Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận đề tài tìm hiểu sự ra đời và phát triển của hệ điều hành android

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.2 KB, 33 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN MẠNG MÁY TÍNH
TIỂU LUẬN
NGUYÊN LÝ HỆ ĐIỀU HÀNH
Giáo Viên Hướng Dần: Nguyễn Thị Hữu Phưong
Sinh Viên Thực Hiện: Lê Minh Đạt 1121050025
Hoàng Thanh Tùng 1121050333
Vũ Thị Huyền 1121050226
Lớp: Mạng Máy Tính K56
Đề Tài: Tìm Hiểu về Sự Ra Đòi Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành Android
Hà Nội - Ngày 24 Tháng 04 Năm 2013
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
MUC LUC
I. GIỚI THIỆU VỀ HỆ ĐIỀU HÀNH MÃ NGUỒN MỞ ANDROID 7
II. HỆ ĐIỀU HÀNH MÃ NGUỒN MỎ ANDROID 7
/. Sự Ra Đời 7
2. Giấy Phép 8
3. Biểu Tượng 8
III.

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC PHIÊN BẢN ANDROID

10

/. Điếm Khởi Đầu Của Android - Androỉd 1.0 (Linux Kernel 2.6, 2.7) 10
2. Android 1.1 (Ngày 9 Tháng 2 Năm 2009) 11
3. Android 1.5 Cupcake (Linux Kernel 2.6,27- Ngày 30 Tháng 4 Năm 2009) 12
4. Android 1.6 Donuí (Linux Kernel 2.6,29 - Ngày 30 Tháng 9 Năm 2009) 13
5. Android 2.0 và Android 2.1 Ẻclair (Linux Kernel 2.6,29 - 26/10/009) 14


6. Android 2.2 Froyo (Linux Kernel 2.6,32 Ngày 20 Tháng 5 Năm 2010) 17
7. Android 2.3 Gingerbread (Linux Kernel 2.6,33,34 - 6 Thảng 12 Năm 2010). 18
8. Android 3.X Honeycomb (Ngày 22 Tháng 2 Năm 2011) 20
9. Androỉd 4.0 Ice Cream Sandwich (Ngày 19 Thảng 10 Năm 2011) 21
10. Android 4.1 và 4.2 Jelly Beari (Ngày 9 Tháng 7 Năm 2012) 22
IV.

CẤU TRÚC CỦA ANDROID

23

/. Bộ Nạp Khởi Động - BootLoader 23
2. Ngôn ngữ cửa Android 24
3. Hackỉng - Root 25
4. Kernel 26
V. NHƯỢC ĐIẾM CỦA ANDROID 28
/. Tại Sao Android Lại Kém Mượt Và Pin Yeu? 28
2. Sự Phân Mảnh Của Android 31
2.1)

Model

32

2.2)

Thương hiệu

32


2.3)

Phiên bản Android

33

Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
2.4)

Độ phân giải màn hình

33

2.5)

Các bản ROM

33

3. Malware Trên Android 34
VI.

GOOGLE THU LỌI TỪ ANDROID NHU THÉ NÀO?

35

VII.

KÉT LUẬN


35

Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
ĨD
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
1. Vũ Thị Huyền.
Tìm hiếu về:
- Sự ra đời của hệ điều hành Android.
- Giấy phép.
- Biếu tượng của hệ điều hành Android.
- Phiên bản Android 1.0
- Phiên bản Android 1.1
- Phiên bản Android 1.5: Cupcake
Phiên bản Android 1.6: Donut
2. Hoàng Thanh Tùng.
Tìm hiểu về:
- Phiên bản Android 2.0 và 2.1 : Éclair
- Phiên bản Android 2.2 : Froyo.
- Phiên bản Android 2.3 : Gingerbread
Phiên bản Android 3.0 : Honeycomb
- Phiên bản Android 4.0 : Ice Cream Sandwich
Phiên bản Android 4.1 và 4.2 : Jelly Bean.
3. Lê Minh Đạt
Tìm hiểu về:
- Cấu trúc của Hệ Điều Hành Android:
+ Bootloader + Ngôn ngữ của
Android + Hacking - Root +
Kemel
- Nhược điểm của Android:

+ Sự kém mượt và pin yếu.
+ Sự phân mảnh của Android thế hiện qua Model, Thương hiệu, phiên bản
Android, Độ phân giải màn hình.
- Malware
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
- Cách thức Google kiếm tiền với Android - một hệ điều hành mã nguồn mở
- Ket luận.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Ciro^oo
ANDROID NGƯỜI KHỔNG LỒ XANH
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID. GĨỚĨ THĨẺU VÈ
HẺ ĐĨẺU HÀNH MÃ NGUÒN MỞ ANDROĨD.
Android là hệ điều hành trên điện thoại di động (và hiện nay là cả trên một số thiết bị kĩ thuật số
khác như máy ảnh và đầu kĩ thuật số) được phát triến chính bởi Google và dựa trên nền tảng hệ điều
hành Linux. Trước đây, Android được phát triển bởi công ty liên hợp Android ( sau đó được Google
mua lại vào năm 2005). Theo công ty nghiên cứu thị trường NPD, thiết bị di động sử dụng hệ điều hành
Android bán được tại Mỹ trong quý II năm 2010 xếp vị trí đầu tiên với 33%, thứ 2 là BlackBerry os với
28% và ios ở vị trí thứ 3 với 22%. Android có một cộng đồng nhũng nhà phát triển rất lớn viết các úng
dụng cho hệ điều hành của mình. Hiện tại có khoảng 80,000 ứng dụng cho Android os và vào khoảng
100,000 ứng dụng đã được đệ trình, điều này khiến Android trở thành hệ điều hành di động có môi
trường phát triển lớn thứ 2. Các nhà phát triển viết ứng dụng cho Android dựa trên ngôn ngữ Java. Sự ra
mắt của Android vào ngày 5 tháng 11 năm 2007 gắn với sự thành lập của liên minh thiết bị cầm tay mã
nguồn mở, bao gồm 78 công ty phần cứng, phần mềm và viễn thông nhằm mục đính tạo nên một chuẩn
mở cho điện thoại di động trong tương lai. Google công bố hầu hết các mã nguồn của Android theo bản
cấp phép Apache. Hệ điều hành Android bao gồm 12 triệu dòng code; 3 triệu dòng XML (eXtensible
Markup Language, "Ngôn ngũ' Đánh Dấu Mở rộng"), 2.8 triệu dòng mã c, 2.1 triệu mã Java và 1.75
triệu dòng mã C++.

I. HẺ ĐĨÈU HÀNH MẴ NGUÒN MỞ ANDROID.
1. Sự Ra Đời.
Tháng 7 năm 2005 Google mua lại Android Inc, một công ty nhỏ được thành lập từ năm 2003 có
trụ sở ở Palo Alto, Caliíbrnia, Mỹ. Những nhà đồng sáng lập của Android chuyến sang làm việc tại
Google gồm có Andy Rubin (đồng sáng lập công ty Danger), Rich Minner (đồng sáng lập công ty
Wildfire Communications), Nick Sears (từng là phó chủ tịch của T-Mobile), và Chris White (trưởng
nhóm thiết kế và phát triển giao diện tại WebTV). Khi đó, có rất ít thông tin về các công việc của
Android, ngoại trừ việc họ đang phát triển phần mềm cho điện thoại di động. Điều này tạo những tin
đồn về việc Google có ý định bước vào thị trường điện thoại di động.
Tại Google, nhóm do Rubin đứng đầu đã phát triển một nền tảng thiết bị di động dựa trên hạt
nhân Linux, được họ tiếp thị đến các nhà sản xuất thiết bị cầm tay và các nhà mạng trên những tiền đề
về việc cung cấp một hệ thống mềm dẻo, có khả năng nâng cấp mở rộng cao. Một số nguồn tin cho biết
trước đó Google đã lên danh sách các thành phần phần cứng và các đối tác phần mềm, đồng thời ra hiệu
với các nhà mạng rằng họ sẵn sàng hợp tác ở nhiều cấp độ khác nhau. Ngày càng nhiều suy đoán rằng
Google sẽ tham gia thị trường điện thoại di động xuất hiện trong tháng 12 năm 2006. Tin tức của BBC
và Nhật Báo Phố Wall chú thích rằng Google muốn đưa công nghệ tìm kiếm và các úng dụng của họ vào
điện thoại di động và họ đang nỗ lực làm việc để thực hiện điều này. Các phương tiện truyền thông tin
và Online cũng sớm có bài viết về những tin đồn cho rằng Google
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
đang phát triển một thiết bị cầm tay mang thương hiệu Google. Và lại càng có nhiều suy đoán sau bài
viết về việc Google đang định nghĩa các đặc tả công nghệ và trình diễn các mẫu thử với các nhà sản xuất
điện thoại di động và nhà mạng.
Tháng 9 năm 2007, tờ InformationWeek đăng tải một nghiên cứu của Evalueserve cho biết
Google đã nộp một số đơn xin cấp bằng sáng chế trong lĩnh vực điện thoại di động.
Ngày 5 tháng 11 năm 2007, Liên Minh Thiết Bị cầm Tay Mở Rộng (Open Handset Alliance),
một hiệp hội bao gồm nhiều công ty trong đó có Texas Instruments, Tập Đoàn BroadCom, Google,
HTC, Intel, LG, Tập Đoàn Marvel Technology, Motorola, Nvidia Qualcomm, Samsung Electronics,
Sprint Nextel và T- Mobile được thành lập với mục đích phát triển các tiêu chuẩn mở cho thiết bị di
động. Cùng với sự thành lập của OHA (Liên minh thiết bị cầm tay mã nguồn mở), họ cũng giới thiệu

sản phẩm Android đầu tiên. Nó là một thiết bị di động có hệ điều hành dựa trên nhân Linux phiên bản
2.6.(2.7)
Ngày 9 tháng 12 năm 2008 thêm 14 thành viên mới gia nhập dự án Android được công bố, gồm
có ARM Holdings, Atheros Communications, Asustek Computer Inc, Garmin Ltd, Soítbank, Sony
Ericsson, Toshiba Corp và Vodaíòne Group Plc
2. Giấy Phép.
Trừ những giai đoạn cập nhật ngắn, Android đã lưu hành với mã nguồn mở kế tù' ngày 21 tháng
10 năm 2008. Google đã mở toàn bộ mã nguồn (bao gồm cả các ngăn xếp mang và điện thoại) dưới giấy
phép Apache. Với giấy phép Apache, các nhà cung cấp có thể thêm những mở rộng thương mại mà
không cần chuyển chúng thành mã nguồn mở.
3. Biểu Tượng.
Biếu tượng đại diện của hệ điều hành Android hiện tại là chú robot màu xanh, vốn được biết đến
với tên gọi Bugdroid, ngay tù’ khi ra mắt đã trở nên phố biến và được ưa chuộng trên thị trường di động
thế giới. Tuy nhiên, chú robot xanh xinh xắn lại không phải là biếu tượng đầu tiên của hệ điều hành này.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Người mảy màu xanh lả này đã trở nên quả quen thuộc trên toàn cầu
Hình ảnh về những con robot trông có vẻ tinh nghịch với hình dáng như những chiếc kẹo bên
dưới đây chính là hình đại diện được đề cử đầu tiên dành cho hệ điều hành Android. Chúng được sáng
tạo bởi Dan Morill, một nhân viên làm việc trong bộ phận lập trình của Google, vào năm 2007. Tuy
không được lựa chọn để làm hình ảnh đại diện chính thức, nhưng những biểu tượng vui nhộn này cũng
đã tồn tại trong một khoảng thời gian khá dài với biệt danh Dandroids.
Dandroids có vẻ "nhỉ nhổ" hơn Bugdroỉd
Dandroids mặc dù mang những nét đặc trưng riêng nhưng đến sau cùng, Google đã chọn “người
máy” Bugdroid - với dáng vẻ hiện đại và trẻ trung hơn - được sáng tạo bởi Irina Blok, làm biểu tượng
chính thức cho hệ điều hành di động của họ. Bên cạnh đó, để khẳng định thương hiệu, cách đặt tên các
phiên bản hệ điều hành Android theo các
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
món ăn tráng miệng do Ryan PC Gibson đề xuất cũng đã được Google áp dụng. Và cho đến bây giờ,

Android đã và đang mang đến thêm nhiều hương vị ngọt ngào nữa như Cupcake, Donut, Ice Cream
Sandwich, Jelly Bean hay sắp tới đây sẽ là Key Lime Pie.
Androtd l.s AndroM 1.6 Android 2ữ 6t 2.1 Android 22
Cupcake Donut Eclair
Fr
°y°
Android 3.0
Ginger6read
Android 3.S
HoneyComb
ỊỊ
iceCream
Các phiên bản Android được đặt tên theo các món trảng miệng
II.

LICH SỬ PHẮT TRĨÈN CỦA CẮC PHIÊN BẢN ANDROĨD.
Android đã có những bước đi dài kể từ khi thiết bị đầu tiên dùng hệ điều hành này xuất hiện,
chiếc HTC Dream (ở nhiều nước gọi là T-Mobile Gl) . Trong quãng thời gian ấy, người dùng đã chúng
kiến sự xuất hiện của rất nhiều phiên bản Android, giúp nó dần biến đối thành một nền tảng di động
mạnh mẽ như ngày hôm nay.
1. Điểm Khỏi Đầu Của Android - Android 1.0 (Linux Kernel 2.6, 2.7)
Kỉ nguyên Android chính thức khởi
động vào ngày 22/10/2008, khi mà chiếc
điện thoại T-Mobile GI chính thức được bán
ra ở Mỹ. Ở giai đoạn này, rất nhiều những
tính năng cơ bản cho một smartphone bị
thiếu sót, chẳng hạn như bàn phím ảo, cảm
ứng đa điểm hay khả năng mua ứng dụng.
Tuy nhiên, vai trò của phiên bản đầu tiên
này vô cùng quan trọng. Nó đã đặt nền

móng cho các tính năng có thể xem là đặc
điểm nhận dạng của Android ngày nay.
■ V-l •
\ VSr
' 0.7 ml I -r 1
» 'I ỉ
»
.tí
1 2 3 4 5 6 7 8 9 0
0* w
E - R
£
T* Y u" I* o" p*
A
s'
D'
[
G
)
H
:
J ‘ K L cẽ
•* z X c v‘
8
1
N
<
V

ALT

^
&
STU
/
( UI Ỷ
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
0
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Thanh thông báo kéo từ trên xuống: Ngay từ ngày đầu tiên trình làng, Android đã được tích hợp
một hệ thống cảnh báo vô cùng hữu dụng so với nhũng đối thủ cạnh tranh thời bấy giờ mặc dù nó không
được tốt như Notiíĩcation Bar trên các thế hệ Android mới. Người dùng có thể nhanh chóng xem những
tin nhắn đến, xem ai mới gọi nhỡ hoặc bất cứ thứ gì mà phần mềm trên đang máy muốn người dùng biết.
Tất cả thông báo đều tập hợp trong một danh sách duy nhất. Thanh trạng thái, bao gồm đồng hồ, biểu
tượng pin, biểu tượng cho các kết nối cũng được tích hợp vào nơi đây, giúp tiết kiệm tối đa không gian
màn hình nhưng vẫn phục vụ đầy đủ nhu cầu thông tin cho người sử dụng. Mãi cho đến ngày nay,
Android 4.2 vẫn duy trì ý tưởng tuyệt vời này.
Màn hình chính và widget: Neu muốn so sánh Android, ios và Windows Phone, điểm khác
biệt lớn nhất đó là một màn hình chính. Màn hình chính của Android thật sự rất phong phú. Có thể thay
đổi hình nền (Windows Phone không làm được điều này), đặt icon ra màn hình chính, sử dụng widget và
hơn hết là thay luôn cả cái màn hình chính nếu muốn. Độ tùy biến của màn hình chính trên Android có
thế xem là cao nhất trong các hệ điều hành di động hiện nay. về phần widget, đây cũng là một điểm hay
của Android vì nó cho phép người dùng nhanh chóng truy cập đến một số tính năng nào đó hoặc xem
nhanh các thông tin cập nhật chi tiết một cách nhanh nhất. Widget cũng đóng vai trò trang trí cho màn
hình chính nữa. Symbian cũng có widget nhưng chưa so được với Android về mức độ phong phú và
chức năng (tất nhiên là phải về sau này, còn lúc mới ra thì chưa có nhiều).
Tích họp chặt chẽ với Gmail: Lúc chiếc GI ra mắt, Gmail đã hỗ trợ giao thức POP và IMAP đế
dùng được với các trình gửi nhận email trên thiết bị di động, nhung vấn đề nằm ở chỗ không có giao
thức nào được tận dụng tối đa để phục vụ những tính năng độc đáo của Gmail (ví dụ như lưu trữ, đánh
nhãn cho email). Android 1.0 ra mắt đã khắc phục được vấn đề này và có thể nói chiếc G1 đã mang lại
trải nghiệm Gmail tốt nhất trên thị trường vào thời điểm đó.

về mặt giao diện: Google xây dựng giao diện của Android 1.0 với sự hợp tác của một công ty
thiết kế đến từ Thụy Điển với tên gọi The Astonishing Tribe (TAT). Từ Android 1.0 đến 2.2, có thể thấy
sự xuất hiện của một widget đồng hồ quen thuộc, tuy đơn giản nhung khá đẹp mắt, đó chính là dấu ấn
của TAT. Một thời gian sau, TAT bị RIM mua lại để tập trung phát triển cho nền tảng BlackBerry os
cũng như BBX. Mối quan hệ của TAT với Google Android cũng chấm dứt ở đây.
2. Android 1.1 (Ngày 9 Tháng 2 Năm 2009)
Tháng 2/2009, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba tháng sau khi GI
được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì to lớn bởi tính năng chính của nó là
sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã cho thấy khả năng nâng cấp thiết bị di động qua phương
pháp Over-The-Air (tức tải về và cài đặt
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
bản cập nhật ngay trên thiết bị, không cần kết nối với máy tính). Ở thời điểm đó, rất ít hệ
điều hành di động có thế làm được việc này, hầu hết đều phải nhờ đến một phần mềm
chuyên dụng nào đó trên PC. Trước đó, ở Mỹ có dòng máy Danger Hiptop (được biết
nhiều hơn với tên Sidekick) đã có cập nhật dạng gần giống over the air theo từng giai
đoạn, và chính Andy Rubin, người sáng lập công ty Android Inc. (sau đó Google mua lại)
cũng chính là nhà đồng sáng lập hãng Danger.
3. Android 1.5 Cupcake (Linux Kernel 2.6,27 - Ngày 30 Tháng 4 Năm 2009)
Android 1.5 có lẽ có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình trưởng thành của
Android khi nó bổ sung cho hệ điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó cạnh tranh
với các nền tảng đối thủ khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được Google gọi tên
theo các món đồ ăn với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự alphabet. Cupcake là một
loại bánh nhỏ, hơi giống bánh bông lan và có kem bên trên. Sau này ta có thêm Donut,
Eclair (bánh su kem nhưng dài, nhân chocolate), FroYo (ya-ua đá), Gingerbread (bánh
gừng), Honeycomb (một loại bánh có hình tổ ong), Ice Cream Sandwich (bánh sandwich
kem) và mới đây nhất là Jelly Bean (một loại kẹo dẻo viên nhỏ, hình hạt đậu).
về mặt giao diện, Android 1.5 không có nhiều điểm thay đổi so với người tiền
nhiệm của mình. Google chỉ điểm thêm vài điểm để làm giao diện trông bóng bẩy, mượt
mà hơn một tí, chang hạn như widget tìm kiếm có độ trong suốt nhẹ, biếu tượng app

drawer có một số hoa văn nhỏ mới, v.v. Nói chung, giaodiện không phải là một điểm
nhấn của Android 1.5 mà người ta quan tâm nhiều hơn
các tính
mới mànó
mang lại, chẳng hạn như:
Bàn phím ảo: Tại sao Google không cho QHỊ]<35:30PM
những bản Android đầu tiên bàn phím mềm? Đâu
phải là họ không có khả năng làm đâu? Thực chất,
mục tiêu ban đầu của Android là cạnh tranh với
BlackBerry. Vâng, thời đó BlackBerry đang rất nổi
và được nhiều người dùng quan tâm, nhất là ở Mỹ,
bởi chính bàn phím vật lí của nó. Bởi vậy mà GI có
một bàn phím QWERTY trượt ngang. Mãi đến bản
Cupcake này mới có một chiếc điện thoại Android
\t________________ I
Subject
Compose Mail
1 Send 1

ạ Discard
q v v e r t y u i o
p
a s d f g h
j k I
yv _ _ 1_______________________
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Cùng với đó, Google tích hợp vào Cupcake những "cái móc", dân lập trình gọi là hook, đế họ có
thế tự do viết phần mềm bàn phím của riêng mình cho Android. Lại thêm một điểm nữa khiến cho
Android trở nên khác biệt với các hệ điều hành đối thủ khác. Lúc Cupcake xuất hiện, bàn phím ảo mặc

định rất chậm và không chính xác khi so sánh với ios, chính vì thế mà những hãng sản xuất phần cứng
như HTC đã phát triến riêng một biện pháp khắc phục, cũng may là có hook do Google mở ra.
Mở rộng khả năng cho widget: Android 1.0 và 1.1 có tích hợp widget, nhưng tiềm năng của
nó chưa được khai thác hết vì Google chưa đưa bộ phát triển phần mềm cho lập trình viên. Từ Android
1.5 trở đi thì chuyện đã thay đổi, và đến thời điểm hiện tại, kho widget của Android đã rất phong phú,
đó là chưa kể đến những ứng dụng của bên thứ ba cũng mang sẵn trong mình widget nữa. Nhờ có khả
năng này mà việc tùy biến giao diện của Android càng được đẩy mạnh hơn nữa.
Cải tiến clipboard: Thật ra Android đã hỗ trợ việc copy và paste ngay từ những ngày đầu tiên
rồi, nhưng nó bị giới hạn lại ở textbox (là những chỗ nào chúng ta có thể gõ chữ được) và sao chép các
đường link mà thôi. Ví dụ đang đọc mail hay đang duyệt web thì chịu, chúng ta không cách gì sao chép
được. Với Cupcake thì Google cho phép sao chép nội dung của web, một cải tiến được đánh giá là tốt.
Còn với Gmail thì phải đến vài bản nâng cấp sau mới có được tính năng này.
Khả năng quay phim: Thật khó mà tưởng tượng được chiếc smartphone xịn lại bán ra mà không
hề có tính năng quay phim, nhưng đó là nhũng gì mà chiếc T-Mobile GI phải "hứng chịu" (cũng hơi
giống iPhone những đời đầu). Mãi đến Android 1.5 thì Android mới quay phim được. Nhưng cũng giống
với bàn phím, trình camera mặc định của Android không tốt nên các hãng phần cứng phải nhanh chóng
thay nó với ứng dụng của riêng mình với các chế độ quay theo cảnh, chạm để lấy nét, tùy chỉnh thông số
video.
Và còn nhiều thứ khác nữa bao gồm khả năng xóa hoặc di chuyển hàng loạt email trong Gmail,
cho phép tải ảnh, vi deo lên YouTube, Picasa, truy cập danh bạ trong Google Talk từ nhiều ứng dụng
khác.
4. Android 1.6 Donut (Linux Kernel 2.6,29 - Ngày 30 Tháng 9 Năm 2009)
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Phiên bản bánh Donut
này, mặc dù chỉ thêm có 0.1
vào mã số của Android 1.5
nhưng nó cũng mang lại
nhiều cải tiến đáng giá. Một
vài điểm trong giao diện

được cải thiện, vài tính năng
nhỏ được thêm vào, cuối
cùng là hỗ trợ cho mạng
CDMA. Động thái này cho
phép nhiều nhà mạng hơn có
thể sử dụng với Android,
giúp cho Android có thêm
một số lượng lớn người dùng
ở Mỹ và ở cả Châu Á nữa.
Nhưng có lẽ điếm thú vị nhất
của Donut đó là hỗ trợ các
thành phần đồ họa độc lập
với độ phân giải. Lần đầu
tiên, Android có thể chạy trên nhiêu độ phân giải và tỉ lệ màn hình khá nhau, cho phép những thiết bị có
nhiều độ phân giải hơn là 320 X 480. Hiện nay, chúng ta có những chiếc smartphone Android chạy ở độ
phân giải QVGA, HVGA, WVGA, FWVGA, qHD, và 720p, HD và Full HD. Vài chiếc máy tính bảng
còn đạt mức 1920 X 1080 nữa.
Tính năng Quick Search Box, được biết nhiều hơn trong thế giới điện thoại với cái tên Ưniversal
Search, cũng là một điểm mà Android nhận được nhiều lời khen. Có thể tìm kiếm danh bạ, ứng dụng,
nhạc, tin nhắn, , tất cả đều chỉ thao tác trong một hộp tìm kiếm mà thôi. Trước Donut, khi nhấn nút
Search trên máy Android thì chỉ có thể tìm kiếm thông qua google.com mà thôi. Google cũng cho phép
những lập trình viên tích hợp tính năng tìm kiếm mới này vào úng dụng của mình để mở rộng thêm khả
năng của Quick Search Box.
Android 1.6 còn có gì mới? Đó là một Android Market với thiết kế mang tông màu xanh trắng
đặc trưng của Android, có thể hiển thị các ứng dụng free và trả phí hàng đầu. Những ứng dụng bên thứ
ba cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Giao diện camera mới, tíhc hợp với trình xem ảnh tốt hơn, giảm
thời gian chờ giữa hai lần chụp ảnh. Nhưng cũng thường thì các nhà sản xuất cũng thay thế bằng ứng
dụng của riêng mình.
5. Android 2.0 và Android 2.1 Éclair (Linux Kernel 2.6,29 - 26/10/009)
Đầu tháng 9 năm 2009, một năm sau khi GI chào đời, Android 2.0 đã được ra mắt. Thật sự

không ngoa khi mô tả Android 2.1 bằng một chữ "lớn". Một cơ hội lớn cho
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
fià
He 00:39
"OMẽ 10:33 PM ị
Messạgịng^
Ouktr ConUcts BrowMf
Phone Contacts Browser
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
những nhà phát triển, một tiềm năng lớn cho Android về sau, những chiếc điện thoại "lớn" được ra mắt
và phân phối bởi các nhà mạng lớn. Eclair, tên gọi của Android 2.0, lúc mới ra mắt chỉ được dùng độc
nhất cho chiếc Motorola Droid của nhà mạng Verizon, một trong những chiếc điện thoại đã kích hoạt
cho một kỉ nguyên Android lớn mạnh như ngày hôm nay. Motorola Droid còn được biết đến với tên gọi
Motorola Milestone khi nó xuất hiện ở Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất thành công của Motorola và
cả Google khi mang đến cho người dùng những trải nghiệm cực kì tốt với Android.
Vậy những gì làm cho Eclair quan trọng? Nó là bản nâng cấp và làm mới lớn nhất mà Android
từng có kế từ khi hệ điều hành này được giới thiệu, cả về ngoại hình lẫn kiến trúc bên trong. Vào thời
điểm Motorola Milestone ra mắt, độ phân giải cao và lạ 854 X 480 cùng nhiều yếu tố phần cứng khác đã
làm cho sản phẩm này đứng đầu thế giới Android về cấu hình, nhưng quan trọng hơn là Android 2.0 có
những tính năng khiến cho nó dễ bán hơn, chẳng hạn như:
Hỗ trợ nhiều tài khoản ngưòi dùng: lần đầu tiên, nhiều tài khoản Google có thể được đăng
nhập trên cùng một thiết bị chạy Android. Tài khoản Microsoít Exchange cũng được hỗ trợ trong Eclair.
Người dùng có thể duyệt qua danh bạ, email của từng tài khoản. Google giờ đây cho phép những nhà
phát triển bên thứ ba tích hợp dịch vụ của họ vào trong mục Account này, đồng thời hỗ trợ tự động đồng
bộ hóa.
Quick Contact: khi chạm vào một số liên lạc nào đó, có một menu nhỏ sẽ xuất hiện để người
dùng tương tác theo nhiều cách: gửi email, gọi điện, nhắn tin và hơn thế nữa. Miễn là nơi nào có biếu
tượng contact xuất hiện là nơi đó có thế dùng Quick Contact. Sau này có thêm Twitter, Facebook và
nhiều dịch vụ đồng bộ khác cũng tích hợp tính năng riêng của mình vào Quick Contact.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương

Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Cải tiến bàn phím ảo: Giống với chiếc Gl, Droid/Milestone có một bàn phím QWERTY đầy đủ
dạng trượt ngang nhưng Google cho phép người dùng sử dụng thêm bàn phím ảo mà hãng đã thiết kế lại.
Mặc dù tính năng cảm ứng vẫn còn một điều xa vời với Android vào lúc đó (trình duyệt, bản đồ và cả
các phần mềm khác không hề dùng được tính năng hai ngón tay đế phóng to, thu nhỏ, ) nhưng Eclair
lại sử dụng dữ liệu multitouch từ bàn phím để xác định điểm chạm thứ hai trong lúc người dùng gõ
nhanh. Độ chính xác của bàn phím ảo trên Android 2.0 nhờ đó đã được cải tiến đáng kể.
Trình duyệt mới: Mặc dù chưa hỗ trợ cảm úng đa điểm nhưng trình duyệt trên Android 2.0 cũng
có nhiều điểm nâng cấp đáng khen. Google đã hỗ trợ HTML5, bao gồm luôn khả năng phát video ở chế
độ toàn màn hình. Hộp địa chỉ kết hợp với thanh tìm kiếm (giống với trình duyệt Chrome) cũng lần đầu
xuất hiện trên Android. Đe bù lại cho tính năng cảm ứng đa điểm, trình duyệt mới hỗ trợ chạm hai lần để
phóng to nội dung trên màn hình, kèm theo đó là hai nút Zoom in, Zoom out.
Giao diện mới: các biểu tượng giờ đây đã đẹp hơn, sang trọng hơn, gọn gàng hơn nhiều so với
trước. Widget cũng được thiết kế mới đế tương thích với độ phân giải cao trên Droid. Giao diện menu
cũng đẹp hơn nữa.
về phần Android 2.1, mặc dù không "lớn" như Android 2.0 vì nó chủ yếu ra mắt đế sửa lỗi và
thêm hàm API đế lập trình viên can thiệp sâu hơn vào hệ thống nhưng nó đã hỗ trợ thêm vài tính năng lý
thú như Live Wallpaper, chuyển giọng nói thành văn bản và một màn hình khóa mới.
<âRn« 9:19 AM m 9:19 AM 'aiSeỉ 9:19 AM
9:19 AM
Tue. Dec 6. 2011
c Ouĩgmg
Androi
d 9:19
AM
I j;:„ •
c
>’ .!• ’ r-j :
:
-

a
I© | G
AHDROID 1.6
ÂNumio
ANDR0ID2.1
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Android 2.1
cũng có rất nhiều ý
nghĩa về việc thay đổi
chiến lược của Google.
Nhận thấy rằng các
hãng phần cứng
thường thay đổi giao
diện gốc của Android
theo ý họ, Google đã
chọn HTC để làm việc
trực tiếp và tạo ra
Nexus One, chiếc điện
thoại đầu tiên của
hãng. Nexus One mang
trong mình một bản
Android 2.1 thuần
khiết nhất và không hề
bị chỉnh sửa gì cả.
Không chỉ nối bật về
mặt phần mềm, Nexus
One còn có phần cứng
mạnh mẽ thời bấy giờ.
Nó là một trong những smartphone đầu tiên chạy trên CPU Snapdragon 1GHZ của Qualcomm, đồng

thời sở hữu màn hình AMOLED độ phân giải WVGA. Thực ra, Google đã tiến hành việc này kể từ
chiếc Droid với Android 2.0. Google và Motorola đã làm việc chặt chẽ để cùng phát triển một mẫu điện
thoại tốt, nhưng Eclair trong Droid vẫn có vài sự tinh chỉnh. Và tất nhiên là Google chưa bao giờ trực
tiếp bán Droid cả.
6. Android 2.2 Froyo (Linux Kernel 2.6,32 Ngày 20 Tháng 5 Năm 2010)
Android 2.2 được ra mắt trong năm 2010 và mục tiêu của chương trình Nexus đã xuất hiện rõ
hơn bao giờ hết: Nexus One là chiếc điện thoại đầu tiên được nâng cấp lên Android 2.2, sớm hơn nhiều
so với tất cả các hãng khác. Giao diện màn hình chính đã được thay đổi, từ 3 màn hình chính tăng lên
thành 5 màn hình. Dãy nút kích hoạt nhanh chế độ gọi điện, web và App Drawer cũng đã xuất hiện.
Những chấm nhỏ ở góc trái, phải bên dưới của màn hình giúp người dùng biết mình đang xem đến màn
hình nào. Google đã có nhiều cố gắng để giao diện Android được vui và đẹp hơn, dễ dùng hơn, bắt kịp
phân nào với giao diện của bên thứ ba như IITC Sense chăng hạn.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
17
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
FroYo còn có một trình xem
ảnh mới với khả năng hiến thị hình
ảnh 3D: nghiêng máy thì dãy ảnh sẽ
nghiên theo, đồng thời nó mang trong
mình nhiều hiệu ứng chuyến động
đẹp mắt khác. Đây cũng là dấu mốc
về việc Google đã đi thuê ngoài nhằm
phát triển Android mà Gallery trên
FroYo là một ví dụ. Tính năng trạm
phát Wifí cũng xuất hiện, cách copy,
paste mới tốt hơn. Nhiều tính năng
bảo mật mới cũng xuất hiện. Tuy
nhiên, với người dùng thông thường
thì việc Android 2.2 FroYo có hỗ trợ
duyệt web với Flash là điểm đáng

quan tâm nhất. Hầu như người ta
muốn lên FroYo là để tận hưởng được
cảm giác duyệt web với Flash đầy đủ
trên thiết bị di động. Android 2.2 bố
sung thêm tính năng di chuyển một
phần ứng dụng tù’ bộ nhớ máy sang
thẻ nhớ, giúp tiết kiệm dung lượng
cho các điện thoại thời bấy giờ.
ANDR0ID2.3
7. Android 2.3 Gingerbread (Linux Kernel 2.6,33,34 - 6 Tháng 12 Năm 2010)
Khoảng nửa năm sau khi FroYo xuất hiện, Google đã trở lại với bản Android 2.3. Google giới
thiệu nó với nhiều tính năng mới, tập trung vào việc phát triển game, đa phương tiện và phương thức
truyền thông mới. Android 2.3 có tên mã là Gingerbread, hiện bộ SDK Android 2.3 dành cho các nhà
phát triển cũng đã được Google phát hành.
Android 2.3 thật ra không phải là một bản nâng cấp lớn nhưng những ảnh hướng mà nó mang lại
thì không nhỏ chút nào. Lần đầu tiên Android khoác lên mình một giao diện đen, trông ngầu và chuyên
nghiệp hơn. Các thành phần trên màn hình chính có thêm tông màu xanh lá đậm. Bên cạnh đó, việc sử
dụng màu đen còn là ý định của Google để giúp các máy dùng màn hình AMOLED tiêt kiệm pin hơn.
Vài tính năng mới trên Android 2.3:
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Hai thanh chặn khỉ chọn văn bán:
Hồi Android 2.2, việc chọn văn bản khi đang soạn thảo
hoặc khi đang duyệt web rất cực khổ. Nhờ có thanh
chặn này mà người dùng có thể chọn từng kí tự' một,
tiện lợi hơn rất nhiều.
Send Save draít
Discard
Bàn phím đưọ’c cải tiến: Google một lần nữa đầu tư cho bàn phím ảo, lần này có sự thay đổi
lớn về tông màu của bàn phím. Nhìn các phím đẹp hơn, đen hơn và cả kí tự cũng được thay đổi so với

hồi Android Cupcake. Nhờ có khả năng nhận biết đa điểm trên bàn phím mà việc việc soạn thảo đã dễ
chịu hơn, cho phép người dùng nhấn cùng lúc nhiều phím để chuyển sang bàn phím dạng kí tự.
Công cụ quản lí pin và ứng dụng: vì Android cho phép các ứng dụng chạy nền thực thụ chứ
không bị ngắt lại, vấn đề pin bị người dùng phàn nàn rất nhiều, đặc biệt là các phần mềm không được
viết đế thoát khỏi bộ nhớ sau khi đã hoàn tất công việc của mình. Một công cụ mới đã ra mắt với biểu
đồ nhằm theo dõi mức độ tiêu thụ pin cùng việc quản lí ứng dụng đang chạy sẽ giúp đỡ người dùng phần
nào.
Hỗ trợ máy ảnh trước: Lần đầu tiên một phiên bản của hệ điều hành Android hỗ trợ việc sử
dụng máy ảnh phụ phía trước của thiết bị.
Nhiều tính năng mới của Gingerbread chủ yếu nhắm đến lập trình viên hơn là người dùng cuối,
ví dụ như NFC chang hạn. Nhiều tháng trôi qua, NFC không có nhiều ứng dụng thực tế ngoài việc đến
một vài thành phố ở nước ngoài và dùng NFC để lấy thông tin về địa điểm. Khi Nexus s dành cho nhà
mạng Sprint, Mỹ, ra đời, Google giới thiệu Google Wallet, dịch vụ thanh toán di động sử dụng NFC của
mình. Đen bây giờ, nhiều thứ hơn đã hỗ trợ NFC, NFC tag cũng xuất hiện ở nhiều nơi hơn. Thậm chí
người ta còn dự đoán rằng NFC sẽ thay thế được mã QR trong tương lai và Android 2.3 đã góp một
phần quan trọng nhằm thúc đẩy việc sử dụng phổ biến kết nối tầm ngắn này.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Với Gingerbread, Google muốn xâm nhập vào thị trường game di động vốn đang bị chiếm lĩnh
bởi ios bằng việc cung cấp cho lập trình viên quyền truy cập cấp thấp nhất, tức là gần sát nhất, đến các
phần cứng về âm thanh, đồ họa, lưu trữ, Nhờ đó, nhiều game/ứng dụng native ra đời với tốc độ hoạt
động nhanh hơn, hình ảnh, âm thanh phong phú, chân thật và đẹp hơn nhiều.
8. Android 3.X Honeycomb (Ngày 22 Tháng 2 Năm 2011)
Honeycomb là phiên bản Android dành riêng cho máy tính bảng, và sản phẩm đầu tiên dùng hệ
điều hành này Motorola Xoom. Xoom mang trong mình một giao diện thuần Android 3.0 và không bị
chỉnh sửa gì. Mặc dù Android 3.0 không có nhiều dấu ấn đặc biệt trên thị trường nhưng nó là nền tảng
cho Android 4.0 sau này với các tính năng như:
Sử dụng tông màu đen và xanh dưong làm tông màu chủ đạo, hệ thống icon và biếu tượng
mới.
Homescreen và widget cũng được thiết kế lại. Việc đặt widget lên màn hình cũng tiện dụng

hon nhờ có hình ảnh thu nhỏ của các homescreen trong mục widget nên người dùng có thế chọn lựa theo
ý muốn.
Không còn nút nhấn vật lí: trên các máy tính bảng Android 3.X, người ta không còn trang bị
cho chúng ba phím Back, Home và Menu (và Search nữa) riêng biệt, cả nút cứng lẫn nút cảm ứng, mà
thay vào đó nó đã được bố trí ngay trên màn hình của người dùng. Android 3.X có khả năng ẩn hoặc
hiện các nút này một cách linh hoạt tùy vào việc người dùng đang chạy ứng dụng gì.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
0
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Cải thiện đa nhiệm: nút Recent Apps lần đầu tiên xuất hiện trên Android cho phép người dùng
duyệt qua các ứng dụng mà mình mới chạy trong thời gian gần đây, nhờ đó việc chuyển đổi app dễ dàng
hơn và nhanh chóng hơn. Mỗi ứng dụng như vậy cũng có một ảnh chụp màn hình thu nhỏ để tiện cho
việc chọn lựa. Từ Gingerbread trở về trước, việc chạy đa nhiệm phải nhờ đến việc nhấn giữ nút Home
đế tiết lộ bảng các úng dụng gần đây, bất tiện hơn nhiều.
Thanh Action Bar: một thanh chức năng được đặt bên trên mỗi ứng dụng, ở đó lập trình viên
có thể đặt các nút nhấn để điều khiển úng dụng lên. Ngoài ra, Honeycomb còn hỗ trợ cho việc bố cục
ứng dụng theo nhiều cột để hướng đến việc hỗ trợ máy tính bảng tốt hơn.
Sau Android 3.0, Android 3.1 và 3.2 là hai bản nâng cấp nhỏ của Honeycomb và vẫn dùng lại
cái tên này. Mục đích chủ yếu của chúng là để sửa lỗi và thêm vài tính năng mới như resize widget ngay
trên homescreen, hỗ trợ thẻ SD,„.
9. Android 4.0 Ice Cream Sandwich (Ngày 19 Tháng 10 Năm 2011)
õ
1
*—ì Ù t=p
Cuối năm 2011, Google chính thức giới thiệu điện thoại Galaxy Nexus, thiết bị đầu tiên trên thị
trường sử dụng Android 4.0 Ice Cream Sandvvich. Có thể nói Android
4. là sự thay đối lớn nhất trong lịch sử phát triến của Android tính nay. Android 4.0 hỗ trợ một bộ font
mới tên là Roboto được cho là tối ưu hóa để dùng trên các màn hình độ phân giải càng ngày càng cao
hơn, đồng thời để hiển thị được nhiều thông tin hơn trên màn hình. Hệ thống thông báo (Notiíĩcation)
già nua của Android đã được làm mới hoàn toàn, đẹp hơn, tiện dụng hơn, nhất là tính năng trượt ngang

để xóa từng thông báo riêng
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
lẻ. Tương tự như vậy cho tính năng Recent Apps và cả trình duyệt của máy. Bàn phím cũng được làm
mới với khả năng tụ’ động sửa lỗi cao hơn, việc sao chép, cắt dán chữ và nội dung cũng tốt hơn bao giờ
hết. Đây cũng là lần đầu tiên Google hợp nhất hệ điều hành dành cho smartphone và cho máy tính bảng
vào làm một. Đây là một động thái của hãng nhằm giảm thiếu sự phân mảnh vốn đang ngày càng
nghiêm trọng của Android. Khi chạy trên máy tính bảng, Android 4.0 sẽ có một giao diện khác tối un
cho màn hình lớn, nhung về cơ bản thì tính năng của nó vẫn giống hệt như lúc chạy trên smartphone.
Android 4.0 cũng nhắm đến việc duyệt web nhanh hơn, tối ưu hóa hiệu suất hoạt động của thiết bị, kéo
dài thời gian dùng pin
10. Android 4.1 và 4.2 Jelly Bean (Ngày 9 Tháng 7 Năm 2012)
y
- .
18:0C
18:03
Thu
Google
V
1 nu, Junc 40
. / . ỉ
Google
m
fi
3
?
Googẳt
VN MOBIFONE ■
4
<r=>

1 Õ
1
Android 4.1 được giới thiệu tại hội nghị Google I/O với nhiều cải tiến đáng giá và rất được
mong đợi. Đây cũng là lúc chiếc Nexus 7 được chính thức ra mắt với sự hợp tác giữa Google với Asus.
về giao diện, không có nhiều thay đối so với Android 4.0, vẫn là màn hình chính với thanh dock bên
dưới quen thuộc. Giao diện kiểu này rất đơn giản nhưng lại đẹp và gọn gàng, giúp chúng ta dễ dàng theo
dõi những thông tin xuất hiện trên màn hình, đặc biệt là khi điều khiển các ứng dụng. Ở màn hình
Lockscreen, giờ đây vòng trượt mở khóa có đến ba biểu tượng để kích hoạt ba tính năng khác nhau chứ
không chỉ có hai như trên Android 4.0. Trượt sang phải để mở khóa máy, sang trái để chạy ứng dụng
camera, hai thứ này đã có từ trước. Nhưng nếu người dùng kéo vòng trượt lên bên trên thì sẽ thấy một
chữ "Google". Đây chính là cách thức đế kích hoạt Google Now.
Sự xuất hiện của Google Now cho thấy rằng Google đã bắt đầu bước chân vào việc cạnh tranh
với Siri. Với việc nâng cao khả năng tìm kiếm, thay đổi giao diện, tự
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
động theo dõi thói quen sử dụng để đưa ra những thông tin chính xác và thích hợp với người dùng hơn.
Trên Android 4.1 có thế tìm kiếm bằng giọng nói và các kết quả trả không chỉ đơn giản là những dòng
tìm kiếm nữa mà nó được thiết kế theo dạng thẻ đồ họa, thông minh hơn, trực quan hơn. Không chỉ tìm
kiếm theo yêu cầu, Google Now còn tự’ chủ động thu thập thông tin liên tục dựa vào lịch sử tìm kiếm
của người dùng, dựa vào danh sách lịch hẹn để biết người dùng sẽ đi đâu, cần thông tin gì.
Nhưng có lẽ quan trọng hơn hết của Jelly Bean không phải là về giao diện hay ứng dụng mới mà
về Project Butter giúp mang lại độ mượt chưa từng có cho Android. Theo như giải thích của Google, độ
mượt này có được là nhờ vào dự án Butter. Project Butter đã được Google đề cập tới tại I/O 2012 với
mục đích giải quyết tình trạng lag và độ phản úng không tốt của Android. Với Project Butter, các kỹ sư
Android đã tăng íramerate cho phiên bản mới nhất này lên 60 khung hình/giây (trước đó trên Android
3.0 hay Android
4.0 íramerate là 30 khung hình/giây) cũng như bổ sung VSync, tăng bộ đệm lên gấp ba để nâng cao trải
nghiệm người dùng. Project Butter sẽ có tác động trực tiếp tới toàn bộ hệ thống của Jelly Bean nhằm
mang tới trải nghiệm người dùng nhanh và mượt mà nhất có thể. VSync sẽ cải thiện hiệu năng đồ hoạ
tổng thể trong khi bộ nhớ đệm tăng gấp ba lần sẽ cho phép GPU và CPU cũng như màn hình hoạt động

song song với nhau. Hồi Google I/O, Google đã mang một máy quay chậm có tốc độ lên tới 300 khung
hình/giây để so sánh độ mượt.
III.

CẢU TRÚC CỦA ANDROĨD.
1. Bộ Nạp Khởi Động - BootLoader
Ở mức độ cơ bản nhất, smartphone giống như một 0 đĩa cứng đã được phân vùng hoàn chỉnh.
Một trong số các vùng đó lãnh nhận trách nhiêm nặng nề: chứa tất cả các tập tin khởi động của hệ điều
hành Android; số còn lại nhận trách nhiệm lưu trữ tất cả các phần mềm, dữ liệu. Tại đó người dùng có
thế làm được rất nhiều thứ với các công cụ có sẵn.
Có thể nói rằng, bộ nạp khởi động cũng giống như một trạm kiểm soát an ninh cho hệ thống.
Neu thay đối bất cứ thứ gì trên phân vùng này, người dùng có thế phá vỡ hoạt động ổn định của hệ điều
hành. Hoặc nếu rành về lập trình, người dùng có thể tùy chỉnh hệ thống phù hợp với mình
Có rất nhiều sự phàn nàn về việc bootloader bị mã hóa. Và trên thực tế, đa số các điện thoại đều
khóa phân vùng này lại, kể cả các nhà phát triển được cho là gần gũi nhất như Nexus. Nói một cách
chính xác nhất, tất cả các phân vùng khởi động đều được khóa và mã hóa chặt chẽ, nghĩa là khó có thể
mở nó một cách dễ dàng và các lệnh mở khóa tương tự như “fastboot oem unlock” sẽ chẳng ăn thua gì!
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Chính việc khóa bootloader đã nảy sinh nhiều vấn đề trong việc thay thế linh kiện giữa các dòng
sản phẩm. Điều đó đã mở ra cuộc chạy đua giữa các nhà sản xuất phần cứng trong vấn đề này. HTC,
Samsung và Motorola đều khóa bootloader của họ. Tuy nhiên trong những năm gần đây, đặc biệt trong
vài tháng gần đây, hầu hết các nhà sản xuất đều cung cấp một số công cụ hoặc mật mã để người sử dụng
có thể truy cập vào bootloader của mình. HTC và Sony Ericsson đã cung cấp ứng dụng để bẻ khóa
bootloader của họ, ASƯS chỉ cung cấp ứng dụng này trên một số phiên bản hạn chế của hãng. Sony
Ericsson, Motorola hứa sẽ trình làng ứng dụng đó trong thời gian sớm nhất, LG và Samsung hứa sẽ cung
cấp các sản phẩm mà bootloader không bị khóa.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao bootloader lại bị khóa lại? Có rất nhiều câu trả lời và câu trả lời
đáng chú ý nhất và cũng là giá trị nhất đó chính là đế hạn chế dữ liệu trên hệ thống của người dùng bị
hack. Trong hệ thống đó chắc chắn sẽ chứa những dữ liệu nhạy cảm mà hacker có thế lợi dụng đế làm

thiệt hại đáng kế cho người dùng.
Chính vì lý do đó mà các nhà sản xuất đã tốn một khoản không nhỏ đầu tư nghiên cứu về vấn đề
này. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều ý kiến trái chiều về việc có hay không có sự cần thiết của việc “lock
bootloader”.
2. Ngôn ngữ cua Android.
Android chắc chắn cũng sẽ có ngôn ngữ riêng của Android. Một trong đó chính là Dalvik.
Thực chất, Dalvik không hẳn là một phương tiện lập trình để viết thành ngôn ngữ của Android.
Có thể giải thích một cách cơ bản Dalvik chính là một máy ảo chạy các ứng dụng được viết bằng Java.
Chương trình Java cơ bản sẽ mã hóa những ngôn ngũ’ lập trình bằng một số thuật ngữ riêng biệt để tạo
ra những tập tin lập trình riêng biệt - bytecode - sau đó các tập tin này được biên soạn thành một tập tin
dex. Chính Dalvik sẽ đọc và xử lý tập tin này.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
về bản chất, các tập tin của hệ thống ngôn
ngũ’ lập trình (Java chang hạn) được biến đổi thành
các tập tin dex mà các Dalvik có thể sử dụng (tương
tự một số tập tin jar nếu một người sử dụng tiêu
chuẩn Java VM). Các dữ liệu lập trình chỉ được dịch
một lần ra các tập tin dex, giúp tiết kiệm không gian
và sử dụng đĩa cứng tiết kiệm hơn. Các tập tin đó có
thể được sửa đổi đôi chút khi người dùng cài đặt một
ứng dụng để tối ưu hóa cho điện thoại di động của
người dùng. VM Dalvik được viết dành riêng cho
Android sử dụng.
Dalvik là một phiên bản tối ưu hóa
của một Java Virtual Machine, được xây
dựng từ dự án Apache Harmony, Dalvik là
một phiên bản mã nguồn mở để chạy tốt
hơn so với một tiêu chuấn Java VM trên
phần cứng hạn chế của một hệ thống nào

đó. Dalvik cũng được thiết kế đế sử dụng
như một máy chủ đa nhiệm tại một thời
điểm nhất định nào đó. Điều thú vị là
Dalvik là một phần mềm mã nguồn mở, có
thể được sử dụng trên các hệ điều hành
khác, nó được sử dụng trên các dòng
BlackBerry PlayBook.
3. Hacking - Root.
Đối với hacking trong Android Central là vấn đề truy cập vào phần mềm (hoặc
phần cứng) và thay đổi mọi thứ cho đến khi chúng phù hợp với sở thích của cá nhân. Đó
chính là ý nghĩa đầu tiên của cụm từ Hacking khi nó mới ra đời.
Android hacking bao gồm nhiều thành phần, từ việc nhỏ nhặt nhất, thú vị nhất
như: thay đổi biểu tượng, trạng thái và màu sắc của các biểu tượng, cho tới những
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
thành phần đồ sộ như: xây dựng tùy chỉnh AOSP ROMs, Hầu hết thời gian cài đặt và sử dụng các công
cụ hack này sẽ yêu cầu người dùng xác nhận thông tin, nếu như người dùng xâm nhập quá sâu vào hệ
thống, việc yêu cầu xác nhận lại thông tin từ nhà sản xuất là khó tránh khỏi. Điều đó là cần thiết để bảo
vệ người dùng khỏi sự tấn công của hacker mũ đen.
4. Kernel
Nói chính xác thì Kernel chính là nhân của hệ điều hành Android, nó chỉ dành riêng cho
Android. Nhũng hệ điều hành khác cũng có nhân của riêng nó, ios, MacOS hay Windows. BlackBerry
cũng có một kernel của riêng nó.
Android là hệ điều hành sử dụng nhân Linux, nhưng không phải chính là nhân để chạy hệ điều
hành Linux của các thiết bị chạy Linux. Có rất nhiều mã lập trình của Android sử dụng rất riêng so với
hệ thống Linux, ví dụ như kernel của Google’s Android sử dụng có chế độ làm việc riêng của nó. Hệ
thống lập trình OEMs là ngôn ngữ chủ đạo để viết nên hệ thống cho Kemel, bởi vì nó là phương tiện
dùng để lập trình các hệ thống driver cho các phần cứng khác cho các phiên bản khác nhau của Android
Kernel. Điều quan trọng của Kemel là kiểm soát và điều khiển phần cứng, hiểu một cách đơn giản,
Kemel chính là một mối nối và là “thông dịch viên” giữa phần cứng và phần mềm.

Khi phần mềm cần phần cứng làm một việc gì đó, nó sẽ gửi yêu cần tới bộ vi xử lý và nó sẽ nói
“các người dùng nói bất cứ cái gì, chúng tôi sẽ đáp ứng cái đó”. Từ trình điều khiển độ sáng màn hình,
mức âm lượng, hiệu suất tốc độ của thiết bị, điều khiển xung nhịp CPU. Ngay cả việc di chuyến con trỏ
chuột hay ngón tay lướt trên màn hình cảm ứng tất cả đều được kiểm soát bởi kernel.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
Đe Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.

Thử ví dụ một việc điển hình: nhấp vào nút “Search” trên smartphone để gọi ứng dụng tìm kiếm
ra. Làm cách nào mà smartphone hiểu được rằng người dùng đã nhấp vào nút “Search” đó? Khi tay
chạm vào màn hình cảm ứng của smartphone chính là đã chạm vào một tọa độ đã được định vị sẵn của
smartphone. Một phần mềm hệ thống sẽ kiểm soát toàn bộ những tọa độ có trên màn hình đã được mã
hóa thành những tọa độ, phần mềm đó biết rằng hộp “Search” cư ngụ tại địa chỉ nào. Và khi tọa độ định
vị của nút Tìm kiếm đó được “chạm phải”, khi đó phần mềm hệ thống sẽ nhận thông tin được mã hóa
ghi nhận lại và chuyển cho Kernel xử lý tín hiệu vừa nhận được. Tại Kernel, lệnh vừa nhận được sẽ
được xử lý và chuyến ngay đế nhũng nơi có nhiệm vụ thực thi lệnh đó và sẽ được “chấp hành” tại đó.
Đôi khi hệ thống và Kernel không chỉ nhận được những thông tin từ những những dòng lệnh
được đưa vào từ màn hình cảm úng, nó cũng có thế nhận tín hiệu tù' một thiết bị khác bằng cách này hay
cách khác, Bluetooth chẳng hạn.
Nghe có vẻ phức tạp, nhưng logic của máy tính luôn luôn đi theo một hướng đã được định sẵn:
một hành động sẽ tạo ra một hiệu quả, không lộn xộn. Neu không có Kemel thì người dùng chả làm ăn
gì được kể cả với smartphone. Không có “người” nhận lệnh, xử lý lệnh, thực thi và kiểm soát những nơi
thực thi lệnh đó. Tất cả phần mềm và phần cứng của chiếc smartphone trị giá bạc triệu cũng chả có ý
nghĩa gì. Tuy nhiên, để Kemel hiểu được và nhận diện được các phần cứng khác nhau, các nhà sản xuất
phải cho Kemel “học” bằng một phần mềm mà chúng ta vẫn hay gọi là “driver”. Với Android Kemel, tất
cả những kết nối đều thông qua một hệ thống ngôn ngữ lập trình API và OEM, các nhà phát triển cũng
dựa vào hệ thống này mà viết nên những hệ thống driver của họ.
Có một số nhà phát triến hệ thống cho Kernel như: Abyss kernel, FM kernel, Speedmod kemel,
Franco kemel, Cfoot kernel.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương

×