Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

sáng kiến kinh nghiệm dạy học văn tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.87 KB, 13 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
Dạy học văn tích cực
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Mục đích yêu cầu
Làm thế nào để dạy tốt và học tốt bộ môn văn? Môn ngữ văn là
môn học kết tinh nhiều giá trò văn hóa truyền và nhân loại. Với dân tộc
Việt Nam ta, văn chương là điều gắn bó thân thiết. Từ thû còn nằm nôi,
đứa bé đã được nâng niu, bồi dưỡng bằng văn chương qua lời hát ru âu
yếm, đạm đã. Khi được đi học, bài trước nhất phải là “học ăn, học nói”.
Tiếp đó, con người đi vào đời sống của dân tộc “vốn tự xưng là nền văn
hiến đã lâu”. Những thầy giáo từ hàng ngàn năm qua, đầu tiên vẫn là
thầy văn chương, đạo lý. Và mãi sau này nữa, người trẻ tuổi muốn thi vào
bất cứ trường đại học chuyên khoa nào, bài thi vẫn là bài thi văn.
Với chức năng là một người làm công tác giảng dạy trong nhà
trường bản thân tôi cũng nhận thấy rằng, ngày nay, số lượng học sinh sao
lãng trong việc học môn văn là tương đối. Đó cũng là vấn đề mà tôi trăn
trở bấy lâu . Với 10 năm làm công tác giảng dạy tôi nghiệm thấy rằng,
cái ước muốn học văn sao cho giỏi, dạy văn sao cho hay, viết văn sao cho
tốt là ước muốn của nhiều giáo viên và học sinh . Muốn thực hiện ước mơ
ấy thì phải thực sự tìm tòi trong văn chương nói riêng và trong văn hóa
nói chung. Tôi cố gắng chép lại vài ba kinh nghiệm thiết thực cho mình,
hy vọng trao đổi với đồng nghiệp, mong góp một phần nhỏ kinh nghiệm
của mình vào công tác dạy và bồi dưỡng học sinh để phần nào đó giúp
các em có hứng thú học tập hơn ở bộ môn văn. Để từ đó các em có thể
phát huy năng lực của mình để trở thành những học sinh giỏi văn thực sự.
Dù biết còn nhiều hạn chế nhưng tôi vẫn không ngừng cố gắng.
2. Thực trạng ban đầu.
+ Khi chưa áp dụng SKKN này:
* Đối với học sinh : Đa số các em ở trung tâm, lại có điều kiện rất
thuận lợi trong việc học tập và bồi dưỡng. Nhưng phần lớn trong số này
thì các em lại thích những môn học tự nhiên hơn, thậm chí có nhiều em


học đều tất cả các môn, trong đó học môn văn cũng rất là tốt nhưng khi
giáo viên đặt vấn đề gợi ý cho các em đi bồi dưỡng và thi học sinh giỏi
thì các em lại từ chối và chọn thi những môn tự nhiên như : Toán, Lí,
Hóa… Bởi các em cho rằng học văn đã khó rồi, viết văn lại càng khó hơn,
các em tâm sự rằng: “để có một bài văn hay, giàu cảm xúc đặc biệt là
phải đúng với yêu cầu của đề bài, các em thấy khó quá. Viết văn không
1
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
những viết đúng mà còn phải viết hay nữa, nên chúng em sợ không làm
được”. Do có những suy nghó như vậy nên đa số các em không đủ tự tin
để thử tài năng của mình. Chỉ có một số ít trong số các em đó có can đảm
tự tin chọn môn văn làm mục tiêu để thử năng lực của mình.
Còn có những em thì điều kiện gia đình có thừa khả năng cho các
em học tập, bồi dưỡng. Nhưng bản thân các em đó lại có những đam mê
cá nhân, mải chơi quên học. Phần thì ở ngay trung tâm thò xã nên có
nhiều trò chơi cuốn hút sự đam mê của các em, phần thì có tính ham chơi,
lười học nữa nên hầu như những em nào rơi vào tình trạng này đều rất
lười học. Giáo viên giảng bài trên lớp thì một số em ngồi dưới lớp nói
chuyện riêng, làm việc riêng không hề chú ý đến bài giảng của giáo
viên . Có khi vừa giảng xong là giáo viên hỏi lại vấn đề ngay mà học
sinh cũng không trả lời được. Mà bộ môn văn thì rất cần sự chú ý nghe
giảng để các em dần phát triển kó năng, tư duy, lập luận của mình .Bên
cạnh đó, cũng có nhiều em nhà ở rất xa trung tâm. Nếu xét về mặt tiếp
cận các trò chơi hiện đại trên Intơnét thì các em rất hạn chế. Nhưng khả
năng học và cảm nhận môn văn cũng không có gì tiến bộ hơn so với
những em khác. Bởi vì sao? Vì hoàn cảnh gia đình không thể tạo điều
kiện cho các em về mặt thời gian để học môn này. Trong khi đó bộ môn
văn là một bộ môn cần đầu tư thời gian rất là nhiều. Mà các em thì ngoài
thời gian học trên lớp ra, về đến nhà là buông tập vở lo lao động để phụ
giúp gia đình nên không có nhiều thời gian học tập. Gia đình, cha mẹ thì

lo làm ăn, không có thời gian quan tâm, nhắc nhở con em học tập, thiếu
tiền hỗ trợ cho con cái để mua các phương tiên học tập như, tài liệu, sách
tham khảo và các phương tiện học tập khác nữa. Trong khi đó, trình độ
văn hóa của cha mẹ có hạn nên không hướng dẫn, chỉ bảo được gì cho
con mình mà chủ yếu là khoán trắng cho các em tự lo. Nếu bố mẹ nào có
sự quan tâm thì cũng chỉ biết nhắc nhở là “ phải cố gắng học đi”,”lo mà
học đi”…… Còn các em thì vẫn cứ ngồi vào bàn nhưng chưa chắc đã học,
ngồi chỉ để đối phó với bố mẹ, để bố mẹ thấy là mình có ngồi học. Thậm
chí có những em ngồi vào bàn học nhưng đầu óc lại hướng vào những
cuốn truyện tranh, những trò chơi thường ngày, có khi còn đọc truyện
ngay trên bàn học mà bố mẹ không biết……Nên đối với những học sinh rơi
vào hai trường hợp trên thì giáo viên văn rất klhó bồi dưỡng cho các em
để trở thành những học sinh khá giỏi được. Thậm chí có những em học
lớp 7,8 rồi mà vẫn không viết được một lá đơn xin phép nghỉ học, hay
trình bày bố cục của một văn bản.
2
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
Tất cả những vấn đề nêu trên thực sự là một vấn đề nan giải đối
với tất cả mọi người. Đặc biệt là đối với những người làm công tác giảng
dạy như chúng tôi.
* Đối với giáo viên :
Số lượng giáo viên của trường tương đối đầy đủ ở tất cả các bộ
môn, 100% giáo viên đã đạt chuẩn, thậm chí số giáo viên đạt trên chuẩn
chiếm tỉ lệ khoảng 20% cán bộ công nhân viên chức, đồ dùng, trang thiết
bò và tài liệu giảng dạy… Cũng đã được trang bò tương đối đầy đủ nhưng
cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của giáo viên . Đặc biệt là đầu sách
tham khảo rất ít so với số lượng giáo viên dạy bộ môn. Hiện nay, xét về
mặt bằng chung của trường, tỉ lệ học sinh yếu, kém vẫn còn và tỉ lệ học
sinh trung bình cũng không phải là thấp. Phải chăng do chương trình đổi
mới mà kiến thức cao hơn? Hay là do hoàn cảnh gia đình không đủ điều

kiện để cho các em học tập và bồi dưỡng, nâng cao… Nhưng dù sao thì
trách nhiệm nâng cao chất lượng giảng dạy, giảm thiểu học sinh yếu,
tăng số lượng học sinh giỏi văn thuộc về các nhà quản lí, vẫn là các thầy
cô giáo chúng ta.
Với kinh nghiệm 10 năm dạy học, tôi nhận thấy rằng cần phải cải
tiến để nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là điều
kiện tất yếu. Nếu không, các em sẽ rất lơ là trong việc học tập và bồi
dưỡng bộ môn văn. Vậy, giải pháp nào để khắc phục tình trạng đó.
3. Giải pháp đã sử dụng:
Khi chưa cải tiến phương pháp mới, tôi chỉ đơn thuần là đi theo
phương pháp phân tích – tổng hợp. Tức là đầu tiên cho học sinh đọc văn
bản, tìm hiểu chú thích, tìm hiểu nội dung khái quát của văn bản. Từ đó
đi phân tích cụ thể từng hình ảnh, chi tiết để khắc sâu, cuối cùng tổng hợp
lại vấn đề một lần nữa. Và tôi chỉ sử dụng cứng nhắc một phương pháp
này trong nhiều năm và tôi cảm thấy hiệu quả không được khả quan. Bởi
vì những em có học lực khá trở lên thì còn có hứng thú học, còn đối với
những em có lực học trung bình trở xuống thì ngày càng lười học, lực học
xa sút vì theo không kòp, nguyên nhân là do các em không chòu soạn bài
mới trước ở nhà nên khi lên lớp, khi giáo viên giảng thì các em không
tiếp thu kòp nên dẫn đến lười học rồi chán học, dẫn đến tình trạng học để
đối phó chứ không hề có hứng thú, có sáng tạo trong bài làm của mình.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
3
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
Dựa vào đặc thù của bộ môn, dạy văn không chỉ là dạy đúng là đủ
mà còn phải dạy hay. Dạy đúng là phải dạy cho chắc kiến thức, nếu
phạm nhiều cái sai thì dù chó có có tài hoa, độc đáo đến đâu cũng không
cho là hay được.
Với chức năng là người làm công tác giảng dạy trong nhà trường,

tôi thấy hoạt động dạy học thể hiện ở kết quả học tập của người học sinh,
cụ thể là là bằng kết quả lên lớp hàng năm, kết quả đậu tốt nghiệp, số
lượng học sinh giỏi các cấp. Cho nên, vấn đề dạy học như thế nào để có
kết quả cao, giảm học sinh yếu kém tăng số lượng học sinh giỏi các cấp
là yêu cầu tất yếu của người giáo viên nhân dân.
Khi chọn đề tài này là muốn giúp học sinh nhận thức được sâu sắc
của về câu nói của nhà văn Gorki: “Văn học là nhân học”. Đúng vậy, với
thế mạnh riêng của mình, môn văn giúp người học tiếp xúc với vẻ đẹp kì
diệu và phong phú của tiếng mẹ đẻ, tiếp xúc với vốn văn học dân tộc và
nhân loại. Giúp cho chúng ta có một đời sống tâm hồn tốt đẹp, biết yêu
ghét rạch ròi, biết phân biệt bạn, thù, biết thông cảm với niềm đau, nỗi
bất hạnh của người khác. Bởi vậy nên văn học góp phần bồi dưỡng tâm
hồn, hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.
Văn học là để học cách làm người, học văn để tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại. Ngày nay, xã hội công nghệ khoa học phát triển chóng
mặt, nước ta cũng đang dần hội nhập chứ không hòa tan với các nước trên
thế giới. Quan diểm của mọi người là chú ý đến học văn, không xem nhẹ
các môn xã hội nhất là những môn được môn theo học sinh là những môn
học phụ. Mọi người quan niệm: “Văn chương hạ giới rẻ như bèo “ . chỉ
học giỏi các môn tự nhiên còn môn văn biết là được. Những người đâu có
biết được rằng, nếu môn học tự nhiên giúp ta tính toán, rèn luyện tác
phong khoa học, thì môn văn tạo cho học sinh phong cách sống, tiếp thu
những cái hay, tinh hoa văn hóa của nhân loại, của những con người có
tâm hồn trong sáng, có tư duy sáng tạo, bước đầu có những năng lực cảm
thú những gia trò văn hóa ở trên đời, mỏe rộng tầm hiểu biết. Văn học
còn giúp các em thêm yêu cuộc sống, yêu quê hương Đất nước và còn
giúp các em ấp ủ những ước mơ đẹp đẽ.
Đất nước ta là đất nước của thơ ca, ở đâu có cuộc sóng thì ở đó có
thơ ca:
“Thơ ca ơi hãy cất cao tiến hát.

Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta”
4
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
Chúng ta có quyền tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc mình, không
bò đồng hóa trước dòng văn học ngoại lai. Văn hóa giúp ta cảm nhận cuộc
sống tốt đẹp, có ý nghóa, cung cấp cho chúng ta vốn từ để tiếp súc với
văn bản. Vì vậy, con người muốn phát triển toàn diện thì phải chú trọng
học văn, môn văn cung cấp cho các em vốn từ Tiếng Việt để các em,
hiểu thêm tiếng Tiếng Việt, thêm yêu tiếng mẹ đẻ. Ví dụ khi phân tích sự
giàu đẹp của tiếng việt, để cho học sinh cảm nhận sâu sắc hơn về cái hay
cái đẹp của Tiếng Việt thì ta phải lấy dẫn chứng từ trong thơ, văn để
phân tích:
Ví dụ 1 : Bài thơ “Chinh phụ ngâm” rất hài hòa về nhòp điệu.
“ Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai”
Ví dụ 2 : “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
(Hài hòa về mặt ngữ âm)
( Xuân Diệu)
Ví dụ 3 : Phong phú về mặt từ vựng:
- Cùng chỉ người Mẹ, tiếng việt có nhiều cách gọi khác nhau :
Má, Bu,bầm…
- Những từ mới được bổ sung: Xà phòng, ra điô, Intơnet, vi tính,
tin học…….
Ví dụ 4 : Sự uyển chuyển, mượt mà được thể hiện trong lời văn của
Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng …
“ Cốm là thứ quà riêng biệt của Đất nước, là thức dâng của những
cánh đồng lúc bát ngát xanh mang trong hương vò của tất cả cái mộc mạc

giản dò và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”.
2. Giả thiết:
Với phương pháp cứng nhắc của mình, tôi thấy kết quả của học
sinh ở các khối lớp không có hiệu quả nên tôi đã quyết đònh thay đổi
phương pháp dạy mới bằng những cách sau:
- Trước khi phân tích một tác phẩm, người giáo viên không chỉ có
nghiên cứu kó SGK mà còn phải nghiên cứu các tài liệu có liên quan.
Đồng thời phải nhập tâm vào tác phẩm, trút bỏ những vướng bận của
cuộc sống thường nhật để hóa thân vào nhân vật, để lột tả những cảm xúc
vui, buồn, sướng, khổ của nhân vật như là của mình.
5
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
- Có phương pháp tích hợp giữa môn văn với các môn học khác.
- So sánh giữa nhà văn của thời đại này với nhà văn của thời đại
kia để làm nổi bật và khắc sâu thêm vấn đề.
- Trông quá trình giảng dạy, không nên cứng nhắc theo một phương
pháp nào mà có thể dùng linh hoạt đối với tất cả các phương pháp:
+ Ngoài phương pháp tích hợp ngang với các phân môn Tiếng Việt,
Tập làm văn, giáo viên còn cần phải phân tích hợp dọc các kiến thức bên
ngoài để làm cho bài văn thêm phong phú, sinh động. Đồng thời mở rộng
vốn từ cho học sinh .
Ví dụ như khi phân tích bài “ Sông núi nước Nam” của Lý Thường
Kiệt ta tích hợp với môn Tiếng Việt, cho học sinh hiểu nghóa của các yếu
tố Hán Việt, tích hợp với tập làm văn ở phương thức biểu đạt và ở văn
biểu cảm có yếu tố tự sự.
+ Kết hợp tất cả các phương pháp trong quá trình giảng dạy như:
Thuyết minh, vấn đáp, phân nhóm, thảo luận và tùy vào nội dung của
mỗi bài mà ta có thể sử dụng tranh, ảnh sau mỗi bài giảng để học sinh có
thể hình dung, tưởng tượng sáng tạo theo cách hiểu của mình. Từ đó các
em có thể vẽ phác họa theo cách hiểu của mình để mô phỏng lại nội

dung bài học.
+ Giáo viên không nên áp đặt cách hiêu của mình cho học sinh.
Học sinh là người chủ động lónh hội kiến thức, cảm thụ tác phẩm.Giáo
viên chỉ gợi ý bằng vài câu hỏi, các em thảo luận, trả lời câu hỏi ra giấy,
sau đó một em đại diện nhóm trả lời. Giáo viên cho thuyết trình khi muốn
chốt lại vấn đề.
+ Trong từng bài, giáo viên cần liên hệ với thực tế đời sống. Như
khi ta giảng bài về ca dao, tục ngữ thuộc chủ đề gia đình và xã hội, ta
phải hướng cho học sinh biết ăn nói lễ độ, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ,
biết ơn thầy cô giáo và các anh hùng liệt só đã hy sinh xương máu cho ta
cuộc sống, thanh bình như hôm nay.
+ Cho học sinh thấy được học văn trong nhà trường không phải chỉ
cốt để đủ điểm, để đạt được mức trung bình mà còn phải học để giỏi văn
nữa. Muốn học giỏi văn thì trước hết phải học học cho đủ bài, làm bài bài
đầy đủ, đạt kết quả trung bình và trên trung bình. Sau đó là phải có thêm
nhiều sự gia công khác nữa. Có những biện pháp khá cụ thể cho sự gia
công này bất cứ ai cũng thực hiện được. Chẳng hạn như: những bài đã
học ở lớp rồi về nhà cũng phải đọc đi đọc lại ở nhà nhiều lần, được
6
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
nghiền ngẫm, tìm hiểu thêm cho đến nơi đến chốn. Không nên chỉ bằng
lòng với kiến thức được cung cấp ở lớp, mà phải làm cho kiến thức ấy
được chắc hơn, sâu hơn. Muốn giỏi văn thì phải làm sao cho văn thấm
vào mình. Văn chương là câu chuyện nhập tâm, có tâm trí và có tâm hồn.
Thường có hình ảnh trong câu văn, những am điệu trong câu thơ cứ vương
vấn mình hàng ngày, hàng tháng, không phải vương vấn để đòi hỏi một
giải đáp kiến thức mà đó là một sự vương vấn trong rung động, trong cảm
thông. Bài văn nào được học trong nhà trường nếu các em thật sự quan
tâm, đều tạo cho học sinh sự vương vấn và gắn bó này. Chính cái vương
vấn, cái gắn bó ấy sẽ đưa các em vào thế giới văn chương và làm cho các

em yêu văn và thích văn hơn.
Và tất nhiên, muốn học giỏi văn, muốn viết văn hay hơn thì mỗi
người học sinh phải có cách phấn đấu riêng của mình. Đưới đây là chín
điều tâm niệm và cũng là những bí quyết muốn học giỏi văn, muốn viết
văn hay mà tôi muốn truyền đạt cho các em học sinh:
- Tạo hứng thú và duy trì hứng thú. Yêu cầu trước nhất của người
muốn giỏi văn là phải thích văn, có hứng thú về môn văn.
- Làm giàu ngôn ngữ: Làm nghề gì cũng vậy, nếu không có vốn
liếng tối thiểu thì làm sao cố thể khuyếch trương được sự nghiệp cho rộng
lớn sau này. Ngôn ngữ là cái vốn khởi đầu cho những ai muốn viết văn
hay.
- Học thuộc lòng là biện pháp để giỏi văn hiệu nghiệm.
- Phải chăm đọc sách.
- Nghệ thuật bắt chước để giỏi văn.
- Ba yêu cầu để giỏi văn: quan sát tinh tế, tưởng tượng dồi dào,
nghò luận chắc chắn.
- Bài học ngoài đời: Nó có tác dụng cung cấp cho chúng ta vốn
sống.
- Phấn đấu có cái riêng của mình.
- Công phu gọt dũa: Đây là công việc cuối cùng của người viết văn,
là khâu sửa chữa khi tác phẩm của mình đã hoàn thành.
3. Quá trình thử nghiệm sáng kiến:
Biện pháp cơ bản để nâng cao chất lượng học tập của học sinh là
cải tiến quá trình giảng dạy, giáo dục của người giáo viên trên lớp. Đảm
bảo chất lượng giảng dạy, giáo dục bắt đầu từ lớp 6 và cứ thế lên các lớp
tiếp theo. Nếu ở lớp dưới dạy học không có chất lượng thì các lỗ hổng
7
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
kiến thức cơ bản về phương pháp nhận thức, các khuyết tật ngày càng
chồng chất làm cho việc khắc phục chúng trở nên khó khăn hơn, nặng nề

hơn đối với đội ngũ giáo viên dạy ở những lớp trên. Nếu tình hình đó
càng kéo dài triền miên thì càng làm cho học sinh mất hứng thú học tập.
Bởi vậy nên ta phải áp dụng phương pháp mới vào từ lớp nhỏ nhất sau đó
dần dần lên lớp lớn
Thực trạng môn ngữ văn trong nhà trường là môn có vò trí vô cùng
quan trọng, giáo dục.
Môn ngữ văn trong nhà trường là môn có vò trí vô cùng quan trọng,
giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh, cung cấp kiến thức tự nhiên và
xã hội cho các em nên việc dạy môn văn trong nhà trường vừa có thuận
lợi nhưng cũng vừa gặp không ít khó khăn.
+ Thuận lợi : Nhờ sự đổi mới về phương pháp dạy học nên đã tạo
cho các em tính tự lập, phát huy sự sáng tạo, gây hướng thú cho học sinh
học tập
+ Khó khăn : Do đổi mới phương pháp dạy như vậy mà đồ dùng để
phục vụ cho bộ môn thì lại hạn chế. Tài liệu tham khảo ít ỏi , học sinh thì
học lệch . Do đó có một số học ít có thể là học lớp 7, lớp 8 rồi mà chưa
viết được lá đơn xin phép , chưa trình bày được một văn bản. Đối với
chúng ta, là người giáo viên chúng ta phải có những biện pháp, giải pháp
tạo cho các em yêu thích môn văn, học giỏi môn văn, hứng thú học môn
văn.
+ Trước tiên, chúng ta cần hiểu tâm lí học trò, vì học trò nhìn đời
bằng những gì hiển hiện ở bên ngoài chứ còn thực tế bên trong các em
chưa hiểu được một cách sâu xa. Do đó ta phải hướng cho các em tìm
hiểu những bậc thang kiến thức, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của một
tác phẩm văn học, khám phá nội dung nghệ thuật trong tác phẩm bằng
cách cho học sinh hoá thân vào trong tác phẩm, hiểu cuộc đời nhân vật
giống như cuộc đời thật của mình. Với lòng nhiệt tình và kiến thức của
giáo viên, cho các em những kiến thức thích thú tiếp nhận kiến thức qua
bài giảng. Người giáo viên khi giảng bài phải dùng những từ ngữ hay
giàu cảm xúc, đònh hướng thích hợp, kiến thức phong phú …

Ví dụ : Khi phân tích tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Lão Hạc
của Nam Cao. Giáo viên cần cho học sinh thấy được thân phận của người
nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám. Số phận của họ, nhất là
người bần nông thật đáng thương. Chò Dậu chỉ vì một suất sưu của chồng
8
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
mà phải bán đứa con gái thân yêu của mình . Trong cái xã hội phong kiến
thời nô lệ ấy, con người đánh thuế như thuế con vật, thuế hàng hoá … Còn
cảnh đói nghèo của Lão Hạc cũng như cảnh đời bi thương của hầu hết
những người nông dân khác, để rồi bò bọn thực dân, phong kiến hất ra
bên lề cuộc sống vv….Rồi từ đó cho học sinh hiểu rằng vì sao máu của
ông cha ta cứ lần lượt thấm hồng những trang sử đấu tranh quyết giành lại
từ tay kẻ thù bầu trời tự do, độc lập cho con cháu đời sau. Từ đó các em
có ý thức học tập để bảo vệ quê hương Đất nước mình.
Ví dụ: Khi giảng về tình “đồng chí” đồng đội trong bài “Đồng chí”
của Chính Hữu ở chi tiết “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Khi bình
giảng về tình đồng chí, đồng đội họ trao nhau những tình cảm không ồn
ào, không náo động nhưng bàn tay nói im lặng của sự cảm thông, cùng
nhau hứa hẹn lập công vượt qua mọi gian lao để xích lại nhau hơn, một
cái bắt tay thật chặt là biểu hiện tốt và không thể nói thành lì. Có lẽ giữa
đêm khuya lạnh lẻo họ muốn san sẻ hơi ấm qua bàn tay và họ trao nhau
những gì kín đáo nhất của cuộc đời. Ở chi tiết này ta có thể lấy thêm từ
bài “Nhớ” của Nguyên Hồng: “Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng” đến
việc “Qø chân tìm hơi ấm đêm mưa”. Vì tình đồng chí, đồng đội họ thổ
lộ những điều sâu kín nhất:
“Đằng nớ vợ chưa?
Đằng nớ! Còn chờ độc lập”
Sau lời đáp hồn nhiên ấy:
“ Cả lũ cười vang bên ruộng dưa
Nhìn o thôn nữ cuối nương dưa …”

Hoặc khi giảng về sự gian lao của người lính trong cuộc đời chiến
đấu “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh”, có thể lấy thêm ví dụ ở trong bài
thơ “Tây tiến” của Quang Dũngc ở câu:
“Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng”
Ngoài biện pháp đó giáo viên còn hướng dẫn cho học sinh tham
khảo tài liệu, rồi ghi chép những đoạn văn đoạn thơ hay vào trong “Sổ
tích lũy kiến thức”. Từ đó biến ngôn ngữ của mình trong khi làm bài viết,
giao tiếp trong cuộc sống, việc làm đó cũng giúp cho học tốt môn văn, đã
có lời nhắn nhủ những việc làm này:
“Mấy lời nhắn nhủ bạn nhỏ to
Muốn học văn nhớ cho một điều
Sách báo cứ đọc cho nhiều
9
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
Từ hay tiễng tốt ghi đều vào sổ tay
Thuộc lòng những đoạn văn hay
Những câu thơ đẹp ngày ngày chớ quên”
Khi học sinh có một số vốn từ phong phú người giáo viên lập dán ý
đònh hướng cho học sinh.
Ví dụ: Khi phân tích giá trò nhân đạo trong tác một số tác phẩm văn
học
+ Người giáo viên phải cho học sinh hiểu biết về quan niệm của xã
hội phong kiến ngày xưa, giá trò của tác phẩm văn học ngày xưa. Một tác
phẩm sống mãi với thời gian, được đề cao không chỉ trong ngôn ngữ hay
hay không mà qua tac sgiả muông nói gì? Giá trò bên trong, giá trò nhân
đạo của tác phẩm dưới xã hội phong kiến khi mà cuộc đời đầy rẫy những
bất công, khổ đau, những chuỗi ngày vất vả đau thương của những người
phụ nữ. Chính những lúc này ngòi bút của những nhà văn, nhà thơ chân
chính hướng về đau thương ấyviết những tác phẩm đầy yêu thương sau

sắc.
+ Đối với truyện Kiều của Nguyễn Du đã gãy đúng cung đàn của
những người phụ nữ, ngòi bút của ông viết lên bài ca hy vọng cho họ.
Một tia sáng lóe lên trong cuộc sống đen tối.
+ Với “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương bài thơ có sự ngọt
ngào và dư vò cay đắng thể hiện trong ấy. Hạnh phúc của người phụ nữ
thì mong manh còn khổ đau còn vô tận.
Xã hội ngày càng phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
vò thế của người phụ nữ càng được thể hiện rõ hơn họ là những người
năng động, sáng tạo trong mọi công việc đóng góp cho công cuộc xây
dựng tổ quốc…
Khi giáo viên lập dàn ý cung cấp thêm kiến thức cho học sinh làm
bài, đọc bài của mình tự nhận xét, giáo viên đònh hướng cho học sinh làm
bài hoàn chỉnh. Văn chương không cần đến ngững người thợ khéo tay làm
một vài kiểu mẫu cho, văn chương chỉ dung nạp những người đào sâu tìm
tòi, khơi những nguông chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có.
Người giáo viên khi đang dạy cho các em phải dạy hết tất cả không học
tủ, mỗi chủ đề tôi sẽ đònh hướng cung cấp từ các em. Ví dụ: Văn học lớp
9 tôi sẽ đi theo hướng chủ đề yêu nướcc trong văn học cổ, hình tượng
người phụ nữ, hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ, hình ảnh con người mới. Ra các đề cho các em làm hoặc thay
10
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
đổi việc kiểm tra bài cũ ở nhà bằng cách đặt câu hỏi , học sinh trả lời,
kích thích sự hoạt động của các em bắng hình thức nhận xét khen thưởng
trước lớp từ đó các có ý thức học tập tốt hơn.
Trong quá trình thử nghiệm, trong tổ cũng đã dự giờ, góp ý cho tiết
dạy của tôi và mọi người đều tán thành với phương pháp mới của tôi và
công nhận là có hiệu quả thiết thực.
4. Hiệu quả mới

Quả thật, khi tôi thay đổi cách sử dụng các phương pháp mới tích
cực hơn, tôi thấy các em có phần hứng thú học tập hơn. Bởi vì trong quá
trình dạy cứ một tuần, ngoài kiểm tra thường xuyên tôi lại kiểm tra xác
xuất một vài em về kiến thức đã học và mở rộng tôi thấy kết quả thật
đáng mừng, các em có hứng thú học tập hơn so với trước, sau mỗi câu hỏi
của bài học là các em có câu trả lời ngay và rất hăng hái phát biểu ý
kiến. Về nhà cũng đã chòu khó học bài cũ và đọc các bài viết trong SGK
và tham khảo nhiều bài viết khác ngoài SGK.
Đặc biệt là trong các kì thi thông tin phát hiện học sinh giỏi và thi
học sinh giỏi của nghành tổ chức tôi thấy số lượng các em tham gia dự thi
rất đông .
PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Kinh nghiệm cụ thể:
Với một vài kinh nghiệm mà tôi vừa nêu ra đây chỉ phù hợp với
việc dạy học văn trong nhà trường THCS. Vì những kinh nghiệm của tôi
bước đầu chỉ làm cho học sinh có hứng thú học tập để từ đó các em có sự
thích thú đam mê học tốt bộ môn mà lâu nay các em đã xem nhẹ.
2. Sử dụng sáng kiến kinh nghiệm
Để sử dụng tốt phương pháp này thì mọi người cần phải
* Đối với giáo viên:
Đọc kỹ tác phẩm, sưu tầm những tài liệu xung quanh tác phẩm như,
tiểu sử tác giả, cuộc đời sự nghiệp, bối cảnh lòch sử khi tác phẩm ra đời…
Những nhận xét đánh giá của những nhà phê bình văn học, nhà văn, nhà
thơ trong và ngoài nước về tác phẩm.
Dù là tiếng Việt hay tập làm văn, giáo viên cũng cần soạn giáo án
tỉ mó, kỉ cương, có chất lượng cả về phương pháp và nội dung. Mục đích
là truyền tải đầy đủ trọng tâm kiến thức, giúp học sinh hiểu bài nhanh
nhất.
11
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn

Đồng thời với giáo viên, người giáo viên cần chuẩn bò đồ dùng dạy
học thật chu đáo như tranh, ảnh minh họa, bảng phụ, các sơ đồ, biểu đồ
đối với phân môn Tiếng Việt.
• Đối với học sinh:
Phải soạn bài chi tiết theo hệ thống câu hỏi trong SGK đọc kó văn
bản, đọc được cả tác phẩm thì càng tốt. Tập phân tích, cảm nhận theo
cách riêng của mình.
Khai thác những vấn đề xung quanh tác phẩm như: Bối cảnh, cuộc
đời sự nghiệp, phong cách riêng của từng tác giả
3. Kết luận và kiến nghò
Nói chung cái gì cũng có hai mặt tác động qua lại thì mới có sự
thành công được. Về phía giáo viên muốn dạy văn tốt thì phải chọn
những giải pháp tốt nhất để gây hứng thú cho người học. Và hơn thế nữa
người giáo viên dạy văn phải có chất văn, có vốn văn thì mới có thể dạy
văn đúng và dạy văn hay được . Chất văn là một cái gì đó rất khó nói,
nhưng lại cũng rất dễ nhận ra. Chẳng hạn như phải có tâm hồn thi só, dù
không bao giờ làm thơ, thậm chí không làm thơ được. Không làm được
thơ nhưng lại hiểu được thơ.
Muốn có được chất văn thì cần phải có vốn văn phong phú muốn có
được vốn văn phong phú thì điều quan trọng trước tiên là phải yêu văn
chương. Nhưng cái vốn văn chương không chỉ nằm ở phạm vi văn học mà
còn ở chung quanh những văn liệu, cái vốn lòch sử, vốn phong tục của đất
nước, cái vốn ngoài đời… Mà người giáo viên dạy văn phải tìm cách tích
lũy.
Ngoài ra, người giáo viên phải biết rõ học lực và trình độ nhận thức
của các em, dù chỉ là những nhận biết sơ bộ nhưng để từ đó giáo viên
mới có thể đặt được việc giáo dục, giáo dưỡng của mình một cách có kết
quả, vừa truyền thụ kiến thức, vừa bồi dường tâm hồn. Trang bò kiến thức
cho các em, để rồi phát hiện, rồi nâng đỡ bồi dưỡng để hướng các em
phát huy được sở trường của mình.

Bên cạnh giáo viên là người đònh hướng và tác nhận xúc tác để
thúc đẩy việc học tập của học sinh thì sự say mê, ham học của các em
cũng rất cần thiết và phải kết hợp giữa thầy và trò. Người thầy cũng cần
có cái tâm trong nghề nghiệp, nhiệt tình giảng dạy thì kết quả sẽ thành
công.
12
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
Còn về phía học sinh, đòi hỏi phải tích lũy được những tri thức về
văn học, chính trò, đạo đức, lòch sử và những hiểu biết về cuộc sống để lí
giải những vấn đề đặt ra trong học tập, lao động, trong quan hệ với thầy
cô, bạn bè, cha mẹ, anh chò em trong gia đình, trong kiến thức thẩm
mỹ…….thu thập được vốn kiến thức như vậy thì các em mới có thể say mê
học văn, cảm thấy yêu thơ văn và yêu cuộc sống hơn.
Tóm lại: điều quan trọng nhất để chứng tỏ cái tài lên của người
giáo viên là phải biết biến hóa bài giảng của mình làm sao cho giờ dạy
đáp ứng được thực tế lên lớp. Thực tế lên lớp là gì? Nhiều lắm: là thực tế
tình hình học sinh trong giờ, trình độ của các em, tâm lí của các em và sự
chờ đợi tiếp cận cũng như khi đi sâu vào bài giảng; là thực tế chỉ cho bài
học phải đặt ra nhiệm vụ gì, yêu cầu giáo dục giáo dưỡng ra sao; lại cả
thực tế của bản thân giáo viên nữa. Nắm được thực tế ấy để xử lí bài: nếu
là bài văn cổ, văn dòch, văn nói về dân tộc thiểu số, văn liên quan đến
lòch sử, chính trò … thì phải tạo không khí khác nhau. Phải chuẩn bò đặt câu
hỏi như thế nào để giúp học sinh động não, phải lường trước ở chặng nào,
lúc nào thì có cách giải quyết như thế nào. Do đó, mà giò lên lớp sẽ rất
biến hóa: biến hóa ngôn ngữ, biến hóa thái độ, biến hóa không khí … thì
bài giảng mới có sự lôi cuốn.
Tất nhiên, khi giảng bài người giáo viên phải giữ đúng tư cách của
mình. Người thầy không phải là một diễn giả đi diễn thuyết, không phải
là một nghệ só lên sân khấu, cũng không phải là một nhà truyền đạo hay
là một pháp sư. Nhưng môn văn là một môn học có những lợi thế nói

trên, nên tùy từng lúc giáo viên phải mượn những thủ thuật, những kinh
nghiệm của các nhà chuyên môn để làm cho bài dạy của mình có kết qua
cao hơn. Có như thế thì giờ dạy mới sự sắc nét được
13

×