Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN: Dạy học tích hợp bảo vệ môi trường trong môn địa lý trường thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.93 KB, 24 trang )

PHÒNG GD& ĐT HUYỆN LĂK
TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN
Sáng kiến kinh nghiệm
DẠY HỌC TÍCH HỢP BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TRONG MÔN ĐỊA LÝ 8,9
TRƯỜNG THCS
GV: Nguyễn Thị Phi Nga
TỔ: Văn- Sử- Địa

NĂM HỌC 2013- 2014
1
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1: Lý do chọn đề tài
Môi trường là không gian sinh sống của con người và sinh vật, là nơi
chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất của con
người và cũng là nơi phân hủy các chất thải do con người tạo ra Không chỉ
thế, môi trường còn là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển, lao động và
nghỉ ngơi, hưởng thụ của con người. Nói cách khác, không có môi trường sẽ
không tồn tại sự sống trên Trái đất.Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng về
kinh tế- xã hội đã làm cho môi trường bị xuống cấp, nhiều nơi bị ô nhiễm
nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và đời sống của người dân,
những hiểm họa suy thoái môi trường đang ngày càng đe dọa cuộc sống của
loài người trên trái đất.
Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác giáo dục bảo vệ môi trường
cũng như những thực trạng của vấn đề bảo vệ môi trường diễn ra trên thế giới,
trên cả nước cũng như tại địa phương. Tuy vậy, sự phát triển kinh tế chưa
đảm bảo với việc bảo vệ môi trường. Vì vậy, môi trường Việt Nam đã xuống
cấp, nhiều nơi môi trường đã bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đảng và nhà nước đã
đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường.
Hoạt động bảo vệ môi trường được các cấp, các ngành và đông đảo tầng lớp
nhân dân quan tâm và bước đầu thu được một số kết quả đáng khích lệ. Trong


các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc triển khai xây dựng bộ tài liệu
tích hợp giáo dục môi trường trong các môn học ở các cấp học là cần thiết
nhất, hữu hiệu nhất. Vì ở nước ta hiện nay có khoảng hàng chục triệu học
sinh, sinh viên các cấp và hàng triệu GV - cán bộ quản lí và cán bộ giảng dạy.
Đây là một lực lượng khá hùng hậu. Vì vậy việc trang bị kiến thức về môi
trường, kĩ năng bảo vệ môi trường cho tầng lớp học sinh - sinh viên, các nhà
làm công tác giáo dục là cách nhanh nhất làm cho gần một phần ba dân số
hiểu biết về môi trường. Là nền tảng của nền giáo dục quốc dân, lực lượng
học sinh trong hệ thống giáo dục phổ thông, giữ vai trò hết sức quan trọng
2
trong việc hình thành nhân cách người lao động mới. Tác động đến lực lượng
học sinh phổ thông là tác động đến lực lượng dân số trẻ - chủ nhân tương lai
của đất nước - Nếu đội ngũ này có sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng và
hành vi, tất yếu sẽ có sự thay đổi lớn trong công tác bảo vệ môi trường. Từ đó
tôi đã đưa ra đề tài nghiên cứu này nhằm nhắc nhở bản thân mình phải sử
dụng phương pháp sư phạm, các kĩ năng sống để giáo dục học sinh thấy rõ
trách nhiệm của cá nhân mình trong việc góp phần chung tay bảo vệ môi
trường sống khi chưa quá muộn.
I.2: Mục tiêu, nhiệm vụ
- Thông qua giáo dục môi trường, từng người và cộng đồng được trang bị
kiến thức về môi trường, ý thức bảo vệ môi rường, năng lực phát hiện và xử
lí các vấn đề môi trường.
- Giáo dục bảo vệ môi trường góp phần hình thành nhân cách người lao
động mới, người chủ tương lai của đất nước, người lao động, người chủ có
thái độ thân thiện với môi trường và bảo vệ môi trường là tự bảo vệ mình.
I.3: Đối tượng nghiên cứu
Học sinh trường THCS
I.4: Giới hạn nghiên cứu
Vì điều kiện hạn chế nên tôi chỉ nghiên cứu khối ,9 trường THCS Lê Quý
Đôn

I.5: Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp khảo sát, thống kê, tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp nêu gương.
B. PHẦN NỘI DUNG
3
II.1: Cơ sở lý luận
- Bảo vệ môi trường hiện là một trong nhiều mối quan tâm mang tính
toàn cầu. Ở nước ta, bảo vệ môi trường cũng đang là vấn đề được quan tâm
sâu sắc. Nghị quyết số 41/NQ- TƯ ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính
trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
- Quyết định số 1363/ QĐ- TTg ngày 17 tháng 10 năm 2001 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án: “ Đưa các nội dung bảo vệ môi
trường vào hệ thống giáo dục quốc dân” và Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg
ngày 02 tháng 12 năm 2003của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến
lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
đã tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho những nỗ lực và quyết tâm bảo vệ môi
trường theo định hướng phát triển một tương lai bền vững của đất nước.
- Cụ thể hóa và triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà
nước, ngày 31 tháng 1 năm 2005, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chỉ
thị về việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường, xác định nhiệm
vụ trọng tâm đến 2010 và các năm tiếp theo cho giáo dục phổ thông là trang
bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng về môi trường và bảo vệ môi trường bằng
hình thức phù hợp trong các môn học và thông qua các hoạt động ngoại khóa,
xây dựng mô hình nhà trường xanh- sạch- đẹp phù hợp với các vùng, miền.
II.2 : Thực trạng của vấn đề bảo vệ môi trường
- Công tác bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập. Ô nhiễm môi

trường vẫn đang là vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội, đặc biệt tại các lưu
vực sông, khu công nghiệp, đô thị và làng nghề; vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường vẫn đang ngày càng tinh vi và phức tạp. ( Trích kết luận tại hội
nghị môi trường toàn quốc lần thứ III của Bộ trưởng Bộ TN&MT Phạm Khôi
Nguyên). Điều đó cho thấy nhiệm vụ của mọi công dân Việt Nam trong công
tác bảo vệ môi trường giai đoạn tới là hết sức nặng nề. Đòi hỏi chúng ta phải
tiếp tục có sự chung sức, chung lòng, cùng nhau nỗ lực hơn nữa để bảo vệ
4
môi trường, phải thực sự coi bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân. Trước những thực trạng nêu trên bản thân tôi phải xác
định rằng tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong các môn học nói chung
và môn học địa lí nói riêng là vô cùng cần thiết nhằm chung tay cùng với
cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường sống của nhân loại, trong đó có cá
nhân mình.
- Thực trạng về nguồn tài nguyên nước, rừng, chất thải… trong sản xuất và
sinh hoạt.
*Tài nguyên nước:
- Dân số tăng, các hoạt động kinh tế gia tăng và công tác quản lí chưa tốt
khiến tài nguyên nước ở Việt Nam đang bị sử dụng quá mức và ô nhiễm. Chỉ
số lượng nước theo đầu người năm 1943 là 16.641m
3
/người, nếu số dân tăng
lên 150 triệu thì chỉ số chỉ còn 2.467m
3
/ người/ năm, xấp xỉ với các quốc gia
hiếm nước.
- Theo báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2001: Trong thời gian
gần đây, ở Việt Nam đã xẩy ra tình trạng khan hiếm nước. Nhiều nơi thuộc
Trung Bộ đã có biểu hiện tình trạng hoang mạc hóa, vùng ven biển có quá
trình mặn hóa và muối hóa. Ở các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông

Nam Bộ và một số vùng khác đã xẩy ra tình trạng căng thẳng về nước. Các
thành phố như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Việt trì , Biên
Hòa…nước đã bị ô nhiễm tới mức nghiêm trọng. Môi trường nước ở một số
dòng sông như sông Cầu ( ở Bắc Bộ), sông Thị Vải, sông Sài Gòn, sông Vàm
Cỏ Đông (ở Đông Nam Bộ) đã bị ô nhiễm nặng. Nguồn nước ngọt cho sản
xuất và sinh hoạt của con người ngày càng cạn dần. Không chỉ ở Việt Nam
mà trên thế giới tình trạng thiếu ngọt cũng xẩy ra nghiêm trọng. Vì thế năm
2003 Liên Hợp Quốc chọn là năm quốc tế về nước ngọt bởi: Nước- Hai tỉ
người đang khát. Tất cả mọi người hãy hành động để bảo vệ Nước, nguồn
sống trên Trái đất.
*Tài nguyên rừng:
5
Rừng là nguồn tài nguyên quí giá của nước ta. Rừng có vai trò điều hòa khí
hậu, bảo vệ đất, giữ nước ngầm và là nơi lưu giữ các nguồn gen quí giá. Tuy
nhiên, độ che phủ rừng của nước ta trong thời gian dài có xu hướng giảm,
nhiều khu rừng bị tàn phá nghiêm trọng, làm cho môi trường sinh thái bị đảo
lộn, môi trường sống của các loại động vật bị thu hẹp, nguy cơ tuyệt chủng
các loại động vật quí hiếm…
Tuy vậy trong những năm gần đây, các hoạt động trồng rừng được coi trọng,
diện tích rừng có được tăng lên nhưng chất lượng rừng vẫn tiếp tục giảm sút.
Cụ thể diễn biến diện tích rừng qua các năm theo thống kê của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (tính đến tháng 12 năm 2005).
1945 1976 1980 1985 1990 1995 2002 2005
Tổng DT
tr ha
14.300 11.169 10608 9.892 9.175 9.302 11.785 12.617
Rừng
trồng
0 0.092 0.422 0584 0.745 1.050 1.9195 2.334
Rừng tự

nhiên
14.300 11.076 10.186 9.3083 8.4307 8.2525 9.865 10.283
Độ che
phủ %
43.0 33.8 32.1 30.0 27.8 28.2 35.8 37.0
BQ rừng/
ng
( ha/
người
0.57 0.31 0.19 0.14 0.12 0.12 0.14 0.15

* Về chất thải:
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và đời sống ngày càng đi lên,
lượng chất thải cũng ngày càng nhiều hơn. Sự gia tăng dân số, tình hình đô thị
hóa nhanh chóng đã làm tăng lượng rác thải. Cụ thể lượng phát sinh chất thải
6
rắn ở Việt Nam lên đến hơn 15 triệu tấn mỗi năm, tăng trung bình hằng năm
là 15%. Trong đó chất thải sinh hoạt hơn 6 triệu tấn ( ở các khu đô thị). Chất
thải công nghiệp phát sinh chiếm khoảng 20% tổng lượng chất thải. chất thải
công nghiệp phát sinh từ các làng nghề ở vùng nông thôn chủ yếu tập trung ở
miền Bắc. Khoảng 1.450 làng nghề phân bố ở các vùng nông thôn trên toàn
quốc, mỗi năm thải ra khoảng 774.000 tấn chất thải công nghiệp…
- Theo ước tính, lượng chất thải sẽ tăng lên đáng kể. Trong đó lượng chất
thải sinh hoạt sẽ tăng 60%, chất thải công nghiệp tăng 50%, chất thải nguy hại
tăng 3 lần, các số liệu thống kê trên tính đến năm 2010. ( Nguồn: báo cáo diễn
biến môi trường Việt Nam năm 2004. Bộ Tài nguyên và Môi trường).
Bên cạnh những thực trạng về môi trường mang tầm cỡ quốc gia, thì ở tại địa
phương nơi các em đang sinh sống vấn đề môi trường cũng đang đến hồi báo
động. Đặc biệt là ở những nơi đông dân cư qua lại như nơi họp chợ, rãnh,
cống thoát nước… Mặc dù đã có đội vệ sinh môi trường thường xuyên dọn

dẹp song do ý thức của người dân chưa tự giác đối với cộng đồng, chỉ biết
sạch trong nhà mình còn ở ngoài đường phố thì không được quan tâm. Ngoài
ra cơ sở hạ tầng cũng chưa đáp ứng yêu cầu, như nơi đổ rác cũng như nơi xử
lí rác thải chưa đảm bảo kĩ thuật gây nên hiện tượng ô nhiễm. Ngay trong
trường học, mặc dù được quán triệt, nhắc nhở thường xuyên của BGH nhà
trường cũng như tổng phụ trách đội và hàng ngày ban lao động đều phân công
luân phiên lớp, trực tiếp lao động dọn vệ sinh. Thế nhưng do ý thức chưa tự
giác của một số học sinh nên ở trong sân trường , hành lang các dãy phòng
học cũng như trong lớp học vẫn thấy sự xuất hiện của rác thải.
II.3: Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp, giải pháp
III.3.A. Nguyên tắc, phương thức, phương pháp giáo dục bảo vệ môi
trường trong trường THCS.
A.aNguyên tắc.
- Giáo dục bảo vệ môi trường là một lĩnh vực giáo dục liên ngành, tích hợp
vào các môn và các hoạt động. Giáo dục bảo vệ môi trường không phải là
7
ghép thêm vào chương trình giáo dục như là một bộ môn riêng biệt hay một
chủ đề nghiên cứu mà nó là một hướng hội nhập vào chương trình. Giáo dục
môi trường là cách tiếp cận xuyên bộ môn. Vì thế cần xác định mục tiêu, nội
dung và phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường phải phù hợp với mục tiêu
đào tạo của từng cấp học, lớp học và từng độ tuổi.
- Giáo dục bảo vệ môi trường phải trang bị cho học sinh một hệ thống kiến
thức tương đối đầy đủ về môi trường và kĩ năng bảo vệ môi trường, phù hợp
với tâm lí lửa tuổi.
- Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường phải chú ý khai thác tình hình thực tế
môi trường của từng địa phương và từng mục tiêu về kiến thức- kĩ năng của
từng bài học.
- Nội dung và phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường phải chú trọng thực
hành, hình thành các kĩ năng, phương pháp hành động cụ thể để học sinh có
thể tham gia có hiệu quả vào các hoạt động bảo vệ môi trường của địa

phương, của đất nước, phù hợp với độ tuổi.
- Cách tiếp cận cơ bản của giáo dục bảo vệ môi trường là: Giáo dục về môi
trường, trong môi trường và vì môi trường, đặc biệt là giáo dục vì môi trường.
Coi đó là thước đo cơ bản hiệu quả của giáo dục bảo vệ môi trường.
- Phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường nhằm tạo cho người học chủ động
tham gia vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho học sinh phát hiện các vấn đề
môi trường và tìm hướng giải quyết vấn đề dưới sự tổ chức và hướng dẫn của
giáo viên.
- Tận dụng các cơ hội để giáo dục bảo vệ môi trường nhưng phải đảm bảo
kiến thức cơ bản của môn học, tính logic của nội dung, không làm quá tải
lượng kiến thức và tăng thời gian của bài học, có nghĩa là: không biến một bài
dạy địa lí thành một bài dạy môi trường.
A.b . Phương thức giáo dục.
- Giáo dục bảo vệ môi trường là lĩnh vực giáo dục liên ngành, vì vậy được
triển khai theo phương thức tích hợp. Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường
8
được tích hợp trong môn học thông các chương, bài cụ thể. Việc tích hợp thể
hiện ở 3 mức độ: Mức độ toàn phần, mức độ bộ phận và mức độ liên hệ. Cụ
thể là ở mức độ toàn phần thì mục tiêu và nội dung của bài học hoặc của
chương phù hợp hoàn toàn với mục tiêu và nội dung của giáo dục bảo vệ môi
trường.
Ví dụ như khi dạy về bài 28 vùng Tây Nguyên thì chỉ tích hợp giáo dục bảo
vệ môi trường ở mục II. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của
vùng. Học sinh biết được vùng Tây Nguyên có một lợi thế để phát triển kinh
tế: địa hình cao nguyên, đất ba dan, rừng chiếm diện tích lớn…Học sinh phải
biết được rằng việc chặt phá rừng quá mức để làm nương rẫy và trồng cà phê,
nạn săn bắt động vật hoang dã làm ảnh hưởng xấu tới môi trường…Còn đối
với mức độ liên hệ thì có điều kiện liên hệ một cách logic. Ví dụ khi dạy về
sông, hồ và biển thì học sinh phải biết được vai trò của sông, hồ đối với đời
sống và sản xuất của con người trên trái đất. Phải có óc quan sát và nhận định

về tình trạng nguồn nước có bị ô nhiễm hay không. Để từ đó các em cần tìm
ra nguyên nhân, hậu quả cũng như tìm ra các giải pháp khắc phục. Thông qua
việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường sẽ tạo điều kiện cho các em có thái
độ, hành vi đúng trong việc không làm cho nguồn nước bị ô nhiễm và phản
đối các hành vi làm ô nhiễm nguồn nước sông, hồ, biển khi các em có dịp đi
tắm biển cùng gia đình.( HS quan sát qua tranh ảnh minh họa)
Ngoài các hoạt động trong lớp học, thì các hoạt giáo dục bảo vệ môi trường
còn được tích ngoài lớp học như câu lạc bộ về môi trường theo từng chủ đề cụ
thể, hoặc nói chuyện chuyên đề về tác động của sự nóng lên toàn cầu, sản
xuất sạch…
A.c. Các phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường.
- Phương pháp tích hợp giáo dục môi trường trong môn Địa lí về cơ bản là
những phương pháp thường được sử dụng để dạy môn học. Tuy nhiên, trong
các phương pháp đó có một số phương pháp có nhiều khả năng giáo dục môi
trường một cách hiệu quả cần quan tâm, đó là những phương pháp đòi hỏi học
9
sinh phải bộc lộ được nhận thức, quan điểm, ý thức, thái độ, đưa ra được
những giải pháp… trước các vấn đề của môi trường. Ví dụ như phương pháp
đàm thoại, phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan ( tranh ảnh, băng,
đĩa hình có nội dung về môi trường). phương pháp thảo luận nhóm, phương
pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, phương pháp tham quan, điều
tra, khảo sát thực tế.
III.3.B Các biện pháp, giải pháp và cách tiến hành thông qua các bài học
cụ thể ở chương trình tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường.
B.a: Các biện pháp, giải pháp giáo dục bảo vệ môi trường.
- Khi tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường, giáo viên phải dựa vào các
nguyên tắc, phương thức, phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường trong
trường THCS như đã nêu ở phần 1.
- Giáo dục cho học sinh kĩ năng sống bảo vệ môi trường là khả năng ứng xử
một cách tích cực đối với các vấn đề môi trường. Cụ thể là kĩ năng nhận biết

và pháp hiện các vấn đề môi trường, xây dựng kế hoạch hành động vì môi
trường, kiên định thực hiện kế hoạch hành động vì môi trường trong lớp học,
trường học, khu dân cư và ngay trong gia đình của các em.
- Hành vi của người lớn là tấm gương có ý nghĩa giáo dục trực tiếp đối với
học sinh. Vì thế muốn giáo dục học sinh có nếp sống văn minh, lịch sự đối
với môi trường, trước hết các thầy, cô giáo và các bậc phụ huynh cần phải
thực hiện đúng các qui định bảo vệ môi trường. Ví dụ chỉ là hành động nhỏ
thôi cũng tác động rất lớn đến các em, như khi bước tới của lớp nếu thấy một
vài mẫu giấy vụn thì giáo viên nên nhặt bỏ vào sọt rác thì bản thân ta đã góp
phần làm cho môi trường sạch hơn. Có thể nhắc các em tắt hệ thống điện
trong phòng học khi không cần thiết. Đó cũng chính là những hành động để
giáo dục các em sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn năng lượng, vì đây cũng
là một trong những nguyên nhân tạo ra lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính,
làm cho Trái đất nóng lên và khí hậu trên toàn cầu bị biến đổi. Một trong
những quốc gia bị ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu lớn nhất là Việt Nam.
10
( Cụ thể trong năm 2010 Việt Nam đã phải hứng chịu những đợt hạn hán lớn
diễn ra trên phạm vi cả nước. Đặc biệt các tỉnh duyên hải Miền Trung, từ
Nghệ An trở vào cho tới Ninh thuận phải đương đầu với nhiều trận lũ lụt lớn,
gây thiệt hại lớn về tài sản cũng như tính mạng của người dân,). Sự mất mát
đó không thể khắc phục trong ngày một ngày hai mà phải sau nhiều năm nữa
mới khắc phục được. Khi lấy những dẫn chứng cụ thể như vậy thì hiệu quả
giáo dục môi trường sẽ có tác dụng hơn, vì có thể khẳng định rằng chính con
người tác động vào tự nhiên và lấy đi những gì của tự nhiên, thì con người
phải chịu những hậu quả của tự nhiên mang lại.
11
Cảnh tượng đau thương ở Miền Trung trong các trận lũ vừa qua
Môi trường cũng chính là những vấn đề rất gần gũi với học sinh như cơm ăn,
nước uống,
12

không khí để thở, mảnh sân, góc nhà, vườn cây… Các em có thể nhìn thấy,
sờ thấy,nhận biết được kinh nghiệm thực tế. Giáo viên cần tận dụng được
điểm này để giáo dục các em.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về khối lượng rác thải, giáo viên không nên cung cấp
ngay các số liệu mà tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động điều tra lượng
thải ở trường học, ở địa phương. Qua số liệu điều tra học sinh có thể nhận
biết, phát hiện các vấn đề môi trường trong phạm vi nhà trường, hay ở tại các
tổ dân phố. Từ đó cho các em tự xây dựng kế hoạch hành động vì môi trường
và kiên định thực hiện kế hoạch hành động vì môi trường. Làm được điều đó
có nghĩa là giáo viên đã thành công trong việc giáo dục các em kĩ năng sống
trong bảo vệ môi trường nơi các em đang sinh sống và học tập.
B.b: Cách tiến hành tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong một số
bài học môn địa lí.
*. Khi dạy về chủ đề nguồn nước:
Ví dụ khi dạy về bài 33: ĐẶC ĐIỂM SÔNG NGÒI VIỆT NAM
(SGK địa lí lớp 8)
- Ngoài xác định mục tiêu về kiến thức- kĩ năng bài học thì giáo viên cần xác
định mục tiêu về kiến thức - kĩ năng về giáo dục bảo vệ môi trường.
- Ở nôi dung bài này tích hợp ở mức độ bộ phận trong mục 2: Khai thác kinh
tế và bảo vệ trong sạch của các dòng sông.
- Học sinh cần biết được giá trị kinh tế của sông và việc khai thác các nguồn
lợi từ sông ngòi ở nước ta.
- Sau đó giáo viên sử dụng phương pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường
qua tranh, ảnh địa lí. Qua tranh, ảnh địa lí học sinh có thể nhận biết được hiện
tượng nước sông như thế nào? Có bị ô nhiễm không?.
13


Từ đó giáo viên cho học sinh tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả và xây dựng thái
độ, hành vi trong việc có ý thức giữ gìn, bảo vệ nguồn nước ngọt và các sông,

hồ của quê hương, đất nước. Giáo viên có thể cho học sinh tự đưa ra những
giải pháp riêng của bản thân, trả lại sự trong sạch cho các dòng sông, mà các
em được nghe qua sách, báo, thơ, ca ngợi về các dòng sông ở nước ta khi
chưa bị ô nhiễm.
Sau đây là một hình ảnh của việc khắc phục ô nhiễm nguồn nước sông,
và xử lý nước thải trước khi đưa ra sông.
14

- Hoặc khi dạy về bài 38, 39. PHÁT TRIỂN TỔNG HỢP KINH TẾ VÀ BẢO
VỆ TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG BIỂN- ĐẢO( SGK địa lí lớp 9)
Đối với bài này giáo viên cần tích hợp theo mức độ toàn phần trong mục I:
Biển và đảo Việt Nam , mục III: Bảo vệ tài nguyên và môi trường biển- đảo.
- HS cần biết Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển dài và vùng biển rộng,
có nhiều điều kiện để phát triển các ngành kinh tế biển.
- HS hiểu việc phát triển các ngành kinh tế biển phải đi đôi với việc bảo vệ tài
nguyên và môi trường biển nhằm phát triển bền vững.
- Giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích hợp thảo luận nhóm, kết hợp với
phương pháp sử dụng tranh, ảnh địa lí.
Ví dụ: Khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, bản thân tôi đã thực hiện
các bước sau:
Bước 1: GV nêu chủ đề và các câu hỏi thảo luận
Bước 2: HS thảo luận theo nhóm nhỏ ( 04 HS) và trình bày kết quả.
Bước 3: GV tóm tắt các ý kiến thảo luận, củng cố các điểm chính.
Cụ thể vấn đề thảo luận: Để phát triển bền vững các ngành kinh tế biển cần
phải quan tâm đến vấn đề gì? Nêu một số biện pháp cụ thể.
- Yêu cầu HS cần nêu được những vấn đề cần quan tâm: bảo vệ nguồn tài
nguyên biển, chống ô nhiễm môi trường biển.
15
- Một số biện pháp cụ thể: không khai thác bừa bãi, quá mức các tài nguyên
biển; không để xẩy ra các sự cố tràn dầu; hạn chế chất thải ra biển từ các nhà

máy, các đô thị…( Minh họa ở phần phụ lục)
- Qua thực tế kết quả thảo luận, dưới sự hướng dẫn cụ thể của giáo viên, tôi
thấy rằng các em đã có những ý kiến, suy nghĩ, những quan điểm, thái độ về
vấn đề môi trường biển trong hiện tại và cả tương lai. Tôi còn nhớ mãi một
tình huống của nhóm một đặt ra cho nhóm hai là: nếu như không ý thức được
tác hại của sự suy giảm nguồn lợi thủy sản, thì trong tương lai liệu con người
có còn các loại cá trong bữa ăn hàng ngày không? Hay nếu bạn đi tắm biển
cùng gia đình, thấy biển có rác thì bạn sẽ làm gì? Những câu hỏi tình huống
đó đã tạo nên sự sôi nổi của HS trong quá trình tự lực phát hiện vấn đề từ một
tình huống thực, lựa chọn vấn đề cần giải quyết, từ đề xuất ra giả thuyết, tự
đánh giá chất lượng và hiệu quả giải quyết vấn đề… và tôi cảm thấy được sự
thành công của mình trong tiết dạy.
*. Khi dạy về chủ đề tài nguyên rừng:
Ví dụ ở bài 39: BẢO VỆ TÀI NGUYÊN SINH VẬT VIỆT NAM.
( SGK địa lí 8)
Đối với bài này được giáo viên có thể tích hợp theo mức độ toàn phần ở cả
mục 1, mục 2, mục 3 của bài.
- HS phải biết giá trị của tài nguyên sinh vật ở Việt Nam.
- Biết hiện trạng, nguyên nhân suy giảm tài nguyên sinh vật và sự cần thiết
phải bảo vệ tài nguyên sinh vật ở nước ta.
- Biết nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và luật để bảo vệ và phát triển
tài nguyên rừng.
- Từ đó rèn luyện HS có ý thức bảo vệ các loài động, thực vật ở địa phương,
đất nước, không đồng tình, không tham gia các hoạt động phá hoại cây cối,
săn bắt chim thú… Có ý thức tìm hiểu và chấp hành các chính sách, pháp luật
của Nhà nước về bảo vệ động, thực vật.
16
- Đối với bài này giáo viên có thể sử dụng nhiều phương pháp như : PP đàm
thoại, PP sử dụng tranh, ảnh địa lí, băng, đĩa hình hay tham quan, điều tra,
khảo sát thực tế.

GV: Dùng hình ảnh để HS quan sát nhận biết về hiện trạng rừng, tìm ra
nguyên nhân, hậu quả của sự suy giảm tài nguyên rừng. HS có thể đề ra các
giải pháp để bảo về tài nguyên rừng , tham gia tuyên truyền cũng như có
những hành động bảo vệ, chăm sóc cây xanh trong trường học


17
* Hoặc khi dạy về chủ đề chất thải trong sản xuất, trong sinh hoạt:
Ví dụ khi dạy về bài 12: SỰ PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ CÔNG
NGHIỆP ( SGK địa lí lớp 9)
Đối với bài này GV tích hợp theo mức độ liên hệ ở mục II. Các ngành công
nghiệp
- HS biết việc phát triển không hợp lí một số ngành công nghiệp đã và sẽ tạo
nên sự cạn kiệt khoáng sản và gây ô nhiễm môi trường.
- Thấy được sự cần thiết phải khai thác tài nguyên một cách hợp lí và bảo vệ
môi trường trong quá trình phát triển công nghiệp.
Ở bài này GV cho HS thảo luận theo nhóm nhỏ để tìm hiểu về những nguyên
nhân cơ bản làm cho môi trường bị ô nhiễm trong quá trình khai thác và chế
biến.
18
Muốn làm được điều đó HS cần phải xác định được địa bàn phân bố của các
điểm khai và chế biến trong công nghiệp và liên hệ qua thực tế thông qua
phương tiện thông tin đại chúng về các vụ việc có liên quan đến vấn đề môi
trường. Như chất thải độc hại của công ty bột ngọt Vedan trên sông Thị Vải,
công ty TNHH Miwon, công ty thuộc da Hào Dương, công ty giấy việt trì…
Vấn đề chất thải độc hại ở các khu công nghiệp, bệnh viện …đang hàng ngày,
hàng giờ rình rập đe dọa đến môi trường sống của con người. Từ nhận biết
được những tác hại đó các em cũng sẽ thấy rằng trong một phạm vi hẹp trong
nhà trường mức độ rác thải của các em hằng ngày cũng góp phần làm cho môi
trường xung quanh các em không trong lành. Từ tích hợp vấn đề trong bài học

GV có thể lòng ghép giáo dục cho các em ý thức trong tiết kiệm điện, giữ gìn
vệ sinh lớp học
II.5: Kết quả thu được qua khảo nghiệm thực tiễn
- Sau khi thực hiện các giải pháp, biện pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi
trường trong môn học, bản thân tôi nhận thấy học sinh đã tự phát hiện được
những vấn đề liên quan đến môi trường. Đặc biệt các em hiểu được rõ hơn
khái niệm về môi trường và có những hành động về môi trường thiết thực
hơn, đa số các em có ý thức trong việc giữ gìn vệ sinh lớp học, tạo nên cảnh
quan môi trường sạch hơn, xanh hơn và đẹp hơn. Đặc biệt khi cho HS tổ
chức hoạt động ngoài giờ lên lớp các em đã có những ý tưởng hay: như thi
hiểu biết về môi trường, thi kĩ năng vẽ tranh về môi trường hay sáng tác
thơ…được các em ở khối 9 hưởng ứng tích cực
- Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này, tôi nhận thấy được tính
hiệu quả thiết thực của nó. Đồng thời cũng đáp ứng được các yêu cầu đặt
ra như đã giới thiệu ở phần tầm quan trọng và lí do của đề tài như đã nêu ở
trên. Phần nào đáp ứng được các mục tiêu cơ bản của Bộ Giáo dục- Đào tạo
đề ra. Có thể khẳng định rằng:
- Đích quan trọng của giáo dục bảo vệ môi trường không chỉ làm cho mọi
người hiểu rõ sự cần thiết phải bảo vệ môi trường mà quan trọng là phải có
19
thói quen, hành vi ứng xử văn minh, lịch sự với môi trường. Điều này phải
được hình thành trong một quá trình lâu dài và phải bắt đầu ngay từ tuổi ấu
thơ.
- Trong những năm học phổ thông học sinh không những được tiếp xúc
với thầy, cô giáo, bạn bè mà còn được tiếp xúc với khung cảnh trường, lớp,
bãi cỏ, vườn cây… việc hình thành cho học sinh tình yêu thiên nhiên, quan
tâm tới thế giới xung quanh, có thói quen sống ngăn nắp, vệ sinh, phụ thuộc
rất nhiều vào nội dung và cách giáo dục của chúng ta.Vì vậy việc tích hợp
giáo dục môi trường trong môn địa lí chính là sự cần thiết nhằm bồi dưỡng
tình yêu thiên nhiên, bồi dưỡng những xúc cảm, xây dựng cái thiện trong mỗi

con người, hình thành thói quen, kĩ năng bảo vệ môi trường.
Cụ thể: Tôi đã tiến hành khảo sát các vấn đề về môi trường liên quan đến
địa phương đối với học sinh lớp 9C kết quả cụ thể như sau:
Câu 1: Em có những hiểu biết gì về các vấn đề môi trường ở nước ta?
(Đang bị ô nhiễm nghiêm trọng).
100% học sinh trả lời đúng.
Câu 2: Môi trường nào đang bị ô nhiễm nghiêm trọng nhất? ( Nước và
không khí). Dựa vào đâu mà em biết? ( Thông qua các thông tin đại chúng
và bài giảng của các thầy cô ).
100% học sinh trả lời đúng.
-Môi trường tại địa phương em như thế nào? ( Rừng bị triệt hạ, môi trường
cũng đang có biểu hiện bị ô nhiễm). Em có biết nguyên nhân nào đã tác
động xấu đến các loại môi trường tại địa phương trong khi ở địa phương
em vẫn thuộc quần cư nông thôn? ( Nguyên nhân chủ yếu là do người dân
thiếu ý thức: đã đốt rừng để làm rẫy, trồng cà phê; phá rừng để lấy củi:
các hộ gia đình còn vứt rác nơi công cộng; đánh bắt cá không đúng kĩ
thuật; tình trạng đốt rơm…).
100% học sinh trả lời đúng.
20
Câu 3:Trường em có được xem là ngôi trường “xanh, sạch, đẹp” không?
Tại sao?
+ 30% trả lời: không vì: Nhiều lớp vẫn chưa làm tốt công tác chăm sóc cây
xanh, các bạn còn vứt rác vào bồn cây, chưa tưới nước thường xuyên,
nhiều lớp còn vệ sinh lớp chưa sạch, chưa đổ rác đúng nơi quy định. Nhiều
bạn học sinh còn ăn quà vặt và vứt rác ra sân trường, nhiều bạn còn vẽ bậy
lên tường lên mặt bàn, chưa có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân
+ 70% trả lời: có vì: Nhà trường rất quan tâm đến việc giữ gìn vệ sinh
trường lớp và chăm sóc cây xanh trong sân trường. Ví dụ đã tổ chức cho
lớp trực kiểm tra vệ sinh của các lớp, phân công các lớp chăm sóc cây
xanh trong sân trường, nhà trường và giáo viên chủ nhiệm thường xuyên

nhắt nhở các em biết giữ gìn vệ sinh các nhân và vệ sinh trường lớp cho
nên nhìn chung trường em xứng đáng là một ngôi trường “xanh, sạch,
đẹp”.
Câu 4: Em có suy nghĩ như thế nào khi nhà trường phát động phong trào
trồng cây xanh bóng mát và kí cam kết giữ gìn môi trường “ Xanh, sạch,
đẹp”?
Kết quả 100% học sinh thống nhất cao và hứa sẽ tham gia tích cực.
Câu 5: Em hãy nêu những việc làm của các bạn học sinh nhằm góp phần
vào công tác bảo vệ môi trường tại nơi các em sinh sống và học tập
- Các em đã tham gia tích cực các buổi lao động công ích như: Lao động vệ
sinh khu vực trường học, không vứt rát bừa bãi trên đường đến trường và về
nhà, tham gia các buổi mít tinh về công tác bảo vệ môi trường do Nhà
trường và Liên đội tổ chức.
III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
21
III.1: Kết luận
- Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này, tôi nhận thấy được tính
hiệu quả thiết thực của nó. Đồng thời cũng đáp ứng được các yêu cầu đặt ra
như đã giới thiệu ở phần tầm quan trọng và lí do của đề tài như đã nêu ở trên.
Phần nào đáp ứng được các mục tiêu cơ bản của Bộ Giáo dục- Đào tạo đề ra.
Có thể khẳng định rằng:
- Đích quan trọng của giáo dục bảo vệ môi trường không chỉ làm cho mọi
người hiểu rõ sự cần thiết phải bảo vệ môi trường mà quan trọng là phải có
thói quen, hành vi ứng xử văn minh, lịch sự với môi trường. Điều này phải
được hình thành trong một quá trình lâu dài và phải bắt đầu ngay từ tuổi ấu
thơ.
- Trong những năm học phổ thông học sinh không những được tiếp xúc với
thầy, cô giáo, bạn bè mà còn được tiếp xúc với khung cảnh trường, lớp, bãi
cỏ, vườn cây… việc hình thành cho học sinh tình yêu thiên nhiên, quan tâm
tới thế giới xung quanh, có thói quen sống ngăn nắp, vệ sinh, phụ thuộc rất

nhiều vào nội dung và cách giáo dục của chúng ta.Vì vậy việc tích hợp giáo
dục môi trường trong môn địa lí chính là sự cần thiết nhằm bồi dưỡng tình
yêu thiên nhiên, bồi dưỡng những xúc cảm, xây dựng cái thiện trong mỗi con
người, hình thành thói quen, kĩ năng bảo vệ môi trường.
III.2: Kiến nghị
- Giáo viên cần thường xuyên cập nhật thông tin trên các thông tin đại
chúng về các vấn đề môi trường để bồi bổ thêm kiến thức cho bản thân.
Nghiên cứu kĩ bài soạn để lồng ghép giáo dục môi trường khi có thể. Chú
ý phần giáo dục môi trường không đưa vào phần nội dung bài ghi.
- Về phía nhà trường thì Liên đội nên tổ chức thành lập câu lạc bộ về môi
trường để kết nạp các thành viên, hỗ trợ thêm cho đội cờ đỏ trong việc kiểm
tra vệ sinh trong và ngoài lớp học. Phối hợp với các tổ chuyên môn tổ chức
các sân chơi học tập tìm hiểu về môi trường và hành động vì môi trường
22
xanh- sạch- đẹp. Nhà trường nên tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động ngoại
khóa về bảo vệ môi trường
- Về phía địa phương: Cần đầu tư hơn nữa trong công tác giáo dục bảo vệ
môi trường, lực lượng Đoàn thanh niên kết hợp Liên đội tổ chức sinh hoạt
tuyên truyền về những nguy hại của môi trường khi bị ô nhiễm…
Trên đây là một số kinh nghiệm cũng như quan điểm của cá nhân tôi trong
quá trình giảng dạy, đặc biệt là phương pháp tích hợp bảo vệ môi trường trong
bộ môn địa lí THCS. Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên bài viết chủ yếu là
mang tính lý thuyết. Tôi rất mong sự góp ý bổ sung của đồng nghiệp để cho
đề tài phong phú hơn và có tính khả thi hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo giáo dục- thời đại- chuyên đề môi trường- Bộ GD-ĐT.
2. Giáo dục bảo vệ môi trường trong môn địa lí THCS: Nhà xuất bản Giáo
dục – Năm 2008. Tác giả: Nguyễn Hải Hà – Nguyễn Việt Hùng – Phan Thị
Lạc – Trần Thị Nhung - Phạm Thu Hương – Nguyễn Minh Phương
3. Sách giáo khoa Địa lí lớp 8 – Nhà xuất bản Giáo dục – Năm 2009

4. Sách giáo khoa Địalí lớp 9 – Nhà xuất bản Giáo dục – Năm 2009
5. Tranh ảnh về môi trường
Buôn Triết, ngày 08 tháng 03 năm
2014
Xác nhận của BGH Nhà trường Người viết
23
Nguyễn Thị Phi Nga

24

×