Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN: SỬ DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG DÂN GIAN NHẰM KÍCH THÍCH HỨNG THÚ CHO HỌC SINH KHI HỌC MÔN THỂ DỤC Ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.62 KB, 13 trang )

1. Tên sáng kiến:
SỬ DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG DÂN GIAN NHẰM KÍCH
THÍCH HỨNG THÚ CHO HỌC SINH KHI HỌC MÔN THỂ DỤC.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Áp dụng với bộ môn thể dục trung học cơ sở
3. Thời gian áp dụng
- Từ ngày 5 tháng 9 năm 2013 đến ngày 10 tháng 15 năm 2013
4. Tên tác giả :
Họ tên: Nguyễn Văn Tiến
Năm sinh: 1979
Nơi thường trú : Hải Phương – Hải Hậu – Nam Định
Trình độ chuyên môn : Đại học TDTT
Chức vụ công tác : Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THCS Hải Sơn
Địa chỉ liên hệ : Xóm 10 – Hải Phương - Hải Hậu – Nam Định
Điện thoại : 0983.510.782
5. Đồng tác giả
Họ tên:
Năm sinh:
Nơi thường trú:
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ công tác:
Nơi làm việc:
Địa chỉ liên hệ:
Điện thoại
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến
Tên đơn vị : Trường THCS Hải Sơn
Địa chỉ : Hải Sơn- Hải Hậu – Nam Định
Điện thoại : 03503.874.223
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến.
Trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục đăng trên báo Cứu quốc (ngày


27/3/1946) Bác Hồ đã nêu rõ: “Ngày ngày tập luyện thì khí huyết lưu thông, tinh
thần đầy đủ để gìn giữ dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới ” Khái
niệm đầy đủ này mãi tới năm 1978 trong bản tuyên ngôn Alma Ata, tổ chức y tế
thế giới của Liên hợp quốc (WHO) mới thể hiện rõ hơn trong định nghĩa: Sức
khoẻ không chỉ là không bệnh tật, mà còn là trạng thái không hoàn toàn thoải
mái về thể chất, tinh thần và xã hội.
Giáo dục thể chất là một quá trình giáo dục nhằm hoàn thiện thể chất về
mặt hình thái, chức năng của cơ thể con người, củng cố những kỹ năng, kỹ xảo
vận động cơ bản quan trọng trong đời sống cùng những hiểu biết liên quan đến
kỹ năng, kỹ xảo đó. Ngoài ra giáo dục thể chất còn là một trong những mục tiêu
của nền giáo dục toàn diện nhằm bảo vệ, tăng cường sức khỏe cho các đối tượng
tham gia nhất là học sinh, sinh viên đồng thời thông qua quá trình giáo dục thể
chất có thể rèn luyện các phẩm chất đạo đức, tính tích cực, tự giác, tinh thần
đoàn kết trong học tập, ý chí tác phong cho người học. Góp phần tích cực vào
nâng cao chất lượng từng bước hoàn thiện nhân cách cho học sinh để các em có
thể tham gia vào lao động sản xuất, bảo vệ và xây dựng đất nước, giáo dục lòng
yêu nước, tự hào dân tộc, uy tín quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, hợp tác hữu
nghị giữa các dân tộc nâng cao sức khỏe tinh thần, làm phong phú đời sống văn
hóa, văn minh chung của toàn nhân loại.
Thực hiện mục tiêu chung của hệ thống thể dục thể thao Việt Nam góp
phần đào tạo thế hệ thanh thiếu niên phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức. Dựa trên cơ sở học
thuyết Mac - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu của sự phát triển
toàn diện về thể chất và tinh thần cho những người lao động, về sự thống nhất
giữa năm mặt giáo dục Cộng Sản Chủ Nghĩa là đức, trí, thể, mỹ và giáo dục lao
động, chính vì thế cứ mỗi bước ngoặt của cách mạng Đảng . Chính phủ ta đều
đưa ra những chỉ thị, nghị quyết đề ra định hướng, mục tiêu hướng dẫn tổ chức
hoạt động thể dục thể thao cho phù hợp.
Ngày 02/10/1958 ban bí thư TW Đảng đã ra chỉ thị 106/CT-TW khẳng
định: “Dưới chế độ chúng ta chăm sóc sức khỏe nhân dân, tăng cường thể chất

của nhân dân được coi là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và chính phủ, công tác
thể dục thể thao là một phương pháp rất quan trọng có hiệu quả để tăng cường
lực lượng lao động và giáo dục quốc phòng của cán bộ và nhân dân ta, tăng
cường dũng khí và nghị lực của mỗi người dân, tăng cường sức đề kháng của
nhân dân ta, chống bệnh
tật, chống vi trùng. Hơn nữa vận động thể dục thể thao còn là một trong những
phương pháp để giáo dục nhân dân về tính tổ chức, tính kỷ luật, đoàn kết đông
đảo quần chúng xung quanh Đảng và chính phủ”.
Đối tượng học sinh nói chung và tuổi học sinh THCS nói riêng, tính vui
tươi, hồn nhiên, hiếu động là không thể thiếu được trong các em. Đặc biệt là mặt
tâm sinh lý của các em có nhiều thay đổi lớn. Vì vậy, trong môn thể dục không
nên theo khuynh hướng thể dục đơn thuần, máy móc, gây cho các em sự mệt
mỏi, căng thẳng, nhàm chán, dẫn đến phản tác dụng rèn luyện mà phải kích
thích, tác động đến hoạt động toàn diện cả về mặt tâm sinh lý ở các em, tạo nên
sự hứng thú, giúp các em ham thích, tập luyện tốt hơn đồng thời giáo dục đạo
đức và ý chí tập luyện cho học sinh là động lực để các em trở thành con người
mới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mặt khác, trong thực tế môn học thể dục có nhiều đối tượng học sinh khác
nhau: Có em có sức khoẻ tốt, có em sức khoẻ yếu, có em có tật bẩm sinh…vì
thế, làm thế nào với những em không phải đứng nhìn các bạn tập luyện mà thèm
muốn vận động và ham thích được cùng tham gia hoạt động với các bạn. Dựa
trên nền tảng giáo dục thể chất và những phương pháp được sử dụng hợp lý có
tác dụng quan trọng đến đối tượng tập luyện kích thích hay động viên, bài tập
chức năng để cho các em có thể tập luyện nâng cao sức khoẻ, phục vụ tốt cho
việc học tập và hình thành nhân cách cho học sinh.Với những yêu cầu cấp bách
trên, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến:
“SỬ DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG DÂN GIAN
NHẰM KÍCH THÍCH HỨNG THÚ CHO HỌC SINH KHI HỌC MÔN THỂ DỤC”
II. THỰC TRẠNG
1. Thực trạng giảng dạy môn thể dục hiện nay:

Chương trình giảng dạy môn thể dục có nhiều nội dung, song do nhiều
điều kiện như: Sân bãi, dụng cụ, ý thức, địa hình…đã ảnh hưởng trực tiếp đến
công tác giảng dạy trong khâu tổ chức và giáo dục. Có nhiều môn thể thao được
quy định trong chương trình học nhưng không tiến hành giảng dạy do thiếu sân
bãi, dụng cụ, trình độ thể lực học sinh…chính vì thế sẽ tạo ra sự nhàm chán và
ức chế khi học. Vì vậy việc áp dụng phương pháp trò chơi lồng ghép vào giờ
học thể dục sẽ tạo hứng thú cho học sinh khi học thể dục, lôi cuốn các em tham
gia học tập tích cực và hăng hái. Có như thế giờ học thể dục mới đạt kết quả cao
và công tác giáo dục thể chất sẽ thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của
mình đó là tăng cường sức khoẻ và phát triển các tố chất thể lực.
2. Thực trạng học tập của học sinh khi học môn thể dục hiện nay:
- Trình độ học sinh không đồng đều.
- Kỹ thuật một số động tác khó, học sinh mới tiếp xúc rất bỡ ngỡ và thụ động,
không hứng thú.
- Điều kiện học sinh nhà ở xa trường nên gây khó khăn cho học sinh khi đi học.
- Cơ sở vật chất ở các trường còn hạn chế.
Để kiểm chứng thực trạng trên, năm học 2013-2014 tôi cho học sinh thực
hiện nội dung chạy 100m
Trước khi chưa sử dụng phương pháp tôi nghiên cứu trên đối tượng học
sinh khối 8 gồm: 8A, 8B tổng số 84 học sinh
Kết quả:
Khối
Số
lượng
HS
Kết quả
ĐẠT(Giỏi) Đ ẠT(Khá) Đ ẠT C Đ
Sl Tỉ lệ% Sl Tỉ lệ% Sl Tỉ lệ% Sl Tỉ lệ%
8A 43 4 9,3% 10 23,2% 25 58,1% 4 9,3%
8B 41 2 4,8% 9 21,9% 24 58,5% 6 14,6%

Nhìn vào bảng thống kê kết quả trên cho thấy tỉ lệ học sinh ĐẠT (giỏi) rất ít và
học sinh ở mức ĐẠT chiếm tỉ lệ lớn và tỉ lệ chưa đạt chiếm 11,9%.
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến:“SỬ DỤNG
MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG DÂN GIAN NHẰM KÍCH THÍCH HỨNG THÚ CHO
HỌC SINH KHI HỌC MÔN THỂ DỤC” để góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy và
tạo hứng thú cho học sinh thích học và đạt thành tích cao môn thể dục.
III. CÁC GIẢI PHÁP.
1. Đối với giáo viên:
Môn thể dục, để có một tiết học đạt kết quả cao, tạo cho các em niềm say
mê, hứng thú trong học tập, tập luyện, nắm vững được nội dung bài học, hình
thành kỹ năng, kỹ xảo, thực hiện động tác một cách chính xác, hoàn hảo không
có dấu hiệu mệt mỏi, chán nản khi tập luyện Muốn đạt được những yêu cầu
trên, cần phải có những phương pháp thiết yếu sau:
Trước hết giáo viên cần soạn giáo án, nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy,
giáo viên phải làm mẫu từng động tác, thao tác nhuần nhuyễn, phân tích rõ ràng
từng chi tiết, yếu lĩnh kỹ thuật động tác trước khi lên lớp để học sinh hiểu và
nắm bắt ngay.
Làm mẫu thì động tác phải đạt yêu cầu chính xác, đẹp, đúng kỹ thuật, chú ý về
phương hướng, biên độ kỹ thuật động tác vì những động tác ban đầu sẽ tạo ấn
tượng sâu trong trí nhớ các em.
Đối với giáo viên không chuyên, giáo viên không có khả năng làm mẫu
thì nên cho học sinh quan sát kỹ tranh ảnh, xem phim hoặc có thể bồi dưỡng cán
sự, chọn những em có năng khiếu tốt về mặt này để làm mẫu thay cho giáo viên
khi giảng dạy động tác mới.
Khi giảng giải, phân tích kỹ thuật động tác nên ngắn gọn, chính xác, dễ
hiểu, sử dụng tranh ảnh để minh họa làm tăng sự chú ý trong các em.
Do đặc điểm của học sinh lứa tuổi THCS tính hiếu động, nhất là khi lên
lớp ngoài trời hay bị các yếu tố bên ngoài làm ảnh hưởng. Chính vì thế trong
phần mở đầu giáo viên nên sử dụng một số trò chơi thường được các em ưa
thích để gây sự tập trung và hứng thú trước khi vào phần cơ bản, dẫn dắt vào bài

học bằng một câu hỏi và cho HS suy nghĩ trả lời , trong tiết học thể dục không
nhất thiết phải tuân theo qui định khuôn khổ mà phải luôn luôn thay đổi đưa vào
một số tình tiết mới dễ gây hứng thú cho học sinh. Đó là thông qua một số biện
pháp trò chơi, thi đấu giữa các nhóm, tổ, tăng độ khó…
*Ví dụ minh hoạ:
VD1: Chạy ngắn
Nội dung chạy ngắn tôi lồng ghép trò chơi cướp cờ vào bài dạy
hoặc nội dung chạy ngắn : Có thể chạy thi, chạy tiếp sức giữa hai đội dưới hình
thức trò chơi.
VD2: Đá cầu
Khi giảng dạy môn đá cầu có thể cho học sinh thi đấu giữa các tổ theo cặp hoặc
thi phát cầu vào ô quy định…
VD3: Nhảy cao
Nội dung nhảy cao tôi lồng ghép trò chơi “chồng nụ chồng hoa” vào bài dạy
hoặc nội dung nhảy cao tôi lồng ghép trò chơi “nhảy cừu”…
VD4: Ném bóng
Nội dung ném bóng tôi lồng ghép trò chơi “ném bóng vào ô” vào bài dạy
Với các hình thức thay đổi trên sẽ làm cho học sinh không cảm thấy nhàm
chán và tạo hứng thú, đam mê trong giờ học thể dục, háo hức chờ đến tiết học
thể dục.
Trong quá trình dạy học, nếu các em có dấu hiệu mệt mỏi giáo viên cần
thay đổi nội dung để tạo lại sự hứng thú, lấy lại tâm lý trạng thái vui tươi, có thể
tổ chức một số trò chơi nhỏ hay kể một câu chuyện ngắn gọn về tinh thần luyện
tập thể thao, lời kêu gọi tập luyện thể dục của Bác Hồ, cung cấp cho học sinh
một số thông tin về thành tích thi đấu của thể thao Việt Nam và thế giới…
Dụng cụ học tập rất quan trọng nên áp dụng triệt để vì nó dễ tạo nên hưng
phấn cho học sinh. Vì vậy mỗi nội dung, mỗi tiết học, giáo viên nên thay đổi
dụng cụ như: Bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, đá cầu…hay các vật dụng khác
mang màu sắc áp dụng trong bài học và trò chơi, sẽ tác động vào các em gây sự
hứng thú hấp dẫn trong tập luyện.

Trong suốt tiết học, giáo viên cũng nên dùng phương pháp thi đấu phân
thắng thua để động viên các em, mỗi một nội dung cho các tổ thi đua với nhau,
giáo viên nhận xét, khen thưởng sẽ tạo nên sự tranh đua, gắng sức tập luyện. Để
tìm hiểu tình hình học sinh một cách toàn diện, trong mỗi lớp học, tìm hiểu khả
năng vận động của các em, có sức khoẻ tốt, có sức khoẻ yếu hay bệnh tật…Để
có hình thức và đưa ra bài tập riêng đối với học sinh đặc biệt là tuân thủ triệt để
nguyên tắc cá biệt hoá trong giảng dạy môn thể dục.
Đối với học sinh yếu, khuyết tật, không để các em nghỉ, mà giáo viên phải
tổ chức riêng cho các em tập với cường độ và bài tập hợp lý hoặc cho các bạn có
sức khoẻ tốt giúp đỡ các bạn yếu, giáo viên nên động viên khích lệ các em này.
Tạo điều kiện cho các em làm trọng tài trong các trò chơi, các hoạt động thi đua
hoặc áp dụng phương pháp tập luyện “phục hồi chức năng” với hình thức nhẹ
nhàng, nội dung phù hợp để các em này được hoạt động, tạo cho các em một
tinh thần thoải mái, vui vẻ, phấn khởi tập luyện nâng cao sức khoẻ cùng các bạn.
Nói chung chương trình dạy thể dục trong trường THCS rất đa dạng,
phong phú nhưng tùy theo một mức độ khác nhau. Chúng ta nghiên cứu trong
mỗi tiết dạy tạo mọi điều kiện, sử dụng phương pháp phù hợp với lứa tuổi các
em, đảm bảo tính vừa sức, hấp dẫn, tạo nên sự hưng phấn, kích thích các em say
mê luyện tập, nâng cao sức khoẻ đảm bảo việc học tập đồng thời đào tạo nguồn
để học sinh tham gia các kỳ thi do các cập tổ chức.
2. Đối với học sinh:
Một trong những nội dung quan trọng áp dụng vào giờ học nhằm kích
thích hứng thú học tập của học sinh đó là vận dụng phương pháp trò chơi và thi
đấu vào giờ học để rèn luyện kỹ thuật và thể lực cho học sinh.
Phương pháp trò chơi tạo cho người chơi nhiều điều kiện để giải quyết
một cách sáng tạo về nhiệm vụ vận động. Tạo nên quan hệ tranh đua căng thẳng
giữa các cá nhân từ đó giúp học sinh tham gia hăng hái và nhiệt tình.
* Áp dụng phương pháp sử dụng trò chơi vận động kết hợp thi đấu vào giảng
dạy thể dục ở trường.
Sau thời gian áp dụng phương pháp trên tôi thấy rất thuận tiện trong việc

giảng dạy đa số các em có tiến bộ nhiều trong môn học, cụ thể là học sinh khối
8 mà tôi trực tiếp giảng dạy các em rất ham thích luyện tập, thường chờ đợi đến
tiết học thể dục, chất lượng tăng lên rõ rệt qua từng giai đoạn, kể cả học sinh sức
khoẻ yếu, các em đã nắm kỹ nội dung chương trình, tuy không đòi hỏi mức độ
cao ở các em song cũng đủ đảm bảo tốt về mặt sức khoẻ, tinh thần ý thức, tổ
chức kỷ luật, là cơ sở để các em bước vào lớp kế tiếp với bản lĩnh tự tin hơn,
tiến xa hơn. Tôi đã tiến hành sử dụng phương pháp trò chơi lồng ghép vào giờ
học thể dục và kết quả cho thấy chất lượng học sinh học môn thể dục tăng lên rõ
rệt.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN ĐEM LẠI:
Sau khi áp dụng sáng kiến nêu trên thì kết quả thu được:
Khối
Số
lượng
HS
Kết quả
ĐẠT(Giỏi) Đ ẠT(Khá) Đ ẠT C Đ
Sl Tỉ lệ% Sl Tỉ lệ% Sl Tỉ lệ% Sl Tỉ lệ%
8A 43 7 16,2% 27 62,7% 9 20,9% 0 0
8B 41 8 19,5% 19 46,3% 13 31,7% 1 0,2%
Từ kết quả trên cho thấy hiệu quả của phương pháp trên cho thấy tỉ lệ học sinh
khá, giỏi chiếm tỉ lệ cao và chỉ có 1 học sinh chưa đạt
1. Đối với giáo viên:
TDTT là một lĩnh vực khoa học, không có kiến thức khoa học về TDTT
thì không nhận thấy tác dụng của TDTT đối với sức khoẻ con người và không
thể xây dựng cho mình nếp sống văn minh khoa học, rèn luyện thân thể đều đặn.
Chính vì thế, giáo dục thể chất là con đường mà người giáo viên hướng dẫn học
sinh tập luyện nếu không nắm được tình hình sức khoẻ, đặc điểm tâm sinh lý
của học sinh thì sẽ dẫn đến hậu quả khó lường, gây nguy hại đến sức khoẻ, tác
động xấu đến sự phát triển các tố chất của học sinh. Để thực hiện được nội dung

chương trình và giảng dạy cho học sinh tập luyện có hiệu quả, giáo viên thể dục
phải có trình độ vững vàng, yêu thích và đam mê TDTT, có sức khoẻ tốt…Xuất
phát từ yêu cầu cấp bách đó, tôi đưa ra giải pháp sau:
- Giáo viên thể dục phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nâng cao
trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của tiến trình giảng dạy, nâng cao chất
lượng dạy học của bộ môn, phải dự giờ trao đổi kinh nghiệm, tham khảo các bài
giảng mẫu để rút kinh nghiệm nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Giáo viên luôn tìm
tòi những phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện thực tiễn, không áp đặt,
không máy móc.
- Nhà trường thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên đi học các lớp bồi
dưỡng chuyên môn để nâng cao nghiệp vụ giảng dạy, phục vụ tốt cho công tác
chăm lo sức khoẻ học sinh.
2. Đối với học sinh:
Đối với học sinh giáo viên phải động viên, khích lệ học sinh tham gia
học tập đồng thời giao bài tập ngoại khóa cho học sinh. Bên cạnh đó phải nhắc
nhở học sinh tham gia học tập nghiêm túc và vận dụng kiến thức đã học để tăng
cường rèn luyện thân thể, tập luyện thể dục thể thao.
V. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
Tóm lại việc học môn thể dục trong nhà trường phổ thông là một động lực quan
trọng để góp phần hoàn thiện về mặt thể chất ngoài ra còn có tác dụng tích cực
thúc đẩy các mặt giáo dục khác phát triển.Vì vậy, là giáo viên chúng ta phải trau
dồi kiến thức, tự hoàn thiện mình, luôn nghiên cứu tìm ra những phương pháp
soạn giảng, tập luyện phù hợp khắc phục những khó khăn để đưa chất lượng
giáo dục thể chất ngày càng phát triển. Đào tạo cho xã hội thế hệ tương lai là
những con người toàn diện có sức khoẻ dồi dào, có thể lực cường tráng, dũng
khí kiên cường để tiếp tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và sống cuộc sống vui
tươi lành mạnh.
1. Đối với Phòng giáo dục và nhà trường:
Để đảm bảo công tác giáo dục thể chất cho học sinh đòi hỏi phải tăng
cường các thiết bị dụng cụ phục vụ cho việc giảng dạy của thầy và của việc tập

luyện của trò theo hướng:
- Mỗi năm nhà trường phải mua sắm thêm một số thiết bị dụng cụ như: Mua
thêm đệm để thay thế các nệm xuống cấp không an toàn khi tập luyện.
- Nhà trường cùng thầy cô, học sinh tự làm thêm một số thiết bị dụng cụ
như: cho học sinh các lớp nộp cầu đá, bóng chuyền, xà nhảy cao góp phần làm
giàu thêm cơ sở vật chất của nhà trường phục vụ tốt cho công tác giáo dục thể
chất cho học sinh.
- Thường xuyên cải tạo và nâng cấp các sân tập.
- Tiến tới xây dựng hoàn thiện sân tập để đảm bảo tập luyện ở nhiều môn
thể thao thúc đẩy sự phát triển các tố chất thể lực cho học sinh.
- Cần quan tâm nhiều hơn nữa vào công tác giáo dục thể chất cho học sinh
như: Tăng cường giao lưu thể thao với các trường bạn, tham gia các phong trào
ở các cấp …
2. Đối với cha mẹ học sinh và địa phương
- Quan tâm hơn nữa tới việc học tập của con em mình như tạo điều kiện
về thời gian cho con học tập, vui chơi thích hợp. Song cũng cần phải có cách
quản lý khoa học nếu không các em có thể sa vào các tai tệ nạn xã hội (nhất là
các trò chơi điện tử trực tuyến)
- Địa phương cần có khu vui chơi giải trí cho các em ở luỹ tre xanh như
sân vận động, sân cầu lông, bàn bóng bàn…để cho các em hoạt động.

Trên đây tôi đã trình bày kinh nghiệm của mình khi dạy môn thể dục.
Trong quá trình giảng dạy tôi luôn được sự quan tâm của Ban Giám hiêu nhà
trường, tổ chuyên môn, các đồng nghiệp. Với mong muốn trau dồi năng lực
chuyên môn vững vàng hơn nên tôi mạnh dạn nêu một số kinh nghiệm của bản
thân khi dạy môn học thể dục. Trong bài viết này không tránh khỏi những thiếu
sót tôi rất mong các đồng chí và các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để tôi rút
kinh nghiệm làm tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hải Sơn, ngày 20 tháng 10 năm 2013

Người thực hiện
Nguyễn Văn Tiến
CƠ QUAN ĐƠN VỊ SÁNG KIẾN
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
(x¸c nhËn ®¸nh gi¸ xÕp lo¹i)
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẢI HẬU
(x¸c nhËn ®¸nh gi¸ xÕp lo¹i)
CÁC PHỤ LỤC KÈM THEO SÁNG KIẾN
STT TÁC GIẢ VÀ TÊN TÀI LIỆU
1
136 trò chơi vận động dân gian – PGS-PTS Nguyễn Toán
– PGS Lê Anh Thơ – NXBTDTT-1997
2 Phương pháp toán học thống kê - Nguyễn Văn Đức - NXBTDTT-1977.
3 Y học thể dục thể thao - Phi Trọng Hành – NXBTDTT - 2000.
4
Lý luận và phương pháp giáo dục thể chất - Vũ Đào Hùng – NXBGD-
2001.
5 Sách giáo viên thể dục - NXB Giáo dục - 2006
6 Chủ tịch Hồ Chí Minh với TDTT - Trương Quốc Uyên - NXBTDTT.
7 Tâm lý học TDTT - Lê Văn Xem – NXBĐHSP - 2004.
8
Tâm lý lứa tuổi và tâm lý học sư phạm - Lê Văn Hồng - NXB Giáo dục –
1997.

×