹ càng, và các bên hoàn toàn có thể đặt niềm tin vào trình độ chuyền môn cũng như sự
khách quan của họ. Ngoài ra còn phải kể đến vai trò của ban thư ký đối với quá trình
giải quyết tranh chấp, họ có nhiệmvụ theo dõi, giám sát việc giải quyết tranh chấp làm
cho quá trình thụ lý và xét xử không bị gián đoạn.
Bên cạnh những ưu điểm trên thì trọng tài quy chế cũng có những hạn chế nhất định như
chi phí trọng tài cao hơn so với trọng tài AD - HOC. Ngoài chi phí trọng tài, các tổ chức
trọng tài còn thu thêm phí hành chính. Và cũng do bộ máy hành chính nên đôi khi quá
trình tố tụng trọng tài quy chế kéo dài vì phải tuân thủ những thủ tục trong quy tắc tố
tụng một cách tuần tự và nghiêm chỉnh. Nguyên tắc "tự do lựa chọn" của các bên thực
chất đã bị hạn chế trong quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài.
Theo kinh nghiệm, khi phải giải quyết những vụ tranh chấp phức tạp, có giá trị kinh tế
cao thì nên kiện ra trong trọng tài quy chế.
Căn cứ theo vị trí trọng tì trong hệ thống tổ chức gồm:
Trọng tài Nhà nước: (hay còn gọi là trọng tài Chính phủ): Là cơ quan thuộc hệ thống cơ
quan chấp hành và điều hành Nhà nước, có chức năng quản lý Nhà nước đối với công
tác hợp đồng kinh tế. Hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế
cũng chính là phương tiện để đạt được mục đích là trực tiếp tham gia việc điều hành, tổ
chức các quan hệ kinh tế.
Trọng tài kinh tế Nhà nước tồn tại ở các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung như
ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và ở Việt Nam trước đây (từ những năm 1960
cho đến tận đầu thập kỷ 90). Và hiện nay khi chuyển sang cơ chế thị trường, các quốc
gia này cũng tiến hành đổi mới cách thức tổ chức giải quyết tranh chấp.
18/33
Trọng tài phi Chính phủ: là một tổ chức độc lập, không phụ thuộc hệ thống các cơ quan
Nhà nước. Nó có thể được thành lập ở dạng công ty hoặc Hiệp hội trọng tài. Mô hình
này phổ biến ở nước có nền kinh tế thị trường.

Căn cứ vào mô hình tổ chức:
- Trọng tài độc lập: ví dụ như: Hiệp hội trọng tài Mỹ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản, Toà
án trọng tài quốc tế Luân Đôn.
- Trọng tài bên cạnh phòng thương mại: ví dụ: Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh
phòng thương mại quốc tế, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng
thương mại và chủ nghĩa Việt Nam, Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore.
Căn cứ vào thẩm quyền giải quyết vụ việc: gồm trọng tài chuyên ngành và trọng tài tổng
hợp.
Căn cứ theo đặc điểm thành lập: Trọng tài quốc tế, trọng tài quốc gia.
Thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
Theo pháp luật và thực tiễn trọng tài của các nước trọng tài thì có thẩm quyền xét xử
khi các bên đương sự thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu các bên trước
và sau khi phát sinh tranh chấp không thống nhất giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thì tranh chấp được giải quyết bằng Toà án. Tuy nhiên, việc thoả thuận giải quyết tranh
chấp phải được thực hiện trong khuôn khổ do pháp luật quy đinh.
Theo mục một, Thông tư 02 - PLDSKT ngày 03/01/1995 hướng dẫn thi hành về thẩm
quyền của trọng tài kinh tế được quy định tại Nghị định 116/CP về tổ chức và hoạt động
của trọng tài kinh tế, "trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp sau đây, không phụ
thuộc vào quốc tịch của các bên tranh chấp.
Tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với
doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp tư nhân và giữa
pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân với cá nhân kinh doanh
Vấn đề thoả thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp còn được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Ví dụ Mục 3 Điều 239 Luật Thương mại quy
định: "Trong trường hợp thương lượng hoặc hoà giải không đạt kết quả thì tranh chấp
thương mại tại trọng tài, Toà án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của trọng tài,
Toà án mà các bên lựa chọn". Điều 21b Điều lệ mua bán licent, Điều 241 Bộ luật Hàng
hải Việt Nam, Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Điều 38
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Điều 24 Luật đầu tư nước ngoài cũng có những quy định
tương tự.

19/33
Nguyên tắc của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Quy tắc tố tụng là khung pháp lý mà Uỷ ban trọng tài và các bên đương sự phải tuân
theo. Do trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp được hình thành trên cơ sở tự nguyện
của các trọng tài viên, theo quy định của Pháp luật; hoặc trên cơ sở lựa chọn của các
đương sự (trọng tài AD - HOC), nên không tồn tại một tố tụng thống nhất. Tuy vậy, thủ
tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của tất cả các tổ chức, hình thức trọng tài phải
đảm bảo các nguyên tắc sau mà nếu vi phạm các nguyên tắc này sẽ dẫn đến hậu quả
pháp lý rất phức tạp.
+ Nguyên tắc tự nguyện: Là nguyên tắc cốt lõi trong vấn đề trọng tài vì trọng tài được
hình thành là do ý chí tự nguyện của các bên đương sự và trong quá trình giải quyết
tranh chấp, trọng tài đều nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Họ có thể thoả
thuận chọn hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, trọng tài viên, địa điểm mà họ thấy
thuận tiện và thậm chí là cả quy tắc tố tụng áp dụng trong vụ kiện. Trong quá trình tranh
tụng, nếu các bên đạt được sự thống nhất trên cơ sở thương lượng hoặc hoà giải thì trọng
tài phải tôn trọng sự thoả thuận đó và chấm dứt việc giải quyết vụ việc.
+ Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp: Trong mọi việc: từ lựa chọn hay bãi
miễn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm tố tụng, trong việc đưa đơn yêu cầu hay đơn biện
minh trong việc nhận thông tin từ trọng tài và phía bên kia. Mọi tài liệu thông tin cho
trọng tài đều phải thông báo cho bên kia, mọi biện pháp, quyết định của trọng tài đều
phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tranh chấp.
+ Nguyên tắc độc lập của các trọng tài viên trong khi giải quyết tranh chấp trong quá
trình giải quyết tranh chấp, không ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên.
Các trọng tài viên bình đẳng với nhau và xét xử độc lập căn cứ vào những Điều khoản
của hợp đồng và pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, với tư cách là những người hoàn toàn
độc lập trong xét xử tranh chấp, trọng tài phải đảm bảo thái độ khách quan, vô tư nếu
không muốn bị các bên khước từ hoặc phải tự khước từ.
+ Nguyên tắc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp: đây là nguyên tắc xuất phát từ
mong muốn và lợi ích của các doanh nghiệp. Theo đó, các buổi họp xét xử của trọng tài
trên cơ sở sự thoả thuận của các trọng tài viên sẽ được tiến hành tại nơi mà ngoài trọng

tài viên và các đương sự thì những người không có trách nhiệm hoặc không liên quan
thì không được có mặt. Trọng tài viên có trách nhiệm phải đảm bảo bí mật mọi vấn đề
mà mình biết khi tiến hành giải quyết vụ việc, kể cả phán quyết cuối cùng trừ khi được
sự đồng ý của các đương sự.
+ Quyết định của trọng tài có giá trị bắt buộc với các bên và không thể bị kháng cáo.
20/33
Các vấn đề khi đưa tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục
trọng tài
Các vấn đề khi đưa tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài.
Thoả thuận trọng tài.
Như trên đã đề cập, để giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại bằng trọng tài thì điều
kiện cần là phải có tranh chấp phát sinh và điều kiện đủ là phải có một thoả thuận giữa
các bên thống nhất đưa ra tranh chấp ra giải quyết ở trọng tài.
Thoả thuận trọng tài là thoả thuận của các bên có liên quan đưa ra tranh chấp đã xảy ra
hoặc có thể xảy ra để giải quyết thông qua thủ tục trọng tài.
Thoả thuận trọng tài có giữa các bên đồng nghĩa với việc các bên đã gián tiếp thoả thuận
khước từ thẩm quyền xét xử của Toà án quốc gia. Nếu không có thoả thuận sẽ không có
trọng tài, hoặc nếu trọng tài không được tiến hành dựa trên cơ sở thoả thuận thì trọng
tài này bị pháp luật coi là vô hiệu khi đã thoả thuận, các bên phải thực hiện nghĩa vụ
phát sinh từ thoả thuận này. Nếu một bên vi phạm thoả thuận trọng tài, bên kia có quyền
yêu cầu Toà án can thiệp buộc bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ thoả thuận trọng tài
không dẫn đến các chế tài phạt như trong chế tài phát hợp đồng. Thay cho chế tài buộc
thực hiện hợp đồng phạt hoặc bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, thông thường là quy
định của pháp luật đảm bảo cho thoả thuận trọng tài được thực hiện mà không phụ thuộc
vào ý chí của các bên liên quan.
Thoả thuận trọng tài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài. Đó chính là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ hoạt động của trong tài: từ lúc đưa
tranh chấp ra trọng tài nào, chọn trọng tài viên ra sao cho đến cách thức thủ tục giải
quyết tranh chấp.
Thoả thuận trọng tài tồn tại dưới hai dạng đó là Điều khoản trọng tài trong hợp đồng và

thoả thuận trong tài riêng biệt. Điều khoản trọng tài trong hợp đồng là thoả thuận giữa
cá bên hợp đồng chon trọng tài để giải quyết tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai.
Điều khoản này nằm ở phần cuối hợp đồng, không phải là do nó không quan trọng bằng
các điều khoản khác mà là do trình tự đàm phán. Sau khi các bên đã thoả thuận xong
phần lớn điều khoản chủ yếu khác rồi mới thoả thuận điều khoản này. Nó còn được gọi
một cách hình ảnh là "Điều khoản nửa đêm" (midnight clause). Do tranh chấp hợp đồng
chưa xảy ra và có thể không bao giờ xảy ra nên Điều khoản trọng tài thường rất ngắn
gọn, đôi khi quá đơn giản, ví dụ "trọng tài: theo quy tắc của ICC; Luật áp dụng; Luật
Việt Nam; nơi xét xử Singapore". Tuy vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
vẫn có thể tiến hành được. Thoả thuận trọng tài riêng biệt được lập khi giữa các bên đã
21/33
có tranh chấp xảy ra. Do các bên đã biết rõ về loại tranh chấp nên thoả thuận trọng tài
trong trường hợp này thường được các bên soạn thảo một cách chi tiết, cụ thể và do vậy
thường hiệu quả hơn. Tuy vậy, đàm phán cho thoả thuận trọng tài riêng biệt thường khó
khăn và phức tạp hơn rất nhiều so với điều khoản trọng tài vì không phải lúc nào bên vi
phạp cũng có thiện ý giải quyết tranh chấp, họ thường lảng tránh hoặc cố tình kéo dài
thời gian đàm phán để chiếm dụng vốn hoặc làm mất thời hiệu khởi kiện.
Theo pháp luật trọng tài của phần lớn các nước trên thế giới thì thoả thuận trọng tài phải
được lập bằng văn bản. Văn bản có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng thoả thuận
trọng tài riêng biệt hoặc thoả thuận trọng tài được lập thông qua các hình thức trao đổi
thư từ, công văn, qua các phương tiện thông tin điện tử như Telex, Fax
Trong thoả thuận trọng tài, một trong những nội dung cơ bản là các bên phải thoả thuận
đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết. Tên cơ quan trọng tài có thẩm quyền giải quyết,
luật áp dụng cho hợp đồng, luật áp dụng cho thủ thục tố tụng, giá trị của phán quyết, chi
phí trọng tài, địa điểm trọng tài, ngôn ngữ xét xử, thời hiệu khởi kiện, nội dung tranh
chấp được giải quyết bằng trọng tài.
Chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài cũng là một vấn đề quan trọng. Những người có
quyền ký kết hợp đồng thì cũng có nghĩa là họ có quyền ký thoả thuận trọng tài. Năng
lực chủ thể ký kết hợp đồng được pháp luật các quốc gia quy định khác nhau. Nếu là cá
nhân thì phụ thuộc vào quốc tịch hoặc nơi cá nhân này thường trú. Nếu là doanh nghiệp

thì phụ thuộc vào nơi tiến hành hợp đồng kinh doanh hoặc là nơi thành lập. Vì không đủ
năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng tài, phán quyết trọng tài có thể bị từ chối công
nhận và thi hành theo quy định tại Mục a, Khoản 1 Điều V Công ước NewYork 1958.
Thoả thuận trọng tài hoàn chỉnh sẽ giúp các bên hạn chế tổn thất khi xảy ra tranh chấp.
Sự chặt chẽ, cụ thể của thoả thuận trọng tài sẽ phần nào hạn chế vi phạm thoả thuận
trọng tài của các bên.
Luật áp dụng trong hợp đồng - cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp.
Luật áp dụng để xét xử tranh chấp là luật mà trọng tài dùng để xem xét việc thực hiện
nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật này được gọi
là luật áp dụng cho hợp đồng.
Đối với các tranh chấp thương mại nội địa, đương nhiên, luật áp dụng trong hợp đồng là
luật quốc gia, chẳng hạn như ở Việt Nam thì căn cứ vào luật thương mại, pháp lênh hợp
đồng kinh tế, luật đất đai Vấn đề chọn luật áp dụng trong hợp đồng không đặt ra với
các hợp đồng nội.
Trong thương mại quốc tế, luật của rất nhiều nước liên quan đến quan hệ của các bên
trong hợp đồng và cùng có khả năng điều chỉnh hợp đồng ngang nhau. Giữa các nguồn
22/33
luật đó luôn tồn tài hiện tượng xung đột luật, vì thế khi đưa tranh chấp ra trong tài, các
bên đương sự phải thoả thuận thống nhất về luật áp dụng trong hợp đồng. Các nguồn
luật áp dụng trong thương mại quốc tế bao gồm: Các điều ước quốc tế, các tập quán
thương mại quốc tế và luật quốc gia.
+ Điều ước quốc tế: là những văn bản có chứa những quy phạm pháp luật được các quốc
gia và các chủ thể khác xây dựng, ký kết, công nhận và có hiệu lực pháp lý đối với chủ
thể của các quốc gia thành viên. Nó có thể là: Hiệp ước, Hiệp định, Nghị định thư, công
hàm trao đổi khi có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhưng không được quy định
hoặc quy định không đầy đủ thì các bên có thể đưa điều ước quốc tế vào để xử lý vấn đề
đó. Các điều ước này không có giá trị bắt buộc đối với các quan hệ thương mại quốc tế
nếu như nó chưa được quốc gia đó phê chuẩn. Khi quốc gia đã phê chuẩn, tất cả những
trường hợp mà hợp đồng không dẫn chiếu thì điều ước đó vẫn đương nhiên được áp
dụng.

Có hai loại điều ước quốc tế trong lĩnh vực mua bán hàng hoá: Thứ nhất, loại điều ước
quốc tế đề ra những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động thương mại, nó
không điều chỉnh trực tiếp các vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của các
bên tham gia hợp đồng mà chỉ đề ra các nguyên tắc pháp lý có tính chất định hướng, chỉ
đạo: ví dụ như Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU, Hiệp định thương mại
Việt Nam - Mỹ; Hiệp định cắt giảm thuế quan với ASEAN Thứ hai, là loại điều ước
quốc tế trực tiếp điều chỉnh đến các vấn đề có liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm và
nghĩa vụ của các bên trong ký kết và thực hiện hợp đồng. Đây chính là nguồn quy phạm
pháp luật dùng để giải quyết tranh chấp, thường được các bên và cơ quan tiến hành tố
tụng viện dẫn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Loại điều ước này điển hình có Công
ước Brussel 1964 về chuyên chở hàng hoá, Công ước viên 1980 về mua bán hàng hoá
quốc tế.
+ Tập quán thương mại: là những quy tắc xử sự có hệ thống, những thói quen thương
mại phổ biến được áp dụng một cách thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài và
phải có nội dung rõ ràng mà qua đó có thể xác định được quyền và nghĩa vụ đối với
nhau. Các tập quán thương mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lý và có hiệu lực bắt buộc đối
với các chủ thể ký kết khi nó được quy định hoặc dẫn chiếu vào hợp đồng. Điều 135 quy
tắc ICC về trọng tài quy định "Các trọng tài không chỉ áp dụng luật áp dụng mà còn phải
dùng tới các điều khoản trong hợp đồng và những "Tập quán thương mại" thích hợp để
giải quyết vụ việc". Trong những luật trọng tài của các quốc gia cũng quy định như vậy.
Một ví dụ về tập quán thương mại quốc tế thông dụng được phòng thương mại quốc tế
soạn thảo và ban hành đó là các bản Incoterm: quy định về điều kiện cơ sở giao hàng.
Hay là quy tắc thống nhất và thực hành tín dụng chứng từ - UCP cũng tỏ ra rất hữu dụng
trong việc hướng dẫn đến một chuẩn mực quốc tế duy nhất cho quyền và nghĩa vụ của
các bên.
23/33

×