Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.54 KB, 26 trang )

Chủ đề : Tìm Hiểu Về Hoạt Động Doanh
Nghiệp Nhà Nước Việt Nam
Các câu hỏi chính nhóm đưa ra :
1. Tìm hiểu thế nào là dnnn, đặc điểm, lý do thành lập dnnn ?
2. Thực trạng của dnnn ?
 Những thành tựu đã đạt được ?
 Những hạn chế ,yếu kém trong dnnn ?
 Nguyên nhân còn sự yếu kém của dnnn ?
 Những vấn đề nổi cộm hiện nay là gì ?
3. Vai trò của chính phủ trong điều tiết và quản lý DNNN ?
Tóm Tắt Nội Dung chính :
I. Lý luận chung
1) Định Nghĩa
2) Cơ cấu tổ chức DNNN
3) Đặc điểm DNNN
4) Lý do thành lập DNNN
II. Thực trạng của DNNN
1) Những thành tựu đạt được
2) Những hạn chế, yếu kém trong DNNN
3) Nguyên nhân của sự yếu kém
4) Những vấn đề nổi cộm hiện nay
III. Vai trò của chính phủ trong điều tiết và quản lý DNNN
IV. Kiến nghị
V. Nguồn tài liệu tham khảo
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta luôn khẳng định thành
phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà
nước là một trong những vấn đề lý luận kinh tế trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong
giai đoạn lãnh đạo đất nước xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Hiệnnay lý luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả về nhận thức lý luận và thực
tiễn. Ở Việt Nam thì kinh tế nhà nước là một bộ phận có vai trò quyết định trong cơ cấu kinh tế


của nước ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước thì khuvực doanh nghiệp nhà
nước là bộ phận chủ yếu có vị trí đặc biệt. Nhưng thực trạng của khu vực doanh nghiệp nhà nước
của nước ta hiện nay thì chưa thể hiện được vai trò then chốt và chủ đạo trong nền kinh tế, một
số ngành, một số lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước không năng động bằng khu vực kinh tế tư
nhân. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ chức
và vận hành doanh nghiệp nhà nước chưa thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp nhà nước có thể thể
hiện được vai trò chủđạo của mình trong nền kinh tế quốc dân thì vấn đề tất yếu là ta phải tổ
chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp lý
I. Lý luận chung
1. Định nghĩa
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
• Công ty nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ,
• Công ty cổ phần nhà nước là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty
nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn
• Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên là công ty trách nhiệm
hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
• Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên là công ty trách
nhiệm hữu hạn là tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn
• Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp mà cổ
phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà nước giữ quyền
chi phối đối với doanh nghiệp đó.
• Doanh nghiệp có một phần vốn của Nhà nước là doanh nghiệp mà phần vốn góp
của Nhà nước trong vốn điều lệ chiếm từ 50% trở xuống.
• Công ty nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác là công ty sở hữu toàn
bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh
nghiệp khác, giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
• Công ty nhà nước độc lập là công ty nhà nước không thuộc cơ cấu tổ chức của tổng
công ty nhà nước.

2. Cơ cấu tổ chức DNNN
Tuỳ thuộc đặc điểm, tính chất và quy mô của các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức quản lý được
quy định cho doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị, doanh nghiệp nhà nước không có hội
đồng quản trị và tổng công ty nhà nước là khác nhau.
Điều 28 Luật doanh nghiệp nhà nước có quy định về tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước:
• Tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước độc lập quy mô lớn có cơ cấu tổ chức
quản lý như sau:
o Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát.
o Tổng giám đốc hoặc giám đốc và bộ máy giúp việc.
o Hình thức tổ chức giám sát tại các doanh nghiệp này do Chính phủ quy định.
3. Đặc điểm
 Là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn và trực tiếp thành lập.
• Doanh nghiệp Nhà nước đều do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định
thành lập khi thấy việc thành lập Doanh nghiệp là cần thiết. Việc thành lập doanh
nghiệp Nhà nước dựa trên nguyên tắc chỉ thành lập theo những ngành, lĩnh vực then chốt,
xương sống của nền kinh tế dựa trên những đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế thời điểm dó
và chủ trương của Đảng và ngành nghề lĩnh vực đó.
• Doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước đầu từ vốn nên nó thuộc sở hữu Nhà nước, tài sản
của doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận của tài sản Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà
nước sau khi được thành lập là một chủ thể kinh doanh, tuy nhiên chủ thể kinh doanh này
không có quyền sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp mà chỉ là người quản lý tài sản
và kinh doanh trên cơ sở sở hữu của Nhà nước. Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp,
doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc bảo toàn và phát triển vốn
mà Nhà nước giao.
 Doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước tổ chức quản lý và hoạt động theo mục tiêu kinh tế
xã hội do Nhà nước giao.
+ Nhà nước quản lý doanh nghiệp Nhà nước thông qua cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền
theo phân cấp của Chính phủ. Bao gồm những nội dung sau:
• Nhà nước quy định mô hình cơ cấu tổ chức quản lý trong từng loại doanh nghiệp
Nhà nước phù hợp với quy mô của nó.

• Những quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ cấu tổ chức trong
doanh nghiệp Nhà nước như hội đồng quản trị, Tổng giám đốc
• Những quy định thẩm quyền trình tự thủ tục của việc bổ nhiệm miễn nhiệm khen
thưởng kỷ luật các chức vụ quan trọng của doanh nghiệp như chủ tịch Hội đồng
quản trị.
+ Hoạt động của doanh nghiệp chịu sự chi phối của nhà nước về mục tiêu kinh tế xã hội do nhà
nước giao.
Nếu Nhà nước giao cho doanh nghiệp Nhà nước nào thực hiện hoạt động kinh doanh thì doanh
nghiệp Nhà nước đó phải kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp Nhà nước nào được giao thực
hiện hoạt động công tích thì doanh nghiệp Nhà nước đó phải thực hiện hoạt động công ích nhằm
đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội.
 Doanh nghiệp Nhà nước là một pháp nhân chịu trách nhiệm hữu hạn về mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh trong phạm vi số vốn Nhà nước giao.
4. Lý do thành lập DNNN
 Độc quyền tự nhiên: độc quyền tự nhiên xuất hiện khi, do quy luật tăng hiệu quả
kinh tế theo quy mô, hiệu quả sản xuất và phân phối của một ngành đạt được tối
đa khi chỉ có một người cung cấp duy nhất, chả hạn như trong ngành điện, nước.
Quốc hữu hóa các ngành này thường để đảm bảo không xảy ra chuyện doanh
nghiệp tư nhân trở nên độc quyền và dựa vào đó bóc lột người tiêu dùng.
 Thất bại của thị trường vốn: Có một số ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều vốn và
mức độ rủi ro cao khiến cho việc huy động vốn tư nhân qua thị trường vốn rất khó
khăn.
 Ngoại ứng: Các nhà đầu tư tư nhân không muốn đầu tư vào các ngành mà lợi ích
của nó lan tỏa sang nhiều ngành khác trong khi họ không thu được phí từ sự lan
tỏa này.
 Công bằng xã hội: Khu vực tư nhân nhiều khi không chịu vươn tới các khu vực
nghèo đói, vùng sâu, vùng xa vì lợi nhuận thấp. Vì thế, phải có các Doanh nghiệp
Nhà nước làm việc này để đảm bảo quyền tiếp cận tới các dịch vụ và tiện ích tối
thiểu của công chúng.
II. Thực trạng của DNNN Việt Nam

1. Những thành tựu đã đạt được
 Ở Việt Nam, trong quá trình đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước đã góp phần
quan trọng bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nềnkinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Sau hơn 20 năm thực hiện sắp xếp và tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước, tính
đến ngày 31-12-2013, sốlượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm khá nhiều từ hơn
12.000 doanh nghiệp vào năm 1992 xuống còn 949 doanh nghiệp có 100% vốn
nhà nước. Số ngành, lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước tham gia cũng giảm từ 43
xuống còn 20. Tuy số lượng ngày càng giảm nhưng trong nhiều năm qua các
doanh nghiệp nhà nước đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế
của đất nước (khoảng 30% GDP). Cùng với các thành phần kinh tế khác, các
doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát
triển kết cấu hạ tầng như hạ tầng giao thông, hạ tầng nông nghiệp và nông thôn,
năng lượng, thông tin liên lạc, hạ tầng đô thị, cũng như xây dựng nhiều công
trình phục vụ an ninh, quốc phòng, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội
 Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong
nước, tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất, nhập khẩu, hợp tác đầu tư với nước
ngoài; Các DNNN nắm tới 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà
nước, 60% tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% nguồn vốn hỗ trợ phát
triển… là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội,khắc phục
hậu quả thiên tai, bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã
hội, quốc phòng, an ninh
Trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp nhà nước đã
ngày càng thích ứng hơn với cơ chế thị trường, cơ cấu và quy mô doanh nghiệp
nhà nước được điều chỉnh hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều
tiến bộ, hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên.
VD:
o Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tập trung vào 5 ngành, nghề chính, trong đó lĩnh vực
kinh doanh chính là tìm kiếm,thăm dò và khai thác dầu khí.

o Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam tập trung vào ngành sản xuất
chính gồm than, khoáng sản, điện, vật liệu nổ công nghiệp, cơ khí mỏ.
o Tổng Công ty Cà phê Việt Nam xác định lĩnh vực kinh doanh chính là trồng, sản
xuất, chế biến và kinh doanh cà phê.
o Tổng Công ty Hàng hải tập trung vào 3 lĩnh vực kinh doanh chính là vận tải
biển, khai thác cảng biển và dịch vụ hàng hải
(theo Tạp chí Cộng Sản )
 Bước đầu đã phân định chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước với
chức năng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể là làm rõ
các quan hệ : ai là chủ sở hữu vốn, mức độ tự chủ của doanh nghiệp đến đâu,
quan hệ với cơ quan chủ quản.Nhờ xác định rõ quyền tự chủ của các doanh
nghiệp nhà nước nên trong việc thực hiện chủ trương liên doanh, liên kếtvới nước
ngoài qua hoạt động đầu tư quốc tế các doanh nghiệp nhà nước (chiếm 96% số dự
án)đã chủ động, tích cực và thực hiện khá thành công góp phần thu hút, đẩy
mạnh vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
 Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước : Đã tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách
đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước. Triển khai thực hiện nhiều văn bản pháp
luật theo hướng tăng cường quản lý nhà nước và xác định rõ quyền, trách nhiệm,
nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp; đề cao trách nhiệm, phát huy
tính tự chủ và công khai minh bạch của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường theo
quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế.
 Đã triển khai Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011 - 2015, tập
trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và cung ứng các dịch vụ công thiết
yếu, quốc phòng an ninh. Thực hiện tái cơ cấu từng tập đoàn và tổng công ty, phê
duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động, xác định nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh
chính, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, đẩy mạnh cổ phần hóa, đổi mới quản trị
doanh nghiệp, tăng cường kiểm soát nội bộ và công tác quản lý cán bộ.
VD:
o Từ năm 2011 đến hết năm 2013, cả nước đã sắp xếp được 180 DN; trong đó, cổ
phần hóa 99 DN, nâng tổng số DN cổ phần hóa từ trước lên 4.065 DN. Riêng

trong 9 tháng đầu năm 2014, đã có 92 DN được sắp xếp; trong đó, cổ phần hóa 71
DN (trong đó có Tập đoàn Dệt may và 12 tổng công ty nhà nước).
o Đã thực hiện Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ và Tổng công ty
Hàng hải Việt Nam. Hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà
nước có bước được cải thiện. Doanh nghiệp nhà nước cơ bản thực hiện được vai
trò nhiệm vụ được giao. Quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường và yêu cầu hội nhập quốc tế.
2. Những tồn tại , yếu kém trong DNNN
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp nhà nước vẫn còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém như :
 Thể chế, cơ chế quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu nhà nước vẫn còn những sơ
hở, bất cập, chưa thực sự làm tốt vai trò, nhiệm vụ được giao, hiệu quả sản xuất, kinh
doanh và sức cạnh tranh còn thấp; cơ cấu chưa hợp lý, còn dàn trải, một bộ phận quy mô
còn nhỏ, đầu tư ra ngoài ngành kém hiệu quả; trình độ công nghệ lạc hậu, quản trị yếu
kém nên năng suất lao động thấp, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, thậm chí một số doanh nghiệp vi phạm pháp luật nghiêm
trọng.
 Về hiểu quả kinh doanh: mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía nhà nước sau
nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn
chưa chứng tỏ được tính hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng
được mong muốn của Đảng và nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do nhà
nước dành cho.
VD: Những DNNN càng kinh doanh càng lỗ “khủng” được Kiểm toán Nhà nước điểm mặt là:
Công ty mẹ Cienco 5 lỗ đầu tư tài chính 11,4 tỷ đồng;
5/50 công ty do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư thua lỗ 3.702 tỷ đồng
11/31 công ty do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đầu tư thua lỗ 6.342 tỷ đồng
Ngoài ra, 7/24 công ty do Tổng công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) đầu tư lỗ lũy kế
339,6 tỷ đồng
6/57 công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) lỗ 118,3 tỷ đồng
3/8 công ty liên doanh, liên kết do Công ty mẹ Tổng Công ty Sông Đà đầu tư thua lỗ

5/24 công ty liên doanh, liên kết do Tổng công ty ô tô đầu tư thua lỗ.
Tiếp sau là danh sách các công ty kinh doanh tới mức âm vốn chủ sở hữu như 3/10 công ty thuộc
Cienco 5 (âm 53,7 tỷ đồng); công ty Thực phẩm Miền Bắc thuộc Tổng Công ty Thuốc lá (âm
166,74 tỷ đồng).
Tình trạng lỗ lũy kế lớn hơn vốn điều lệ/vốn đầu tư của chủ sở hữu Nhiều chuyên gia kinh tế trên
các diễn đàn cũng đã thẳng thắn cho rằng, xét về hiệu gồm hàng loạt các công ty liên doanh vốn
Việt Nam và nước ngoài, thuộc ngành bất động sản, xây dựng và cả tài chính, với tỷ lệ lỗ gấp 1,3
đến 3 lần vốn chủ của khu vực DNNN trong thời gian qua chưa cao và đang ngày càng suy giảm.
Giai đoạn 2000 - 2006, khu vực kinh tế nhà nước đầu tư 7,2 đồng mới làm tăng được 1 đồng
GDP, nhưng đến những năm 2007 - 2012 phải đầu tư tới 9,3 đồng mới làm tăng được 1 đồng.
Hơn nữa, hiệu quả sản xuất nhìn từ tỷ suất lợi nhuận trên vốn rất thấp và ngày càng giảm. Năm
2007, tỷ suất này của các DNNN khoảng 2,6%, nhưng đến năm 2012 giảm xuống chỉ còn 1%.
Trong khi đó, tỷ lệ trả lãi vay bình quân cả trong và ngoài nước khoảng 4-5% nên nhiều DNNN
khó có thể trả nợ. Điều này khiến áp lực nợ công ngày càng tăng.
OECD khuyến nghị: “Nhà nước cần cho phép Hội đồng quản trị của DNNN thực hiện trách
nhiệm của mình và tôn trọng quyền tự chủ của họ. Nhà nước với tư cách chủ sở hữu tích cực
phải thực hiện quyền sở hữu theo cơ cấu pháp lý của mỗi doanh nghiệp. Các trách nhiệm tài
chính của Nhà nước bao gồm: tham gia đại hội đồng cổ đông và biểu quyết; xây dựng quy trình
đề cử Hội đồng quản trị cụ thể và minh bạch ở các DNNN sở hữu toàn bộ hoặc phần lớn cổ phần
và tham gia tích cực vào việc đề cử Hội đồng quản trị của tất cả các doanh nghiệp; thiết lập hệ
thống báo cáo nhằm giám sát và đánh giá thường xuyên của doanh nghiệp; trao đổi thường
xuyên với cơ quan kiểm toán độc lập và các cơ quan kiểm soát của Nhà nước, khi mức độ sở hữu
và luật pháp cho phép; đảm bảo chính sách thù lao cho Hội đồng quản trị của DNNN thúc đẩy
được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp, có thể thu hút và khuyến khích các chuyên gia có trình độ
cao.”
 Về khả năng cạnh tranh: các doanh nghiệp nhà nước rất yếu kém về khả năng cạnh
tranh. Có nhiều ngành,sản phảm của doanh nghiệp nhà nước đang được bảo hộ tuyệt đối
hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế…)
nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ được khả năng cạnh tranh của
mình, thâm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận chứng để nhà nước tăng cường các

biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần
Khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện Việt Nam đang và sẽ
thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình đất nước sẽ phải chịu chi
phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các doanh nghiệp nhà nước.
 Về cơ cấu doanh nghiệp nhà nước : khu vực doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu còn bất
hợp lí.Cơ cấu ngành, vùng, quy mô còn bất hợp lí đều chưa được chuyển dịch theo hướng
sắp xếp lại.
Ví dụ điển hình về quản lý sai sót của nhà nước nhóm tìm đó là sự sụp đổ của Công
nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin)
Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) thành lập năm 2006, được tổ chức theo mô
hình công ty mẹ - công ty con, hoạt động theo dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
do Chính phủ làm chủ sở hữu 100% vốn điều lệ.
Các dự án gây thiệt hại của vinanshin:
1, Dự án đầu tư xây dựng nhà máy nhiệt điện Sông Hồng (tỉnh Nam Định) là hơn 316,5 tỷ đồng;
2. Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy nhiệt điện Diezel Cái Lân gây thiệt hại hơn 66,5 tỷ đồng;
3. Dự án đầu tư tàu Bình Định Star gây thiệt hại hơn 30,4 tỷ đồng và
4. Việc bán vỏ tàu Bạch Đằng Giang gây thiệt hại hơn 27,3 tỷ đồng.
5, Đặc biệt, Năm 2007, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Vinashin đã làm công
văn, gửi Thủ tướng Chính phủ xin được mua tàu của nước ngoài về khai thác. Tàu Hoa Sen (là
tàu Cartour của Italia, sản xuất năm 2001, được mua với giá 60 triệu Euro tương đương 1.300 tỷ
đồng Việt Nam) đã từng bị thủng đáy trong thời gian khai thác ở Italia. Con tàu này sau khi về
Việt Nam, phải sửa chữa và chỉ chạy được 39 chuyến rồi phải dừng vì càng chạy càng lỗ. tàu
Hoa Sen mỗi năm trả lãi vay gần 80 tỷ đồng. Đây là một trong những phi vụ “đốt” tiền của Nhà
nước lớn nhất trong vụ án “cố ý làm trái” xảy ra tại Tập đoàn Vinashin, khi bỏ hơn 1.000 tỷ đồng
ra mua tàu Hoa Sen, gây thiệt hại gần 500 tỷ đồng.
Số nợ kỷ lục của vinashin
Có thể so sánh như :
Nguyên nhân dẫn đến sự phán sản của vinashin : có chủ quan và khách quan
- Khách quan: do khủng hoảng kt, thị trương đóng tàu và vận tải biển thế giới sụt giảm dột
ngột, ngân hàng thắt chặt cho vay

- Chủ quan: do sự đầu tư dàn trải, thiếu khoa học, do sai lầm quản trị của các cấp quản li,
lãnh đạo. đặc biệt là do sự bao che, chủ quan cảu cấp trên. Trước hết là trách nhiệm của
chính phủ và bộ GTVT, nhưng cơ quan chủ quản của vinashin. Kế toán nhà nước đã
nhiều lần có kế hoạch thanh tra vinashin năm 2008 nhưng hoãn bị lại đến 2009. Nhưng
kế hoạch lại bị hoãn lại đến 2010. Tuy nhiên kế hoạch này lại tiếp tục bị trì hoãn bởi ko
đc phê duyệt. Vinashin xuất hiện dấu hiệu của tôi pham nhưng vẫn đc bao che ch qua
chuyện. nguyên nhân tiếp theo đc chỉ ra là do việc quản lí nhà nước và thưc hiện quyền
sở hữu của chính phủ vs tập đoàn kinh tế ns chung và vinashin nói riêng còn nhiều bất
cập, lung túng. Bộ GTVT chưa phát hiện kịp thời những yếu kém trong hoạt đông và cố ý
làm trái của tập đoàn để chủ động đề nghi các cơ quan chức năng và báo cáo thủ tướng
CP để kịp thời nagwn chặn, xử lí
3. Nguyên nhân của sự yếu kém trong DNNN
 Đầu tư sai : Trong xây dựng mới và cải tạo các doanh nghiệp nhà nước không tính đến
sự biến động của thị trường. Đầu tư sai bắt đầu từ những quyết định thời bao cấp,sự quản
lí của nhà nước không đủ hiệu lực để ngăn chặn tình trạng đầu tư không tính đến thị
trường, không cân đối với nguyên liệu, cũng không tính đến giá thành.Có những ngành
hoặc địa phương vẫn muốn tranh thủ càng nhiều vốn nhà nước càng tốt để xây dựng cho
được những doanh nghiệp không thật cần thiết của nghành mình, địa phương mình, có
khi vì mục đích ngoài kinh tế.
Tình trạng đầu tư sai không tính đến thi trường một phần bắt nguồn từ công tác quy
hoạch.Trong nhiều trường hợp quy hoạch xuất phát từ ý muốn chủ quan,nói là tập trung
mũi nhọ nhưng rồi nghành nào cũng đầu tư, địa phương nào cũng muốn tự túc, tự cấp, có
đủ “cơ cấu kinh tế” theo hướng “công nghiệp hoá”, “hiện đại hoá”, bỏ qua những nguyên
tắc cơ bản của công tác này. Chủ trương đầu tư đã sai ngay từ đầu, công việc xây dựng lại
giao cho ban quản lí dự án kém năng lực và không có trách nhiệm,gây ra chất lượng xây
dựng thấp,vốn đầu tư thất thoát không nhỏ. Tất cả dồn giá thành công trình làm cho
không có giám đốc nào có thể tài giỏi đến mức khắc phục được hậu quả kém hiệu quả và
năng lực cạnh tranh.
 Tình trạng thiếu vốn phổ biến: Doanh nghiệp do nhà nước quyết định thành lập nhưng
không cấp đủ vốn cho sản xuất kinh doanh buộc phải đi vay với lãi suât ngân hàng

 Tình trạng kĩ thuật, công nghệ lạc hậu: phần lớn các doanh nghiệp nhà nước được
trang bị máy móc,thiết bị từ nhiều nguồn khác nhau, có nhiều thiết bị lạc hậu, già cỗi.
 Số lao động dư thừa đang rất lớn
 Doanh nghiệp không được tự chủ được về tài chính: Có thể coi đây là trở ngại rất
quan trọng khiến doanh nghiệp không thể tự chủ kinh doanh.
 Không được chủ động về nhân sự và tiền lương: không chủ động trong việc sắp xếp lại
số lao động, giảm bớt người không phù hợp, tuyển người mới vì nhà nước chưa có đủ các
chính sách phù hợp để giải quyết công ăn việc làm và đời sống của số lao động dư thừa.
Chế độ tiền lương, các thang lương, bậc lương trong doanh nghiệp nhà nước còn nhiều
bất hợp lý giữa khu vực kinh doanh với khu vực hành chính sự nghiệp, giữa doanh
nghiệp các ngành nghề khác nhau và ngay trong nội bộ doanh nghiệp
 Tổ chức, quản lý không phù hợp: mặc dù đã có chủ trương xoá bỏ chủ quan nhưng
hiện đang có quá nhiều cấp, nhiều ngành trực tiếp can thiệp công việc kinh doanh hàng
ngày của doanh nghiệp. Tình trạng phân cấp trên dưới, ngang dọc chưa rõ ràng đã gây ra
tình trạng doanh nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành đang ra sức “tăng cường quản lý”,
công tác thanh tra, kiểm tra chồng chéo gây phiền hà cho doanh nghiệp nhà nước hoạt
động.
 Môi trường kinh doanh chưa hoàn chỉnh: môi trường kinh doanh ở nước ta đang còn
nhiều bất cập, điển hình là hệ thống ngân hàng vẫn còn tình trạng buộc ngân hàng cho
vay theo mệnh lệnh, ngân hàng thụ động không chịu trách nhiệm về hiệu quả vốn cho vay
và thu hồi nợ. Các thị trường yếu tố sản xuất chưa hoàn chỉnh, những thủ tục hành chính,
cơ chế xin-cho và những hành vi nhũng nhiễu của không ít công chức đang gây khó khăn
cho doanh nghiệp.
4. Những vấn đề nổi cộm
4.1 Việc các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam với hơn một nửa các khoản nợ xấu của cả
nước có nguy cơ "nhấn chìm hệ thống ngân hàng" (20.08.2013)
A. Thực trạng nợ xấu của DNNN
Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như hiện này thì vấn đề giải quyết
nợ xấu của các DN ở nước ta là bài toán nan giải nhất trong ngắn hạn. Nợ xấu của DN
được các nhà khoa học bàn thảo nhiều và được xem là nguyên nhân cơ bản gây tắc nghẽn

sự lưu thông lành mạnh của nền kinh tế, gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng và cũng
phản ánh khó khăn của sản xuất kinh doanh của DN nhìn từ góc độ chỉ số hàng tồn kho
tăng cao. Nợ xấu tăng cao đã và đang tác động tiêu cực đến nền kinh tế, cản trở quá trình
tái cơ cấu, nhất là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tái cơ cấu DNNN và làm giảm niềm tin
của người dân vào vai trò quản lý, điều hành của Chính phủ. Theo đánh giá, dự báo của
các tổ chức quốc tế, các chuyên gia kinh tế (JPMorgan Chase, HSBC, Fitch Ratings ),
nợ xấu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cao nếu Chính phủ không có kế hoạch cụ thể nhằm
giải quyết kịp thời, triệt để vấn đề này.
Theo tính toán của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại
đang ở mức 8,6%, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản và chứng khoán; trong đó
nợ xấu tại khu vực DNNN rất lớn. Số liệu của một số nhà khoa học cho thấy khu vực
DNNN hiện đóng góp vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống, trong đó các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Theo Đề án tái cấu trúc khu vực DNNN của Bộ Tài
chính năm 2012 thì dư nợ của 80/96 tập đoàn, tổng công ty nhà nước đến cuối 2010 là
872.860 tỷ đồng, bằng 1,6 lần vốn chủ sở hữu. Tính đến tháng 9/2011, dư nợ vay ngân
hàng của DNNN lớn đạt trên 415.000 tỷ đồng, tương đương gần 17% tổng dự nợ tín dụng
tại các ngân hàng. Trong đó, nợ vay của 12 tập đoàn kinh tế nhà nước lên tới gần 218.740
tỷ đồng, dư nợ lớn nhất thuộc về những DN lớn như Tập đoàn Dầu khí (PVN - 72.300 tỷ
đồng), điện lực (EVN - 62.800 tỷ đồng), than & khoáng sản (Vinacomin - 19.600 tỷ
đồng). Với những con số như trên thì nợ xấu của khu vực tập đoàn, tổng công ty trong hệ
thống ngân hàng sẽ chiếm tới 30-35% tổng dư nợ của khối này.
Một đặc điểm nổi bật là nợ xấu của các DN Việt Nam gắn khá chặt chẽ với khu vực bất
động sản (BĐS). Dư nợ cho khu vực này vay chiếm dưới 16% nhưng các tài sản thế chấp
bằng BĐS cho các khoản vay khác nhau chiếm tới 60-80% tổng giá trị tài sản thế chấp.
Khi thị trường BĐS suy giảm, những khoản nợ xấu, nợ quá hạn được thế chấp bởi BĐS
sẽ rất khó thanh lý. Việc thanh lý mạnh các tài sản thế chấp sẽ tiếp tục khiến giá BĐS
giảm thêm và càng làm trầm trọng thêm tình hình nợ xấu của nền kinh tế. Chính đặc điểm
này khiến cho công tác xử lý nợ xấu của các DN sẽ gặp nhiều trở ngại hơn trong bối cảnh
hiện nay.
Theo số lượng được cung cấp bởi kiểm toán nhà nước :

B. Nguyên nhân khiến nợ xấu của DNNN tăng cao
Thứ nhất, tổ chức, nhân sự và biện pháp quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại còn
nhiều hạn chế, chỉ có khoảng 40% ngân hàng thương mại tiếp cận được chuẩn quốc tế
(Basel 3);
Thứ hai, chạy đua tăng trưởng tín dụng diễn ra trong thời gian dài, luôn trên 20%, thậm
chí lên tới 51,39% (năm 2007), cùng với việc nới lỏng điều kiện cho vay khiến nợ xấu
tăng cao;
Thứ ba, tác động của kinh tế thế giới phục hồi chậm và kinh tế trong nước tăng trưởng
chậm lại làm cho DN gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, hàng tồn kho tăng cao,
không còn khả năng trả nợ ngân hàng. Đối với khu vực DNNN có nợ xấu nhiều là do khu
vực này được hưởng những ưu đãi về tín dụng nên các DNNN có xu hướng sử dụng đòn
bẩy tài chính nhiều hơn các DNkhu vực khác. Tuy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của
DNNN có xu hướng giảm trong những năm gần đây nhưng vẫn ở mức 2,52 lần vào năm
2009, cao hơn nhiều so với mức 1,78 lần của khu vực tư nhân và 1,39 lần của khu vực
vốn FDI. Các DNNN trung ương thậm chí có tỷ lệ này cao hơn, lên tới 3,53 lần.
Thứ tư, sở hữu chéo, đầu tư ngoài ngành của các ngân hàng và DNNN diễn ra phổ biến
đã dẫn tới các khoản cho vay, đầu tư lòng vòng, bất chấp quy định, gây hậu quả nghiêm
trọng;
Thứ năm, một số cán bộ ngân hàng suy thoái đạo đức nghề nghiệp, cấu kết, móc ngoặc
với DN để trục lợi cá nhân và cho vay không đúng quy định;
Thứ sáu, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát còn hạn chế, nhất là không kịp thời phát
hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm quy định về hạn chế cấp tín dụng và đầu tư một số
lĩnh vực rủi ro cao.
C. Giải pháp xử lý nợ xấu tại DNNN
Nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN, góp phần giảm
nợ xấu của các DN, trong thời gian qua, Chính phủ đã triển khai thực hiện một số giải
pháp:
(1) Chính sách miễn giảm thuế, phí (thuế thu nhập DN, thuế giá trị gia tăng, thuế sử dụng
đất ) đã hỗ trợ DN có thêm nguồn lực để duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối
tượng áp dụng rộng rãi, gồm các DN được hưởng lợi trực tiếp và cả các DN được hưởng

lợi gián tiếp thông qua quan hệ mua bán - đầu vào, đầu ra (hơn 200.000 DN được gia hạn
thuế giá trị gia tăng, với số tiền trên 11.000 tỷ đồng; giải quyết nợ thuế thu nhập cho trên
8.200 DN với số tiền 347 tỷ đồng; giảm 50% thuế cho hơn 3.000 DN với số tiền 339 tỷ
đồng; giải quyết thuế môn bài cho hơn 40.000 hộ đánh bắt hải sản ).
(2) Các ngân hàng thương mại đã rà soát các khoản vay, tập trung tín dụng cho các lĩnh
vực ưu tiên, giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ giãn nợ và đơn giản hoá thủ tục vay cho DN có
kết quả kinh doanh và phương án kinh doanh tốt; lãi suất cho vay đối với lĩnh vực ưu tiên
giảm mạnh xuống 13%.
(3) Các bộ, ngành đã xây dựng và triển khai nhiều chương trình xúc tiến thương mại, hỗ
trợ các DN, cơ sở sản xuất, kinh doanh, củng cố, xây dựng và mở rộng thị trường trong
nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế trong nước và kinh tế thế giới,
DN vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn:
(1) DN vẫn khó tiếp cận vốn vay nhất là thời gian cho vay ngắn (3 - 6 tháng); hạn mức
cho vay chỉ đáp ứng 30 - 50% nhu cầu vay của DN. Mặt khác, việc thực thi các cam kết
về giảm, giãn nợ của ngân hàng còn hạn chế do Ngân hàng Nhà nước chưa có hướng dẫn
thực hiện cụ thể và chế tài xử phạt chưa rõ ràng nên nhiều ngân hàng thương mại vẫn đặt
điều kiện khắt khe về tài sản thế chấp, yêu cầu trả nợ cũ;
(2) Các biện pháp xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư đạt kết quả chưa cao, thị trường
tiêu thụ tiếp tục bị thu hẹp, hàng tồn kho tăng cao nhất là hàng nông sản, thực phẩm, công
nghiệp, vật liệu xây dựng , sức mua giảm mạnh;
(3) Chi phí sản xuất tăng và gây khó khăn cho DN trong việc hạ giá thành sản phẩm và
giải quyết hàng tồn kho
Đối với nợ xấu tại khu vực DNNN để giải quyết lại càng khó khăn hơn. Khác với các
DN tư nhân, vốn có thể dễ dàng bán tài sản hoặc nhượng cổ phần cho các DN khác để có
tiền trả nợ ngân hàng nhằm tránh phá sản, các DNNN rất khó có thể bán tài sản hoặc cổ
phần nhà nước theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy thoái. Vì vậy, các khoản nợ
mà các DNNN vay thường phải trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước dưới các
hình thức xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn…
Các hình thức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, từ khoanh nợ (như việc khoanh nợ cho

Vinashin tại các ngân hàng thương mại) thì Chính phủ vẫn phải bỏ một phần tiền ra để bù
đắp; hình thức chuyển nợ (như của Vinashin cho Vinalines và PVN) có thể khiến các
DNNN khác lâm vào khó khăn và cuối cùng gánh nặng lại đè lên vai Nhà nước.
Từ kinh nghiệm thực tế của thế giới cho thấy, để giải quyết vấn đề nợ xấu trong nền kinh
tế phải mất một thời gian khá dài từ 5 đến 10 năm, do vậy đối với Việt Nam, chúng ta cần
phải có một lộ trình mang tính chiến lược cụ thể thì mới có thể giải quyết tận gốc rễ của
vấn đề. Cần xử dụng đa dạng các biện pháp can thiệp, cả vai trò hỗ trợ của Nhà nước và
sự chủ động của các ngân hàng thương mại, trong sự phối hợp với các DN:
- Tăng cường vai trò điều tiết, quản lý, điều hành của Chính phủ với mục tiêu chủ yếu là
ổn định kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh của các DN.
- Theo kinh nghiệm nhiều nước, cần lập Ủy ban Nhà nước xử lý nợ, có sự tham gia của
NHNN, Bộ Tài chính và các cơ quan giám sát khác nhau, tạo điều kiện cho Nhà nước chủ
động can thiệp để hỗ trợ thị trường. Cần quan trọng nhất là công khai minh bạch quá
trình xử lý này, với sự chỉ đạo thống nhất, tránh bị lợi dụng, từng bước đạt chuẩn nợ xấu
theo thông lệ quốc tế. Hình thành công ty mua bán nợ xấu quốc gia, có chức năng, nhiệm
vụ xử lý nợ xấu thông qua hoạt động mua bán hoặc chứng khoán hoá tài sản xấu của các
DN. Các công ty này sẽ xác định tổng tài sản xấu cần xử lý, xác định giá trị thị trường tài
sản xấu, xây dựng phương án thực thi, tìm kiếm đối tác và tiến hành thanh lý; có thể
chuyển quyền chủ nợ đối với DN (nằm trong danh mục nợ xấu) thành quyền cổ đông của
DN, sau đó chuyển nhượng cổ phần để thu về tiền mặt; các khoản nợ tại khu vực DNNN
có thể chuyển hoàn toàn sang cho công ty mua bán nợ này. Khi đó, bằng các giải pháp tập
trung, công ty mua bán nợ quốc gia có thể dễ dàng trao đổi với bên chịu trách nhiệm tái
cấu trúc các DNNN để xử lý các khoản nợ này theo hướng bán các gói nợ cho các tổ
chức tín dụng hoặc chuyển đổi các gói nợ thành cổ phần.
- Các ngân hàng sử dụng các công cụ dự phòng của mình, cũng như việc tái cơ cấu DN
và ngân hàng để có tình trạng nợ xấu được lành mạnh hơn, vấn đề này có thể xử lý để
giảm nhẹ một phần tình trạng nợ xấu; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các
ngân hàng thương mại nhỏ, yếu kém hợp nhất, sáp nhập với các ngân hàng lớn, sử dụng
tiềm lực tài chính của các ngân hàng lớn để xử lý nợ xấu.
- Cần nắm chắc tình trạng nợ xấu với số liệu chính xác để xử lý đúng thực tế bằng các

giải pháp kịp thời, sát thực (số liệu của hệ thống ngân hàng còn có sự khác biệt lớn giữa
báo cáo của các DN, đánh giá của NHNN và đánh giá của Ủy ban Giám sát Tài chính
Quốc gia và các chuyên gia, các tổ chức quốc tế).
- Tranh thủ sự ủng hộ của các định chế tài chính và tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong và
ngoài nước tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu. Tham vấn kinh nghiệm của các định chế
tài chính lớn (IMF, WB ) trong quá trình cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, đồng
thời tranh thủ nguồn vốn của các tổ chức này nhưng không chấp nhận điều kiện ràng
buộc để tránh sự tác động, can thiệp vào các quyết sách điều hành kinh tế; yêu cầu các
ngân hàng thương mại công bố cụ thể nợ xấu và khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân góp
vốn hoặc tham gia đấu thầu, thanh lý tài sản đảm bảo của các ngân hàng yếu kém để thu
hồi tiền mặt; cho phép ngân hàng thương mại bán trực tiếp các khoản nợ xấu cho nhà đầu
tư nước ngoài: nới rộng giới hạn sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng
trong khoảng thời gian nhất định (từ 10 đến 20 năm), nhưng yêu cầu phải giảm dần tỷ lệ
sở hữu trong các năm tiếp theo thông qua việc bán lại cổ phần cho cổ đông trong nước.
4.2 Việc cổ phần hóa DNNN
A. Khái quát về cổ phần hóa DNNN
1. Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước :
Việc giảm bớt quyền sở hữu và quyền kiểm soát của Chính phủ có thể thông qua nhiều biện
pháp và phương thức khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là biện pháp cổ phần hoá .
Xét về mặt hình thức, cổ phần hoá là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần
của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước hoặc cho
cán bộ quản lí và công nhân của xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường
chứng khoán để hình thành các công ty TNHH hoặc công ty cổ phần .
Xét về mặt thực chất, cổ phần hoá chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển
hình thái kinh doanh làm chủ với sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần
với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và
đáp ứng được nhu cầu của kinh doanh hiện đại.
Như vậy, trong phần nghiên cứu kinh nghiệm cổ phần hoá, chúng ta thường chỉ đề cập đến quá
trình giảm bớt sở hữu Nhà nước và các biện pháp cổ phần hoá toàn bộ hay từng phần đối với các
doanh nghiệp Nhà nước .

2. Sư cần thiết của cổ phần hóa:
2.1/. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước trước khi cổ phần hóa :
Do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm
nên các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có đặc trưng khác biệt so với nhiều nước trong khu
vực và trên toàn thế giới.
Biểu hiện :
_ Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện ở số lượng lao động và
mức độ tích lũy vốn. Theo báo cáo của bộ tài chính về các chỉ tiêu chủ yếu năm 1992, số lao
động trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm một tỉ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động
xã hội 5-6%.
_ Trình độ kỹ thuât-công nghiệp lạc hậu. Theo báo cáo điều tra bộ khoa học-công nghệ và môi
trường thì trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước của Việt Nam kém các nước từ
3- 4 thế hệ. Mặt khác, đại bộ phận doanh nghiệp Nhà nước còn thiếu tính đồng bộ do được xây
dựng bằng kĩ thuật của nhiều nước khác nhau. Vì vậy khi chuyển sang kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp nhà nước khó có khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế.
_ Việc phân bố còn bất hợp lí về ngành và vùng. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, trước sự
biến đổi về mặt và sự cạnh tranh quyết liệt nên nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây chúng ta đã tiến hành cải cách doanh nghiệp Nhà nước với sự đổi mới
về tổ chức quản lý về kỹ thuật và công nghệ của các doanh nghiệp còn lại, tổng giá trị sản phẩm
tuyệt đối của kinh tế Nhà nước cũng như tỉ trọng trong tổng sản phẩm (GDP)không những không
giảm mà còn tăng lên đáng kể . Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã
tăng nhanh, đồng thời các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nhiều ngành
kinh tế và vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ yếu cho ngân sách Nhà nước . Nói chung, hầu
hết các doanh nghiệp Nhà nước của ta hình thành thời quản lí tập chung bao cấp, khi chuyển
sang cơ chế mới lại thiếu kiểm soát chặt chẽ việc thành lập nên phát triển tràn lan .Một bộ phận
quan trọng doanh nghiệp Nhà nước không đủ điều kiện tối thiểu để hoạt động, thiếu vốn trang bị
quá đơn sơ…Sau 10 năm đổi mới, tuy nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến nhưng nhìn chung
các doanh nghiệp Nhà nước vẫn rất khó khăn, hiệu quả kinh doanh còn thấp, tình trạng mất và
thất thoát lớn về vốn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng, viêc quản lý đối với doanh nghiệp Nhà
nước còn quá yếu kém…làm tình trạng phân hóa, chênh lệch trong thu nhập ngày càng tăng .

2.2/. Sư cần thiết của cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước:
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước có vai trò vô cùng to lớn trong việc đổi mới nghiệp Nhà
nước nhất là ở những nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Tác dụng của cổ phần hóa thể hiện ở một số khía cạnh sau đây :
_ Cổ phần hóa có tác dụng làm cho sở hữu trong doanh nghiệp trở nên đa dạng hơn. Chính vì
vậy, nó giải quyết triệt để vấn đề vướng mắc về hiệu quả và sự kém năng động trong sản xuất
kinh doanh .
_ Cổ phân hóa có tác dụng trong việc xã hội hóa tư liệu sản xuất trong các doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu một chủ. Điều này tạo ra sự tương thích nhất định của các giải pháp quản lí vĩ mô
và vi mô .
_ Cổ phần hóa tạo cho những người lao động cơ hội thực sự làm chủ doanh nghiệp nếu như họ
muốn. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính chủ động, tích cực của người lao
động trong các vấn đề của doanh nghiệp cũng như các vấn đề Kinh tế-Chính trị xã hội của đất
nước . Những tác động to lớn mang tính phổ biến trên của cổ phần hóa đương nhiên đúng với
giảI pháp cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành. Ngoài
ra, cổ phần hóa còn có những tác động đến tăng trưởng kinh tế, tới vấn đề dân chủ hóa đời sống,
tới xã hội…
Chính vì vậy, trong bối cảnh của Việt Nam, những tác động này của cổ phần hóa còn phát huy
tác dụng lớn hơn nên nó rất cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam vì thực trạng của doanh
nghiệp Nhà nước Việt Nam đang đòi hỏi phải cải cách triệt để, trong lúc đó nhiệm vụ đặt ra là
không được làm mất đi vai trò chủ đạo của chúng .
B. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua:
1/. Tính phổ biến của quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước:
Bị ảnh hưởng của quá trình cổ phần hóa ở các nước có nền kinh tế thị trường và chủ yếu phải
đối phó với các vấn đề tăng trưởng cũng như mọi sức ép khác…các nước đang phát triển, cụ thể
là Việt Nam cũng gia nhập vào xu hướng cổ phần hóa đang diễn ra phổ biến trên thế giới. Nếu
quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở nhiều nước tư bản, đang phát triển nhằm
vào việc thu hẹp sự can thiệp trực tiếp, kém hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước và trao lại
quyền đó cho thị trường và khu vực tư nhân thì đối với các nước CNXH, cũng như Việt Nam,

trên cơ sở nền kinh tế chỉ huy, dưới chính thể mới, vấn đề chuyển đổi sở hữu nhanh chóng và
rộng lớn vừa để cải thiện hiệu quả kinh tế và năng động các hoạt động kinh doanh vừa từng bước
để khắc phục sự yếu kém trong kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Quá trình chuyển
giao quyền kiểm soát một cách rộng rãi các hoạt động trong công nghiệp, dịch vụ thương mại…
trước đây do các doanh nghiệp Nhà nước gánh vác sang cho các công ty cổ phần tư nhân hoặc
công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nước-tư nhân cho phép Nhà nước tập trung vào việc sắp xếp lại
trật tự hoạt động của các quan hệ kinh tế thị trường một cách hợp lí hiệu quả hơn .
2/. Thực trang của cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua :
2.1/. Thành tựu :
_ Tính đến cuối tháng 11 năm 2002, cả nước đã có 907 doanh nghiệp được cổ phần hóa, chiếm
88% số doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện chuyển đổi sở hữu và đạt 86% dự kiến. Trong 10
tháng của năm 2003, trong số 766 doanh nghiệp Nhà nước thực hiện việc chuyển đổi thì có 425
doanh nghiệp cổ phần hóa. Càng về sau, tốc độ cổ phần hóa của các doanh nghiệp Nhà nước
càng được phát triển.
_ Việc thực hiện các chính sách về cổ phần hóa đã làm cho nền kinh tế phát triển vượt bậc. Qua
báo cáo đã có 500 doanh nghiệp cổ phần hóa có chuyển biến tích cực trong hệ quả sản xuất kinh
doanh . Nói chung, các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam sau khi được cổ phần hóa đều hoạt
động hiệu quả hơn. Do đó, thu hút được nhiều nguồn vốn và lực lượng lao động, tạo việc làm,
đảm bảo đời sống ổn định cho người lao động .
Theo thời báo kinh doanh thì :
2.2/. Hạn chế, khó khăn, trở ngại cần giảI quyết và khắc phục :
_ Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam là khu vực tư nhân nhỏ
bé và yếu ớt. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triểm
của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là
phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự long
tong cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn, làm cho việc tiến hành cổ phần hóa ở nước ta
diễn ra chậm chạp và trong khoảng thời gian dài .
_ Sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự, trong đó có thị trường chứng khoán. Mà thị
trường này là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần. Sự thiếu vắng
của nó đi liền với sự thiếu vắng hệ thống pháp lí và tổ chức vận hành đã gây khó khăn và cản trở

cho quá trình cổ phần hóa. Đó là việc định giá doanh nghiệp để cổ phần hóa được phát hành lưu
thông cổ phiếu, việc mua bán chuyển nhượng cổ phiếu…
Tóm lại, đây là hai yếu tố quan trọng gây khó khăn và cản trở đến việc thực hiên cổ phần hóa các
doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số yếu tố khác cũng góp phần không nhỏ gây khó khăn và cản trở
cho việc cổ phần hóa :
_ Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của Nhà nước về luật pháp, thuế khóa, tiền tệ …chứa
đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người muốn đầu tư lâu dài. Sự đổi mới của hệ thông ngân
hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm trễ so với đòi hỏi của cơ chế thị trường…là những
yếu tố gây bất lợi cho đầu tư trong nước và do đó gây bất lợi cho quá trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp Nhà nước.
_ Các doanh nghiệp Nhà nước hầu hết có trang bị máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu khả năng
cạnh tranh thấp…Do đó khó có thể tiến hành tốt cổ phần hóa cho các doanh nghiệp này .
_ Về tư tưởng và tâm lí , đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này. Vì
vậy về mặt suy nghĩ nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lí Nhà nước vẫn chưa có những
tiếp thu tiến bộ và cái nhìn tích cực về cổ phần hóa. Đó là những trở ngại chủ quan không thể
không được tiến đến trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước .
_ Nhà nước ta còn thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt các vấn đề liên
quan đến tiến trình cổ phần hóa như các khoản trợ cấp, các khoản chi phí đào tạo… Những
khoản phí tổn này là không thể bỏ qua được và thường rất lớn.
_ Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Điều này gây nhiều
trở ngại cho việc đánh giá giá trị của doanh nghiệp, tình hình và triển vọng của hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp được cổ phần hóa và do đó gây khó khăn cho việc cung cấp những
thông tin chung thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu đối với những
doanh nghiệp này .
C. Quan điểm và giảI pháp của đẩy mạnh cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước
Việt Nam trong thời gian tới :
1/. Một số quan điểm cơ bản trong tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước :
_ Quan điểm thứ nhất : Việc lựa chọn những doanh nghiệp để chuyển thành các công ty cổ phần
phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và sắp xếp lại các

doanh nghiệp Nhà nước
. _ Quan điểm thứ hai : Việc lựa chọn các doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hóa thuộc quyền và
chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu chứ không tùy thuộc vào ý kiến của giám
đốc và tập thể lao động trong doanh nghiệp. Nguyên tắc này được nêu ra làm cơ sở cho các cơ
quan chủ quản của Nhà nước phân loại các doanh nghiệp do mình quản lí .
_ Quan điể thứ ba : Cần xác định các mục tiêu chủ yếu và cụ thể đối với tong doanh nghiệp
được lựa chon cổ phần hóa dựa trên bảng cân đối tàI sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp .
_ Quan điểm thứ tư : Mọi tài sản của doanh nghiệp đều thuộc sở hữu Nhà nước, trừ quỹ phúc lợi
xã hội của tập thể là phần tiền lương không thể chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp cùng hưởng. Xác định quan điểm này để bảo đảm việc chống lại sự phân tán tài
sản của Nhà nước và phân phối không công bằng trong quá trình chuyển đổi sang hình thức
thông tin cổ phần .
_ Quan điểm thứ năm : Việc xác định giá trị của doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hóa phải chú
ý đến cả hai yếu tố cấu thành: Giá trị hữu hình và giá trị vô hình .
_ Quan điểm thứ sáu : Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được chọn cổ phần hóa
cần thực hiện công khai, rõ ràng, dễ hiểu đối với tất cả mọi người .
_ Quan điểm thứ bảy : Để thực hiện thành công chương trình cổ phần hóa, Nhà nước không chỉ
chú ý đến thu hồi vốn mà còn phải biết chấp nhận một khoản phí tổn nhất định. Đó là những
khoản phí tổn cần thiết mà ở nước nào cũng có như chi phí bảo hiểm, các khoản trợ cấp…
_ Quan điểm thứ tám : Theo tinh thần quyết định 202-HĐBT thì các doanh nghiệp đã được cổ
phần hóa sẽ phải hoạt đông jtrong khuôn khổ luật công ty cả về hình thức tổ chức quản lí lẫn
hoạt động tài chính. Vì vậy cần phải co điều lệ và quy chế hoạt động, tuân thủ theo các quy định
của luật công ty .
_ Quan điểm thứ 9 : các doanh nghiệp được lựa chọn để cổ phần hóa cần phảicó sự giải quyết rõ
ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ
phần .
2/. Các giải pháp cụ thể :
2.1/. Ban hành đồng bộ và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật: Trong nền kinh tế thị trường hiện đại,
tất cả mọi hoạt động kinh tế đều phải chịu sự định chế của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật đó

là các bộ luật và các văn bản dưới luật có ý nghĩa như là những điều kiện để xác lập và ổn định
các mối quan hệ kinh tế ở tầm vĩ mô, tạo ra khuôn khổ pháp lí cho sự hoạt động của các đơn vị
kinh tế. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hoạt động theo mô hình công ty cổ phần
không thể thực hiện được nếu Nhà nước không tạo lập được mô hình pháp lí cần thiết làm điều
kiện cơ sở cho quá trình này. Trong vấn đề này, Nhà nước nên có sự nghiên cứu và ban hành một
bộ luật đặc biệt để làm cơ sở căn bản cho quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đó là
luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước. Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước ban hành sẽ khẳng định sự
cam kết của Nhà nước đi theo con đường phát triển nền kinh tế thị trường, tạo những điều kiện
pháp lí cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng thực hiện một cách
yên tâm công cuộc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước với quy mô rộng lớn, khó khăn và
lâu dài của Nhà nước . Nói chung, những văn bản pháp lí, những hệ thống pháp luật luôn tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình đẩy mạnh và phát triển cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà
nước.
2.2/. Từng bước xây dựng thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán : Trên thực tế, thị
trường chứng khoán là điều kiện cho sự ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần. Để tiến tới
xây dựng thị trương chứng khoán trong nước cần chuẩn bị một số điều kiện nhất định đó là : _
Nhà nước phải gấp rút xây dựnh bộ luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán
lám cơ sở pháp lí cho sự ra đời và hoạt động của loại thị trường này. _ Xây dựng hệ thống kiểm
toán độc lập và có những văn bản luật quy định vai tròn chức năng, quyền hạn và trách nhiệm
hoạt động của tổ chức này . _ Đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm đến mọi đối tượng và thành lập các
công ty bảo hiểm như là một tổ chức tàI chính quan trọng. _ Củng cố, đổi mới hoạt động của các
ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển và các quỹ tín dụng…Nhà nước cần thành
lập một công ty tài chính quốc gia có trách nhiệm quản lí, sử dụng và kinh doanh nguồn vốn
thuộc sở hữu Nhà nước.
2.3/. Tạo lập môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển công ty cổ phần : _ ổn định
tiền tệ giảm tốc độ lạm phát là điều kiện quan trọng nhất . _ Đưa ra các chính sách tài chính cụ
thể . _ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện vai trò điều tiết quản lí vĩ mô về mặt tiền tệ. _
Tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm toán . _ Hình thành thị trường chứng khoán để tác động
tích cực góp vốn đầu tư phát triển công ty cổ phần . _ Đổi mới và hoàn thiện phương pháp hạch
toán và hệ thống kế toán . _ Tạo ra sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước và công ty

cổ phần. _ Lựa chọn doanh nghiệp Nhà nước và loại hình công ty cổ phần để có cổ phần hóa . _
Định giá cổ phiếu và mức đọ bán cổ phần, cổ phiếu . _ Đào tạo bồi dưỡng để có đội ngũ cán bộ
có trình độ chuyên môn giỏi .
2.4/. Thành lập một cơ quan Nhà nước có quyền lực để thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước : Thực tiễn quá trình cổ phần hóa ở các nước cho thấy nước ta cần gấp rút thành lập một cơ
quan Nhà nước có đủ thẩm quyền với tập hợp của các chuyên gia, am hiêu về các lĩnh vực như
tài chính, ngân hàng, luật pháp…để chỉ đạo và điều hành có kết quả chương trình cổ phần hóa
đầy khó khăn và phức tạp .
Qua sự phân tích về vai trò và tác dụng của cổ phần hóa trong các doanh nghiệp Nhà nước,
chúng ta đã thấy được tầm quan trọng trong việc đẩy mạnh và phát triển các công ty cổ phần.
Tuy trước mắt còn nhiều khó khăn và thách thức nhưng Đảng và Nhà nước ta đã có những chính
sách và những giải pháp cụ thể có hiệu quả trong việc phát triển nền kinh tế thị trường đinh
hướng XHCN dưới hình thức cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó với sự phát
triển của nền kinh tế trong khu vực và trên toàn thế giới cũng mở ra rất nhiều cơ hội và thuận lợi
cho nền kinh tế Việt Nam ta phát triển . Điều quan trọng nhất là chúng ta phải thực hiên tốt hơn
nữa những chính sách và những giải pháp đã đề ra để có được những thành tựu tiến bộ tích cực
về khoa học công nghệ-kỉ thuật,về những cải cách cơ chế quản lí, điều tiết nền kinh tế một cách
phù hợp, khắc phục những hạn chế và khó khăn còn cản trở phối hợp một cách thống nhất hiệu
quả hoạt động từ cấp Trung ương đến cấp địa phương nhằm đưa nước ta trở thành một quốc gia
phát triển vững mạnh so với các nước trong khu vực và so với các nước trên toàn thế giới .
4.3 Tồn tại sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý và sở hữu của chính phủ
 Từ 1/7/2010, toànbộcác DNNN Việt Nam phải chuyển thành công ty cổ phần,
công ty TNHH hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đòi hỏi chủ sở hữu nhà nước
phải hoạt động như những chủ sở hữu đích thực và chuyên nghiệp tạo điều kiện
cho DNNN hoạt động một cách tự chủ theo quy định của pháp luật, có hiệu quả
cao và phù hợp với các yêu cầu của các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế củaViệt
Nam
 Hơn nữa, nhiều đối tác quốc tế vẫn chưa công nhậnViệt Nam có nền kinh tế thị
trường đầy đủ.Một trong những lý do đó là vấn đề liên quan đến khu vực DNNN.
Mặc dù đã có những bước cải cách, đổi mới không ngừng về khung pháp lý và cơ

chế, chính sách đối với các DNNN trong nhiều năm qua và điều chỉnh vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế.
 Tuy nhiên hiện nay các cơ quan quản lý nhà nướcViệt Nam (Chínhphủ, cácbộ,
UBND cấptỉnh) vẫn đồng thời làm đại diện chủ sở hữu DNNN. Điều này dẫn đến
lẫn lộn giữa vai trò quản lý hành chính với vai trò chủ sở hữu của nhiều cơ quan
nhà nước.Hậu quả là quản lý nhà nước đối với DNNN bị méo mó, tạo ra sự phân
biệt đối xử giữa DNNN với doanh nghiệp ngoài nhà nước. Bộ máy và cán bộ
quản lý nhà nước không chuyên nghiệp,vừa không đáp ứng mục tiêu thiết lập một
nền hành chính chuyên nghiệp, vừa không hiệu quả trong quản lý, giám sát hoạt
động kinh doanh của DNNN.
Nếu ví xã hội như một con thuyền, thì Chính phủ chỉ nên làm người cầm lái. Nếu Chính phủ trực
tiếp làm người chèo thuyền thì bộ máy Chính phủ sẽ cồng kềnh còn xã hội dân sự sẽ yếu và bị
động. Thời đại hội nhập và kinh tế thị trường đang đòi hỏi Chính phủ phải tái cơ cấu làm sao để
có bộ máy vừa gọn nhẹ vừa linh hoạt, Chính phủ trở về đúng với chức năng chính của mình là
hoạch định chính sách, những công việc còn lại phải giao cho xã hội dân sự gánh vác.
Chính phủ sẽ được tái cơ cấu như thế nào ? Những bộ nào sẽ được sáp nhập lại
với nhau? Chính phủ có bao nhiêu bộ là vừa? Nhiệm vụ, chức năng của các bộ và
cơ quan ngang bộ sẽ thay đổi như thế nào? Rất nhiều câu hỏi như vậy đang được
dư luận chú ý quan tâm.Tuy nhiên, Chính phủ là một bộ máy, chuyện thiết kế lại
bộ máy đó, thay thế những chi tiết mới, hoàn thiện hóa quy trình vận hành… là
công việc không hề đơn giản.
III. Vai trò của chính phủ trong điều tiết và quản lý DNNN
Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước tuy đạt được những kết quả quan trọng, nhưng còn những
tồn tại, hạn chế, yếu kém, chưa phát huy trên thực tế vai trò nòng cốt trong khu vực kinh tế nhà
nước. Năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp. Hiệu quả đóng góp cho xã hội
của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực doanh nghiệp nhà nước đang nắm
giữ. Kết quả tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước còn khiêm tốn, còn lúng túng trong xây dựng thể
chế và mô hình đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước; cơ chế quản trị chưa đáp ứng
các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế, bất cập

Để phát huy vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước cần có sự quản lý, điều tiết của
Chính phủ.
• Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và bán vốn mà nhà nước không cần nắm
giữ theo nguyên tắc thị trường.
• Tách bạch nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Hoàn thiện cơ
chế và mô hình thực hiện quyền sở hữu nhà nước và đại diện chủ sở hữu nhà nước tại
doanh nghiệp.
• Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu. Hoàn thiện khung khổ pháp luật,
cơ chế, chính sách đầu tư, quản lý vốn nhà nước trong doanh nghiệp.
• Kiện toàn đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp
nhà nước. Thực hiện công khai, minh bạch kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước
• Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lí doanh nghiệp nhà nước theo hướng xoá bỏ triệt để bao cấ
p ,doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chiu trách nhiệm về sản xuất,kin
h doanh,nộp đủ thuế của nhà nước với doanh nghiệp.
• Sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách để ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước trong quá
trình cổ phần hoá.Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lí có vốn nhà nước sau cổ phần hoá.
• Khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp ,đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước
theo hướng hình thành các loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu lá các
công ty cổ phần.
• Thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh hoạt động đ
a ngành, đa lĩnh vực ,sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối.
• Đổi mới và tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật cho doanh nghiệp nhà nước nhằ
m nâng cao năng suât chất lượng, hiệu quả của kinh tế nhà nước.Các doanh nghi
ệp nhà nước phải đi tiên phong trong các công trình trọng điểm có
vốn đầu tư lớn ,lâu hoàn lại.
• Đẩy mạnh và mở rộng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhàm tạo động lực
mạnh mẽ và cơ chế quản lí năng động để sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, đồng thời thu
hút mạnh các nguồn lực trong và ngoài nước.
• Đặt các doanh nghiệp có vốn đầu nhà nước và môi trường hợp tác và cạnh tran

h bình đẳng với các doanh nghiệp khác để nâng cao hiệu quả
IV. Kiến Nghị
V. Nguồn tài liệu tham khảo
1. Wikypedia tiếng việt
2. Luật doanh nghiệp nhà nước
3. Các số liệu Tổng cục Thống kê
4. Tạp chí kinh tế phát triển, tạp chí tài chính
ĐÁNH GIÁ CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
Mọi thành viên đều tha gia vào quá trình hoạt động nhóm,bổ sung, đóng dóp ý kiến.
Họ và Tên Nội dung Đánh giá
Đặng Thị Ngoan Nhóm Trưởng,tổng hợp,bổ
sung,làm bản word
Vũ Thị Quỳnh Như Tìm hiểu khái quát về thục
trạng DNNN
Phan Thị Trang Tìm hiểu khái quát về thục
trạng DNNN
Đỗ Thị Phương Anh Vai trò của chính phủ,Thuyết
trình
Trúc Lẫn lộn giữa vtro sở hữu và
vai trò quản ly cuả cphu
Chung Thị Minh Phượng Làm slide
Nguyễn Thị Hương Quỳnh Lý do thành lập DNNN
Lê Thị Oanh Ví dụ về vinashin
Ngô Thị Phương Lý luân chung

×