Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Nghiên cứu ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên khoa tâm lý học đại học khoa học xã hội và nhân văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.22 KB, 117 trang )

- 1 -

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=================




NGUYỄN VĂN LƯỢT




NGHIÊN CỨU Ý CHÍ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN KHOA TÂM LÝ HỌC
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60.31.80



















HÀ NỘI- 2007
- 2 -

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, thực hiện quá trình công
nghiệp hoá- hiện đại hoá, mở cửa hội nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Để quá trình này diễn ra thành công đòi hỏi có sự đóng góp của
tất cả các tầng lớp nhân dân, trong đó thế hệ trẻ Việt Nam đóng vai trò tiên
phong. Sinh viên là lớp người trẻ và là lực lượng đi đầu trong quá trình công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên,
sinh viên đã được khẳng định trong các văn bản của Đảng và Nhà nước. Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “đối với thế hệ trẻ,
chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp; giải quyết việc
làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [6; tr.126].

Thời gian qua, chất lượng đào tạo sinh viên ở Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn nói chung, Khoa Tâm lý học nói riêng đã có những
tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, so với yêu cầu, đòi hỏi của thị trường lao động
thì sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Tâm lý học còn thiếu nhiều kỹ năng
nghề nghiệp cần thiết, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Sự bất
cập đó do nhiều nguyên nhân, trong đó sinh viên còn thiếu ý chí khắc phục
những khó khăn khách quan, chủ quan vươn lên chiếm lĩnh những tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo cần thiết đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống thực tiễn là
một trong những nguyên nhân quan trọng nhất.
Để sinh viên có thể đóng góp được nhiều nhất sức lực và trí tuệ vào
quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá của đất nước thì trước hết sinh viên
phải tự trang bị cho mình những tri thức, kỹ năng, thái độ phù hợp thông qua
hoạt động học tập. Tuy nhiên, hoạt động học tập ở bậc đại học là hoạt động
- 3 -

đòi hỏi sự tự chủ và nỗ lực ý chí rất lớn mà không phải sinh viên nào cũng
có được. Nhìn chung, ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên Khoa Tâm
lý học hiên nay còn chưa cao.
Việc nghiên cứu chỉ ra thực trạng ý chí trong hoạt động học tập của
sinh viên Khoa Tâm lý học; các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát
triển ý chí của sinh viên; trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị nhằm phát triển
ý chí của sinh viên trong hoạt động học tập là việc làm có ý nghĩa thiết thực.
Về mặt lý luận, những nghiên cứu về ý chí đã được một số tác giả
nghiên cứu, tuy nhiên, những nghiên cứu về ý chí của sinh viên, đặc biệt là ý
chí của sinh viên trong hoạt động học tập còn chưa được quan tâm nghiên
cứu một cách có hệ thống.
Xuất phát từ những lý do trên đây, chúng tôi cho rằng việc thực hiện
đề tài: “Nghiên cứu ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên Khoa Tâm
lý học, Trường ĐHKHXH&NV” là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc.

2. Đối tượng nghiên cứu
Ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên Khoa Tâm lý học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra thực trạng ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên Khoa
Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; phân tích một
số yếu tố ảnh hưởng đến sự nỗ lực ý chí trong hoạt động học tập của sinh
viên; trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao ý chí của sinh
viên, giúp họ đạt được thành tích cao hơn trong học tập.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, đề tài phải giải quyết những nhiệm vụ
sau:
- 4 -

- Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
- Điều tra thực trạng ý chí trong hoạt động học tập đã hình thành ở
sinh viên.
- Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển ý
chí trong hoạt động học tập của SV Khoa Tâm lý học.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao ý chí trong hoạt động học
tập của sinh viên Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Nhìn chung, ý chí trong hoạt động học tập đã được hình thành ở sinh
viên Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn còn ở
mức độ thấp, trong đó, có sự khác biệt đáng kể giữa sinh viên chuyên ngành
TLHLS và sinh viên chuyên ngành TLHXH, cũng như giữa sinh viên năm
thứ nhất và sinh viên năm thứ tư.
6. Khách thể và phạm vi nghiên cứu
6.1. Khách thể nghiên cứu

- 245 sinh viên hệ chính qui đang học tập tại Khoa Tâm lý học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
6.2. Phạm vi nghiên cứu
- Do thời gian và điều kiện có hạn nên chúng tôi chỉ tập trung nghiên
cứu ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên Khoa Tâm lý học được biểu
hiện ở 05 hành động học tập cụ thể: hành động nghe giảng trên lớp; hành
động tham gia các buổi xêmina; hành động đọc tài liệu chuyên ngành; hành
động NCKH; hành động thực hành/thực tập thực tế của sinh viên.
- Chỉ nghiên cứu sinh viên hệ chính quy của Khoa Tâm lý học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

- 5 -

7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích tài liệu.
- Phương pháp phỏng vấn sâu.
- Phương pháp thảo luận nhóm.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
- Phương pháp thống kê toán học.





















- 6 -

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề ý chí, phẩm chất ý chí đã được các tác giả trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu.
1.1.1. Các nghiên cứu ở ngoài nước
Tác giả John Kennedy, trong cuốn “Làm thế nào để phát triển được
sức mạnh của ý chí”, đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản về sức mạnh của ý
chí, nghiên cứu mối quan hệ mật thiết giữa ý chí- lý tưởng và lòng tự trọng.
Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy
sức mạnh của ý chí, cách thức rèn luyện để có một ý chí kiên cường [18].
Vấn đề ý chí cũng được quan tâm nghiên cứu ở Liên Xô (cũ):
- Tác giả Stogdill khi nghiên cứu về những phẩm chất của người lãnh
đạo đã tổng kết 7 phẩm chất của người lãnh đạo cần phải có bao gồm: sự
thông minh; hiểu biết nhu cầu của người khác; hiểu biết nhiệm vụ; tự tin;
mong muốn có trách nhiệm; mong muốn nắm giữ vị trí thống trị và kiểm
soát; kiên trì trong việc giải quyết các vấn đề. Trong 7 phẩm chất trên thì
phẩm chất “kiên trì trong việc giải quyết các vấn đề” là phẩm chất biểu hiện
ý chí của người lãnh đạo [19; tr.66].

- Ph.N.Gônôbôlin nghiên cứu về những phẩm chất tâm lý của người
giáo viên đã nêu lên các phẩm chất tâm lý phù hợp với công việc giảng dạy
và giáo dục học sinh của người giáo viên bao gồm: đạo đức, chí hướng,
hứng thú, năng lực, quá trình nhận thức, hoạt động trí tuệ, tình cảm và phẩm
chất ý chí [10].
- Trong hoạt động thiết kế kỹ thuật có một số tác giả của trường Đại
học tổng hợp Lêningrat (Liên Xô) đã đưa ra 109 yêu cầu về phẩm chất tâm
lý của người kỹ sư thiết kế. Tính độc lập của người kỹ sư trong hoạt động
- 7 -

thiết kế được qui về phẩm chất đặc trưng cho phong cách chung của hành vi
[dẫn theo 30; tr.14].
- Tác giả A.V.Đulôv trong tác phẩm “Tâm lý học tư pháp” trên cơ sở
phân tích những đặc điểm đặc trưng trong hoạt động điều tra của điều tra
viên đã nêu ra các tiêu chuẩn về phẩm chất tâm lý của điều tra viên, đó là: tư
tưởng vững vàng; đạo đức tốt; khả năng tư duy tốt; tính kiên định, tính
cương quyết; tình kiềm chế…Những phẩm chất như tính kiên định, tính
cương quyết, tính kiềm chế là những biểu hiện ý chí của điều tra viên [dẫn
theo 30; tr.15].
- A.G.Côvaliôv trong cuốn “những cơ sở tâm lý học của việc cải tạo
phạm nhân” đã nêu lên những đòi hỏi đối với cán bộ quản giáo. Bên cạnh
việc nhấn mạnh các phẩm chất chính trị tư tưởng, chủ nghĩa nhân văn đối
với con người, thái độ nhân văn đối với phạm nhân; sự tế nhị, khéo léo trong
đối xử; năng lực sư phạm thì một trong những phẩm chất quan trọng góp
phần vào thành công của người cán bộ quản giáo trong hoạt động quản lý cải
tạo phạm nhân là phải có ý chí cứng rắn [dẫn theo 30; tr.16].
Tóm lại, qua nghiên cứu của các nhà Tâm lý học Liên Xô (cũ) chúng
tôi nhận thấy, vấn đề ý chí đã được nghiên cứu với các mức độ sáng tỏ khác
nhau. Các nghiên cứu đều khẳng định, ý chí là một trong những phẩm chất
quan trọng góp phần vào sự thành công của chủ thể hoạt động trong từng

lĩnh vực nhất định. Nghề càng khó khăn, gian khổ (điều tra viên, cán bộ
quản giáo) đòi hỏi sự cần có của ý chí càng cao.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, vấn đề ý chí được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Có
thể nhận thấy, các nghiên cứu tập trung nhiều theo hướng ý chí như là một
phẩm chất cần thiết cho sự thành công của một nghề nghiệp cụ thể.
- 8 -

Tác giả Nguyễn Thị Phương Anh (1966) trong nghiên cứu: “một số
đặc điểm tâm lý - xã hội của nhà doanh nghiệp” trên cơ sở phân tích các đặc
điểm của hoạt động kinh doanh ở Việt Nam đã chỉ ra 14 đặc điểm tâm lý của
nhà doanh nghiệp. Trong số 14 phẩm chất tâm lý cần có của nhà doanh
nghiệp có những phẩm chất ý chí của nhà doanh nghiệp như: tính bền bỉ,
tính quyết đoán…[2].
Trong bài “Bàn về phẩm chất nhân cách của người sỹ quan chỉ huy
theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (1998), tác giả Lê Anh Chiến cho rằng nhân
cách người sỹ quan chỉ huy được hợp thành bởi các phẩm chất: chính trị-
đạo đức; trí tuệ; lòng dũng cảm; ý chí vững mạnh; phẩm chất thể lực; năng
lực nghề nghiệp [3].
Tác giả Lê Đức Phúc (1998) cho rằng cấu trúc nhân cách của quân
nhân bao gồm các mặt: nhận thức, xúc cảm, thái độ, động cơ, ý chí. Những
mặt này được thể hiện trong các hoạt động quân sự như: làm chủ khoa học
quân sự, hiểu rõ những yêu cầu đối với nhân cách của bản thân; tin tưởng và
kiên quyết bảo vệ các lý tưởng cao đẹp của quân đội nhân dân; luôn sẵn sàng
chiến đấu hy sinh bảo vệ Tổ quốc…[29].
Trong cuốn “Tâm lý học thể dục thể thao” (1999), vấn đề ý chí của
vận động viên cũng được tác giả Nguyễn Mậu Loan nghiên cứu, đặc biệt là
nghiên cứu về sự nỗ lực ý chí trong hoạt động thể thao. Tác giả chỉ ra những
đặc điểm đặc trưng của hoạt động thể thao; chức năng của hành động ý chí
trong hoạt động thể thao là động viên và tổ chức. Ông cho rằng, nỗ lực ý chí

phụ thuộc vào tính chất và mức độ các khó khăn gặp phải trong hoạt động
thể thao. Tác giả khẳng định: “muốn giáo dục ý chí cho vận động viên, một
mặt trong quá trình huấn luyện phải tạo ra các tình huống khó khăn với yêu
cầu và mức độ khác nhau buộc họ phải vượt qua, mặt khác chỉ có tham gia
- 9 -

vào các hoạt động thực tiễn thi đấu thể thao thì ý chí của vận động viên mới
được tôi luyện và thử thách” [22; 37- 39].
Tác giả Nguyễn Mai Lan (2000) trong Luận án tiến sĩ Tâm lý học
mang tên: “Những phẩm chất tâm lý đặc trưng của mã dịch viên” đã nghiên
cứu chỉ ra 22 phẩm chất tâm lý đặc trưng ở người làm nghề mã dịch ở nước
ta. Trong số 22 phẩm chất tâm lý đó có những phẩm chất thể hiện ý chí của
con người như: tính độc lập trong công việc; khả năng kiềm chế không tiết
lộ bí mật thông tin nghề nghiệp…
Trong cuốn “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm” (2001) các
tác giả đã nghiên cứu chỉ ra 5 phẩm chất của người thầy giáo bao gồm: thế
giới quan khoa học; lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ; lòng yêu trẻ; lòng yêu nghề;
một số phẩm chất đạo đức - ý chí của người thầy giáo. Theo các tác giả đối
với người thầy giáo thì những phẩm chất đạo đức - ý chí không thể thiếu bao
gồm: tinh thần nghĩa vụ; thái độ công bằng, thái độ chính trực, tính tình ngay
thẳng, giản dị và khiêm tốn, tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn.
tính tự kiềm chế, biết tự chiến thắng với những thói hư tật xấu…Những
phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của
người thầy giáo được hiện thực hoá và tác động sâu sắc đến học sinh [16;
208- 209].
Tác giả Nguyễn Hồi Loan - Đặng Thanh Nga (2004) trong giáo trình
“Tâm lý học pháp lý” khi đề cập đến các phẩm chất của thẩm phán đã cho
rằng: “để người thẩm phán ra được những bản án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật thì ngoài những phẩm chất đạo đức, chuyên môn, người thẩm
phán phải có phẩm chất ý chí. Phẩm chất ý chí của người thẩm phán được

thể hiện thông qua tính độc lập, tính kiên định, tính tự chủ” [23; tr.161].
Tác giả Nguyễn Văn Tập (2004) trong Luận án Tiến sĩ tâm lý học
“Những phẩm chất tâm lý của cán bộ quản giáo trong hoạt động quản lý cải
- 10 -

tạo phạm nhân” đã nghiên cứu chỉ ra 28 phẩm chất tâm lý cần có ở người
cán bộ quản giáo. Tác giả chia 28 phẩm chất tâm lý thành 5 nhóm: nhóm
phẩm chất chính trị- tư tưởng; nhóm phẩm chất ý chí; nhóm phẩm chất tính
cách; nhóm phẩm chất phong cách và nhóm phẩm chất năng lực. Nhóm
phẩm chất thuộc về ý chí có 6 phẩm chất cụ thể sau: 1. tính cương quyết; 2.
tính kiên trì; 3. tính dũng cảm; 4. tính nghị lực; 5. tính tự chủ; 6. tính quyết
đoán [30; tr.87].
Tác giả Đỗ Văn Thọ (2004) trong Luận án Tiến sĩ Tâm lý học
“Những phẩm chất tâm lý cơ bản của cảnh sát hình sự” đã chỉ ra 22 phẩm
chất tâm lý cơ bản của cảnh sát hình sự và xếp vào 3 nhóm: nhóm phẩm chất
chính trị- đạo đức; nhóm phẩm chất trí tuệ- năng lực; nhóm phẩm chất ý chí-
tính cách. Trong đó, nhóm phẩm chất ý chí- tính cách gồm có 9 phẩm chất
cụ thể như sau: 1. lòng dũng cảm; 2. tính kỷ luật; 3. tính quyết đoán; 4. tính
kiên quyết; 5. tính trung thực; 6. tính tự chủ; 7. tính thận trọng; 8. tính kiên
trì; 9. tính độc lập [32; tr.83- 84].
Nhận xét chung:
Qua việc điểm qua các công trình nghiên cứu ở trên cho thấy:
1. Vấn đề ý chí, phẩm chất ý chí đã được các tác giả trong và ngoài
nước quan tâm nghiên cứu ở nhiều khách thể khác nhau: nhà doanh nghiệp,
người sĩ quan chỉ huy, quân nhân, vận động viên thể thao, giáo viên, thẩm
phán, cán bộ quản giáo, cảnh sát hình sự….những kết quả nghiên cứu từ
những công trình này đã cung cấp những thông tin bổ ích giúp chúng tôi
triển khai đề tài của mình.
2. Các nghiên cứu đều khẳng định, ý chí là một trong những bộ phận
hợp thành quan trọng trong cấu trúc nhân cách của các nhóm khách thể, là

yếu tố đảm bảo sự thành công trong hoạt động nghề nghiệp cụ thể. Ý chí
được điểm đến với tư cách là một trong những phẩm chất tâm lý cần thiết
- 11 -

cho một hoạt động nghề nghiệp nào đó, chưa được coi là đối tượng nghiên
cứu chính. Trong công trình nghiên cứu của chúng tôi lấy ý chí trong hoạt
động học tập của sinh viên Khoa Tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn làm đối tượng nghiên cứu chính.
3. Tóm lại, trong những công trình nghiên cứu đã điểm qua chưa có
công trình nào nghiên cứu về ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên.
1. 2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm ý chí
Trước khi xem xét quan điểm của các nhà Tâm lý học về ý chí, chúng
ta cùng nhau tìm hiểu xem các nhà triết học quan niệm như thế nào về ý chí.
1.2.1.1. Khái niệm ý chí trong triết học
1.2.1.1.1. Quan niệm của trường phái ý chí luận trong Triết học (chủ
nghĩa duy tâm)
Ý chí luận phủ nhận quy luật khách quan và tính tất yếu trong tự nhiên
cũng như trong xã hội. Trường phái này cho rằng ý chí con người quyết định
tất cả. Khuynh hướng ý chí luận có từ thời trung cổ, các đại diện tiêu biểu
của trường phái này là Saint Augustin, Duns Scotus và Schopenhauer.
+ Saint Augustin (354- 430) khẳng định, thượng đế có sức mạnh vạn
năng, có quyền lực tuyệt đối. Vậy ý chí con người có tự do trước ý chí và
hành động của thượng đế không? Trên thực tế nếu con người có tự do ý chí
và hành động theo lý trí và tình cảm của mình thì có nghĩa là thượng đế
không thống trị được con người. Saint Augustin không chấp nhận quan điểm
đó, ông cho rằng “ý chí con người là tự do, nhưng chỉ trong giới hạn tiền
định của thượng đế” [37; 220]. Mỗi người đều có thể hành động tuỳ thuộc
vào mình, nhưng cái gì con người làm thì Chúa cũng làm.
+ Duns Scotus (1270- 1308) cho rằng: “ý chí mạnh hơn lý tính, con

người phải phục tùng ý chí của thần thánh”[36; 360]. “Sự tự do của ý chí
- 12 -

không phải là một hậu quả hợp lý của lý trí, trái lại nó là một tác động duy
nhất, độc đáo trong số các tác động nằm trong bản tính tự nhiên của con
người” [04; 315]. Ý chí theo quan niệm của Duns Scotus mang tính hai cực:
“ý chí có thể có hai thái độ phản ứng tích cực đối với một sự vật cụ thể hay
hoàn cảnh cụ thể, nghĩa là nó có thể yêu hay tìm kiếm điều gì tốt, hoặc nó có
thể ghét hay xa lánh điều gì xấu” [04; 315].
+ Schopenhauer (1788- 1860) là một đại diện tiêu biểu của trường
phái ý chí luận. Ông cho rằng: “thế giới là ý chí và tưởng tượng”.
Schopenhauer cho rằng: “con người dường như được kéo về phía
trước, nhưng thực ra thì nó được đẩy từ phía sau, từ một nơi bí hiểm sâu
thẳm. Sức mạnh ấy chính là ý chí sống vô thức, nó không hề biến đổi, tồn tại
trong mọi mạch tư duy và hành vi con người. Cả trí nhớ cũng chỉ là cô hầu
gái của ý chí. Những gì con người gọi là tính cách hay nhân cách đều do ý
chí quyết định. Mọi chức năng hữu thức đều thấm mệt và cần đến giấc ngủ,
duy chỉ có ý chí là vĩnh viễn tỉnh táo, giống như sự hô hấp, như hoạt động
của trái tim, không ngừng và không bao giờ mệt mỏi, vì tất cả đều diễn ra
một cách vô thức” [04; 100- 101].
Theo ông, “mọi sự vật đều là một sự biểu đạt, một sự hiện thực hoá
của ý chí ngự trị trong nó. Sức mạnh của ý chí ngự trị khắp nơi. Sức mạnh
ấy khiến cho cỏ cây đâm chồi nẩy lộc và úa tàn, khiến cho nam châm quay
về hướng bắc cực, khiến viên đá rơi xuống trái đất, khiến trái đất hướng về
mặt trời…nghĩa là cả thế giới đều là sự khách thể hoá của ý chí, thế giới là ý
chí” [04; 101].
Schopenhauer cho rằng: “sự biểu đạt mạnh mẽ nhất của ý chí sống là
động lực duy trì nòi giống. Động lực này mạnh tới mức khiến cho con người
phớt lờ cả cái chết của cá nhân” [04; 101].
- 13 -


Tóm lại, ý chí luận là quan điểm duy tâm trong Triết học về ý chí của
con người. Ý chí luận đã phủ nhận tính khách quan trong việc hình thành và
phát triển các đặc điểm tâm lý của con người nói chung, ý chí nói riêng. Đó
là thứ quan điểm triết học duy ý chí và vô lý trong cách nhìn nhận mối quan
hệ giữa con người với thế giới khách quan. Phủ nhận quy luật khách quan và
điều kiện thực tế trong việc hình thành ý chí của con người.
1.2.1.1.2. Quan niệm của các nhà triết học Macxít về ý chí
“Chủ nghĩa duy vật triết học Macxít phản đối ý chí luận. Cái quyết
định tiến trình của lịch sử không phải là “ý chí”, là một nhân vật kiệt xuất
mà là những quy luật xã hội khách quan. Chỉ có dựa vào sự hiểu biết những
quy luật phát triển khách quan và hành động không trái lại mà phù hợp với
những quy luật ấy thì ý chí con người mới có tự do chân chính, con người
mới có tự do hoạt động” [21; 360].
“Triết học Mác xít khẳng định rằng: cũng như các năng lực tinh thần
khác, con người ta sinh ra không phải đã có sẵn ý chí kiên cường hay bạc
nhược. Ý chí con người chịu sự qui định của những nguyên nhân được xác
định và ý chí được phát triển trong đời sống xã hội và trong hoạt động của cá
nhân” [27; 229].
Trong cuốn Lênin toàn tập, tập 18, khi bàn về tự do và tính tất yếu,
Lênin cho rằng: “tự do ý chí không phải là cái gì khác hơn là năng lực quyết
định trên cơ sở hiểu biết rõ sự việc” [21; 226].
“Ănghen chỉ nói đơn giản rằng tính tất yếu của giới tự nhiên là cái có
trước, còn ý chí và ý thức của con người là cái có sau” [21; 227].
“Khi chúng ta đã biết được quy luật đó, quy luật tác động không lệ
thuộc vào ý chí và ý thức của chúng ta, thì chúng ta trở thành người chủ của
giới tự nhiên” [21; 229].
- 14 -

Tóm lại, các nhà Triết học duy vật Macxít quan niệm rằng: ý chí thực

chất là “năng lực quyết định” trên cơ sở hiểu rõ sự việc; ý chí là cái có sau
còn “tính tất yếu của giới tự nhiên” là cái có trước.
Những quan niệm đúng đắn của các nhà Triết học Macxít về ý chí là
nền tảng lý luận quan trọng cho các nghiên cứu về ý chí được tiến hành
trong Tâm lý học.
1.2.1.2. Khái niệm ý chí trong tâm lý học
1.2.1.2.1.Định nghĩa
Theo Từ điển Tâm lý học, “ý chí là tính tích cực của con người nhằm
đạt được mục đích đã đặt ra. Ý chí đòi hỏi ở con người tinh thần khắc phục
khó khăn và sự nỗ lực có ý thức” [08; 422]. Ý chí ở mỗi người được hình
thành và phát triển trên cơ sở hành động có chủ định. Ý chí phát triển trong
hoạt động và đặc biệt bị chi phối bởi ảnh hưởng của giáo dục và tự giáo dục
của mỗi cá nhân.
Trong cuốn “Tâm lý học” (1974) do nhóm tác giả của Cục tuyên
huấn- Tổng cục chính trị biên soạn cho rằng, khái niệm ý chí có thể định
nghĩa như sau: “ý chí chính là năng lực của con người chỉ huy và điều chỉnh
những hành động của mình để đạt cho được những mục đích đã đề ra trên cơ
sở đã tính toán đến tình hình thực tế khách quan” [33; 400]. Định nghĩa này
chưa đề cập đến sự nỗ lực khắc phục khó khăn, chưa thấy sự khác biệt đáng
kể của ý chí (hành động ý chí) so với hành động thông thường là sự vượt qua
những trở ngại khó khăn để đạt được mục đích đặt ra.
Trong cuốn “Tâm lý học” (1988) do nhóm tác giả Phạm Minh Hạc, Lê
Khanh, Trần Trọng Thuỷ biên soạn đã định nghĩa: “ý chí là mặt năng động
của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích,
đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn” [11; 236]. Các tác giả còn
khẳng định ý chí là một thuộc tính tâm lý của nhân cách. Ý chí không phải
- 15 -

tự nhiên mà có. Ý chí được hình thành trong quá trình lao động. Là mặt năng
động của ý thức, ý chí “là hình thức tâm lý điều chỉnh hành vi tích cực nhất

ở con người. Sở dĩ như vậy là vì ý chí kết hợp trong mình cả mặt năng động
của trí tuệ, lẫn mặt năng động của tình cảm đạo đức” [11; 237].
Trong cuốn “Tâm lý học” do nhóm tác giả Phạm Minh Hạc, Nguyễn
Kế Hào, Nguyễn Quang Uẩn (1991) biên soạn, khái niệm ý chí được định
nghĩa như sau: “ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực
hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó
khăn bên ngoài và bên trong” [13; 121]. Các tác giả cho rằng ý chí là mặt
biểu hiện cụ thể của ý thức trong thực tiễn, cần phải phân biệt mặt nội dung
(hay cường độ) với mặt đạo đức của ý chí.
Tác giả Bùi Văn Huệ (1996) cho rằng: “ý chí là mặt điều chỉnh của ý
thức, là khả năng tâm lý cho phép con người vượt qua những khó khăn và
trở ngại để thực hiện được những hành động có mục đích” [17; 67].
Trong cuốn Tâm lý học đại cương của nhóm tác giả Nguyễn Quang
Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành (2003) khi bàn đến khái niệm ý chí
cho rằng: “ý chí là một phẩm chất nhân cách, ý chí thể hiện năng lực thực
hiện những hành động có mục đích đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó
khăn” [12; 167].
Nhìn chung, định nghĩa của các tác giả về ý chí khá thống nhất. Các
tác giả đều cho rằng, ý chí là một phẩm chất nhân cách của con người, ý chí
là mặt năng động của ý thức; là mặt biểu hiện trong thực tiễn của ý thức; ý
chí không phải là cái tự nhiên mà có ở mỗi con người, phẩm chất này được
hình thành trong hoạt động thực tiễn của con người. Các tác giả đều thống
nhất cần phải phân biệt mặt nội dung và mặt đạo đức của ý chí.
Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng khái niệm ý chí có thể được
hiểu như sau: ý chí là một phẩm chất của nhân cách, mặt năng động của ý
- 16 -

thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích đòi
hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục những khó khăn chủ quan và khách
quan.

1.2.1.2.2.Các phẩm chất ý chí của nhân cách
Trong quá trình thực hiện những hành động ý chí chinh phục và cải
tạo hiện thực khách quan, con người hình thành cho mình những phẩm chất
ý chí, vừa đặc trưng cho họ với tư cách là một nhân cách, vừa có ý nghĩa to
lớn trong đời sống thực tiễn của mỗi cá nhân.
Xung quanh vấn đề phẩm chất của ý chí có nhiều nhà Tâm lý học
quan tâm nghiên cứu.
Trong cuốn “Tâm lý học” (1974) do nhóm tác giả của Cục tuyên
huấn- Tổng cục chính trị biên soạn cho rằng những phẩm chất ý chí của mỗi
cá nhân gồm có:
- Tính mục đích
- Tính độc lập tự chủ
- Tính quyết đoán
- Tính bền bỉ
- Tính kiên cường [33; 416].
Theo các tác giả trên: “tính kiên cường là một phẩm chất ý chí rất
quan trọng. Nó nói lên tinh thần dũng cảm rất cao trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ. Đặc biệt nó chỉ rõ mức độ khẩn trương của hành động, cường độ
cao của sự nỗ lực ý chí và tiêu hao lớn các năng lượng tinh thần và thể lực
của con người” [33; 420]. Thực ra đây là biểu hiện phẩm chất dũng cảm của
ý chí con người.
Trong cuốn “Tâm lý học” (1988) do nhóm tác giả Phạm Minh Hạc, Lê
Khanh, Trần Trọng Thuỷ biên soạn cho rằng ý chí có một số phẩm chất cơ
bản sau:
- 17 -

- Tính mục đích
- Tính độc lập
- Tính quyết đoán
- Tính bền bì (hay kiên trì)

- Tính tự chủ [11; 242- 246].
Theo các tác giả, “tính tự chủ là khả năng làm chủ được bản thân.
Trong khi duy trì được được sự kiểm soát đầy đủ đối với hành vi của mình,
người tự chủ thắng được những thúc đẩy không mong muốn, những tác động
có tính chất xung động, những xúc động ở trong mình” [11; 246].
Trong cuốn Tâm lý học đại cương, tập 2, do nhóm tác giả Phạm Tất
Dong, Nguyễn Hải Khoát, Nguyễn Quang Uẩn (1995) biên soạn cho rằng
các phẩm chất ý chí cơ bản bao gồm:
- Tính mục đích
- Tính kiên trì
- Tính quyết đoán
- Tính dũng cảm
- Tính độc lập
- Tính tự kiềm chế [07; 91- 99].
Tính tự kiềm chế mà các tác giả trên đề cập chính là tính tự chủ mà
nhóm tác giả Phạm Minh Hạc (sđd) quan niệm, còn tính dũng cảm được
hiểu như sau: “tính dũng cảm là một phẩm chất ý chí quan trọng đi đôi với
tính quyết đoán. Dũng cảm là sự liều lĩnh gan dạ sau khi đã tính đến các
nguy hiểm phải gánh chịu khi thực hiện một hành vi nào đó” [07; 94].
Chúng tôi cho rằng, dũng cảm có thể là sự “gan dạ” nhưng nếu coi dũng cảm
là sự “liều lĩnh” thì không hợp lý vì liều lĩnh là làm việc mà không tính toán
đến hậu quả cũng như không hình dung được các bước thực hiện, các công
cụ, phương tiện để thực hiện hành động.
- 18 -

Trong cuốn Tâm lý học đại cương, do nhóm tác giả Nguyễn Quang
Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành (2003) biên soạn cho rằng các
phẩm chất ý chí cơ bản bao gồm:
- Tính mục đích
- Tính độc lập

- Tính quyết đoán
- Tính kiên cường
- Tính dũng cảm
- Tính tự kiềm chế, tự chủ.
Tính dũng cảm của ý chí được hiểu như sau: “khả năng sẵn sàng và
nhanh chóng vươn tới mục đích bất chấp khó khăn, nguy hiểm cho tính
mạng hay lợi ích của bản thân” [35; 168].
Tóm lại, qua việc nghiên cứu quan điểm của các nhà Tâm lý học
chúng tôi nhận thấy quan điểm của các nhà Tâm lý học về các phẩm chất ý
chí của nhân cách khá thống nhất. Có tác giả cho rằng “tính dũng cảm” là
một trong những phẩm chất của ý chí; có tác giả lại không dùng thuật ngữ
tính dũng cảm mà dùng thuật ngữ “tính kiên cường” nhưng nội hàm thì
giống nhau.
Chúng tôi cho rằng ý chí được thể hiện qua các phẩm chất sau:
1. Tính mục đích
2. Tính độc lập
3. Tính quyết đoán
4. Tính dũng cảm
5. Tính bền bỉ (hay tính kiên trì)
Sau đây chúng ta sẽ xem xét từng phẩm chất cụ thể của ý chí:
+ Tính mục đích: là phẩm chất quan trọng hàng đầu của ý chí. Tính
mục đích cho phép con người điều chỉnh hành vi hướng vào mục đích tự
- 19 -

giác; “là kỹ năng của con người biết đề ra cho hoạt động và cuộc sống của
mình những mục đích gần và xa, biết bắt hành vi của mình phục tùng các
mục đích ấy” [11; 243]. Tính mục đích trong hoạt động ý chí được thể hiện
cụ thể ở việc: tự đề ra mục tiêu; tự vạch ra kế hoạch thực hiện mục tiêu; tự
lựa chọn công cụ, phương tiện để đảm bảo mục tiêu được thực hiện; tự điều
khiển, điều chỉnh hành động không xa rời mục tiêu; tự kiểm tra, đánh giá

làm chủ quá trình thực hiện mục tiêu mang lại hiệu quả cao nhất. Tính mục
đích mang tính đạo đức rõ nét. Do đó, khi xem xét ý chí của một cá nhân
cũng cần lưu ý xem xét cả mặt đạo đức của mục đích mà cá nhân theo đuổi.
Tính mục đích trong hoạt động học tập của sinh viên được biểu hiện ở việc
đề ra cho mình những mục tiêu phù hợp trong từng tiết học, từng môn học,
từng học kỳ và từng khâu, từng giai đoạn của quá trình học tập; biết tự vạch
ra kế hoạch, lựa chọn công cụ, phương tiện để thực hiện mục tiêu; biết tự
kiểm tra, đánh giá, nhận xét việc thực hiện mục tiêu của bản thân.
+ Tính độc lập: “là phẩm chất ý chí cho phép con người quyết định và
thực hiện hành động theo những quan điểm và niềm tin của mình” [35; 168].
Tuy nhiên, tính độc lập không loại trừ việc cá nhân từ bỏ ý kiến của mình
nghe và làm theo ý kiến của người khác khi ý kiến đó là đúng đắn, phù hợp
với điều kiện khách quan. Tính độc lập hoàn toàn khác với tính bảo thù, trì
trệ. Khăng khăng giữ ý kiến của mình khi biết ý kiến đó là không phù hợp
với việc tự giác từ bỏ ý kiến của mình khi biết ý kiến đó không phù hợp với
điều kiện khách quan là hai việc hoàn toàn khác nhau. Tính độc lập của ý chí
và tinh thần ham học hỏi, tham khảo ý kiến của người khác không hề mâu
thuẫn nhau. Tính độc lập của cá nhân thể hiện của một lối sống biết dựa vào
sức mạnh của mình là chính (biết đi bằng đôi chân của chính mình), không ỷ
lại, dựa dẫm vào người khác nhưng tích cực học tập người khác làm cho tính
độc lập của mình đạt hiệu quả cao hơn.
- 20 -

Tính độc lập trong hoạt động học tập của sinh viên được biểu hiện ở
việc tự chủ vạch ra những mục tiêu phù hợp trên cơ sở đánh giá năng lực
cũng như điều kiện của bản thân. Ở việc cá nhân có khả năng độc lập tiến
hành hoạt động học tập, độc lập đánh giá một cách khách quan kết quả của
hoạt động học tập so với mục tiêu đặt ra lúc đầu. Thể hiện ở chỗ: nếu kết quả
đạt được không phù hợp với mục tiêu ban đầu thì chủ thể của hoạt động học
tập có khả năng xác định lại mục tiêu học tập hoặc xác định lại công cụ/

phương tiện để đạt mục tiêu ban đầu. Tính độc lập trong hoạt động học tập
của sinh viên còn được thể hiện ở việc kiên quyết từ chối các cám dỗ của đời
sống thường nhật để tập trung vào việc học tập.
+ Tính quyết đoán: “là khả năng đưa ra những quyết định kịp thời, dứt
khoát trên cơ sở cân nhắc, tính toán kỹ càng chắc chắn” [35; 168]. Không
trần trừ, do dự; kịp thời đề ra những quyết định trên cơ sở hiểu biết sâu sắc,
chính xác về sự vật, hiện tượng, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế
của bản thân. Người có tính quyết đoán là người tin tưởng sâu sắc rằng mình
phải làm như thế này, mà không thể làm như thế khác. Tiền đề của tính
quyết đoán là sự hiểu biết bản chất của sự vật, hiện tượng, sự sang suốt và
minh mẫn của trí tuệ. Người không có tính dũng cảm thì không thể là người
quyết đoán. Giữa quyết đoán và sự hiểu biết có mối quan hệ khăng khít.
Nắm vững quy luật khách quan, bản chất của lĩnh vực mà mình công tác là
tiền đề cho sự quyết đoán của cá nhân đó. Quyết đoán khác với làm liều một
cách mù quáng. Ngược lại với quyết đoán là sự trần trừ bất quyết- con đẻ
của sự thiếu hiểu biết, thiếu dũng cảm…
Tính quyết đoán trong hoạt động học tập của sinh viên được thể hiện
ở việc sinh viên đề ra cho mình những mục tiêu phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh của bản thân; biết huy động toàn bộ sức lực của bản thân mình thực
hiện mục tiêu đó mà không có chút trần trừ, do dự. Không chỉ có thế, tính
- 21 -

quyết đoán trong hoạt động học tập còn được thể hiện ở chỗ cá nhân kịp thời
đưa ra những cách thức, phương tiện khác nhau để đạt mục tiêu khi các công
cụ/ phương tiện đang sử dụng không còn phù hợp và không có khả năng
hiện thực hóa mục tiêu.
+ Tính dũng cảm: “là khả năng sẵn sàng và nhanh chóng vươn tới mục
đích bất chấp khó khăn, nguy hiểm cho tính mạng hay lợi ích của bản thân”
[35; 168]. Đây là phẩm chất ý chí quan trọng đi đôi với tính quyết đoán.
Tính dũng cảm được thể hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người:

lao động, học tập, vui chơi…Đối lập với tính dũng cảm là sự bạc nhược và
nhút nhát. Tính dũng cảm là điều kiện để vươn tới mục đích đòi hỏi phải
vượt qua những khó khăn lớn lao, thâm chí nguy hiểm. Dũng cảm trên cơ sở
hiểu biết sâu sắc cách thức tiến hành công việc đang làm, khác hẳn với sự
liều lĩnh một cách ngu xuẩn. Trong hoạt động học tập của sinh viên tính
dũng cảm được thể hiện ở việc dám đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực
trong học đường và thi cử: vi phạm nội quy học tập; quay cóp; chạy điểm
v…v…
+ Tính bền bì (hay kiên trì): “phẩm chất này của ý chí được biểu hiện
ở kỹ năng đạt được mục đích đề ra dù con đường đạt tới chúng có lâu dài và
gian khổ đến đâu” [11; 245]. Tính bền bỉ (kiên trì) là khả năng duy trì một
sự nỗ lực đòi hỏi phải huy động sức mạnh cơ bắp và tinh thần trong một thời
gian dài, là cường độ của ý chí được huy động một cách thường xuyên để
đạt được mục đích đề ra. Biểu hiện của tính kiên trì là tinh thần “thắng
không kiêu, bại không nản”. Người có tính kiên trì không bao giờ ngủ quên
trên chiến thắng, không bao giờ hài lòng với những thành công hiện tại, luôn
luôn huy động sức lực và trí tuệ của mình vươn tới mục đích cuối cùng.
Người có tính bền bỉ, kiên trì đứng trước những thất bại tạm thời không hề
nao núng, vẫn tích cực tìm tòi phân tích nguyên nhân thất bại để trên cơ sở
- 22 -

đó tìm biện pháp khắc phục với mục đích cuối cùng là đạt mục đích đã đặt ra
ban đầu. Tính bền bỉ, kiên trì trong hoạt động học tập của sinh viên được
biểu hiện ở sự duy trì một cường độ chú ý cao; một sự khắc phục khó khăn
lâu dài trên con đường đạt tới mục tiêu trong hoạt động học tập- nghiên cứu
của sinh viên: kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng nghiên cứu, những tri thức nói
chung về thế giới tự nhiên, xã hội và con người.
1.2.1.2.3. Chức năng của ý chí
Từ điển Tâm lý học, tác giả Vũ Dũng chủ biên cho rằng: “Ý chí gắn
liền với hành động và thực hiện hai chức năng có liên quan đến nhau: 1.chức

năng kích thích- đem lại tính tích cực cho chủ thể; 2.chức năng ức chế- xuất
hiện trong sự kìm hãm những thèm muốn, dục vọng, thói quen… [08; 422].
Chức năng kích thích: Chức năng này thể hiện ở việc chủ thể nỗ lực ý
chí tiến hành các hoạt động đa dạng khác nhau nhằm thích ứng, cải tạo hiện
thức khách quan, từ đó tạo ra sự phát triển tâm lý của chính bản thân chủ thể
tiến hành hành động. Chúng ta có thể quan sát thấy rõ chức năng này của ý
chí được thể hiện qua sự nỗ lực ý chí của chủ thể từ việc xác định mục tiêu
đến việc lựa chọn các công cụ/phương tiện và tiến hành hoạt động đến kết
quả của nó. Nó như một lực đẩy thôi thúc cá nhân tích cực hành động nhằm
đạt tới mục tiêu đặt ra ban đầu. Trong hoạt động học tập của sinh viên ý chí
thể hiện rõ chức năng kích thích- đem lại tính tích cực cho chủ thể sinh viên
trong hoạt động học tập nhằm chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kĩ năng và kĩ xảo
tương ứng. Sinh viên tự xác định mục tiêu học tập của mình, tự lựa chọn
công cụ, phương tiện để tiến hành hoạt động học tập…Sinh viên tự biến quá
trình học tập ở đại học thành quá trình tự học một cách tự giác, có ý thức của
bản thân.
Chức năng ức chế: hoạt động của con người bao giờ cũng được thúc
đẩy bởi nhu cầu, động cơ. Trong quá trình sống của mình, con người cùng
- 23 -

lúc xuất hiện nhiều nhu cầu khác nhau. Các nhu cầu đó có lúc thống nhất
nhưng cũng có lúc mâu thuẫn với nhau. Để giải quyết vấn đề này ý chí có
vai trò quan trọng. Chính ý chí của con người giúp chúng ta kĩm hãm hoặc
trì hoãn được những hành động thoả mãn những nhu cầu không phù hợp,
giúp con người thực hiện được mục đích của mình. Trong hoạt động học tập
của sinh viên, chức năng này được thể hiện ở việc sinh viên biết kìm hãm
hoặc trì hoãn những nhu cầu không phù hợp xuất hiện trong qúa trình tiến
hành hoạt động học tập (sa đà vào các hoạt động vui chơi, nghỉ ngơi, thư
giãn một cách thái quá, mất hết thời gian và sức lực ảnh hưởng xấu đến việc
học tập).

Có thể nhận thấy, chức năng kích thích của ý chí được biểu hiện rõ
hơn ở mỗi chủ thể, dễ quan sát và nghiên cứu hơn. Còn chức năng ức chế là
những ức chế về mặt thần kinh, cảm xúc, kìm hãm hành động, do đó khó
quan sát và trải nghiệm. Nhưng cũng hết sức sai lầm khi cho rằng ở cùng
một chủ thể thì chức năng kích thích đòi hỏi sự nỗ lực ý chí của cá nhân lớn
hơn chức năng ức chế. Tất nhiên, sự phân chia 2 chức năng trên của ý chí là
hết sức tương đối. Trên thực tế 2 chức năng trên của ý chí có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Cả hai chức năng này đều cần thiết và quan trọng trong
quá trình cá nhân làm chủ hoạt động của mình.
1.2.1.2.4. Cấu trúc của ý chí
Định nghĩa về ý chí ở phần trên đã chỉ rõ: ý chí là một phẩm chất của
nhân cách, mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những
hành động có mục đích đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục những khó khăn
chủ quan và khách quan. Ý chí là sự thể hiện của ý thức trong thực tiễn. Ý
chí mang cấu trúc của ý thức nhưng ý chí không phải là cái đồng nhất với ý
thức.
- 24 -

Các nhà Tâm lý học đều coi ý chí có sức mạnh điều khiển, điều chỉnh
hành vi một cách có ý thức.
Theo chúng tôi, thuật ngữ “năng động” ở đây cần được hiểu như là sự
thể hiện, sự vận hành, sự tác động tích cực của chủ thể trong mối quan hệ
với thế giới xung quanh và với chính bản thân chủ thể. Thông qua ý chí,
hành động ý chí, trí tuệ (nhận thức) và tình cảm đạo đức (tình cảm) của mỗi
chủ thể được biểu hiện một cách rõ rệt. Đồng thời, trí tuệ và tình cảm đạo
đức góp phần hình thành và phát triển ý chí của mỗi cá nhân. Vậy là, ý chí
không phải là một cái gì cao siêu, xa vời, không phải là “ý muốn của thượng
đế” mà thực ra ý chí chính là sự “kết tinh” của trí tuệ (nhận thức) và tình
cảm đạo đức (tình cảm) của mỗi cá nhân, thể hiện ở mặt điều khiển/điều
chỉnh hành vi của nó.

Ý chí mang cấu trúc của ý thức nhưng không phải là cái đồng nhất với
ý thức. Do đó, theo chúng tôi cấu trúc của ý chí gồm 3 mặt sau đây:
1. Mặt nhận thức (trí tuệ).
2. Mặt tình cảm (tình cảm đạo đức).
3. Mặt điều khiển, điểu chỉnh hành vi.
- Mặt năng động của trí tuệ: là sự hiểu biết qui luật, bản chất của sự
vật, hiện tượng. Sự hiểu biết đó được thể hiện (một cách năng động) qua
từng hành động ý chí cụ thể hướng dẫn hành động, làm chỗ dựa cho hành
động ý chí (hành động ý chí trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về đối tượng). Do
đó, ý chí là sự kết tinh trí tuệ của con người, “nhận thức làm cho ý chí có nội
dung nhất định của nó”[11; 238]. Các quá trình nhận thức, đặc biệt là tư duy,
đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc ý chí của mỗi cá nhân. Các quá trình
nhận thức nói chung, tư duy nói riêng là điều kiện để con người thực hiện
các hành động ý chí: “sự điều chỉnh của ý chí đối với hành vi- đó là hướng
một cách có ý thức các nỗ lực trí tuệ và thể chất vào việc đạt tới mục đích
- 25 -

hoặc vào việc kiềm chế hoạt động khi cần thiết” [11; 238]. Trí tuệ trong
thành phần của ý chí không chỉ là sản phẩm của một quá trình nhận thức đơn
lẻ (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng…) mà nó là kết quả tổng hợp của
tất cả các quá trình nhận thức.
- Mặt năng động của tình cảm đạo đức: một thành phần không thể
thiếu trong cấu trúc của ý chí là mặt năng động của tình cảm đạo đức. Con
người không chỉ nhận thức thế giới xung quanh mà còn thể hiện những rung
cảm của mình với thế giới đó. Tình cảm đạo đức là những rung cảm của con
người đối với những sự kiện liên quan đến nhu cầu, lợi ích của cá nhân trong
mối quan hệ với lợi ích của người khác, của xã hội. Tình cảm đạo đức quyết
định mặt nội dung của ý chí, hướng dẫn sự biểu hiện của ý chí thông qua các
hành vi cụ thể. Thông qua ý chí, hành động ý chí, tình cảm đạo đức của chủ
thể được thể hiện rõ rệt. Từ việc xác định mục đích, động cơ của hành động

đến việc lựa chọn công cụ, phương tiện; quyết định hành động; việc thực
hiện quyết định hành động và kiểm tra việc thực hiện quyết định… luôn diễn
ra quá trình đấu tranh động cơ, mục đích ở mỗi chủ thể. Việc lựa chọn động
cơ, phương tiện đó có mâu thuẫn với mục đích, lợi ích, có ảnh hưởng đến
quyền lợi của người khác hay không…? Nếu một cá nhân không có tình cảm
đạo đức mạnh mẽ thì khả năng lựa chọn động cơ, mục đích của bản thân
mình mâu thuẫn với lợi ích của người khác rất có thể xảy ra. Bởi vậy, ý chí
thể hiện rất rõ “tính năng động” của tình cảm đạo đức của mỗi cá nhân.
- Mặt điều khiển/điểu chỉnh hành vi: ý chí điều khiển, điều chỉnh
hành vi của con người. Giúp con người đạt được động cơ, mục đích mà họ
đặt ra trong các hoạt động của mình trong cuộc sống.
Ý chí điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người, là động lực để
con người thực hiện thành công những hoạt động đòi hỏi phải có sự nỗ lực ý
chí khắc phục khó khăn, gian khổ.

×