Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Việt Nam đang thời kỳ quá độ lên CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.33 KB, 21 trang )

Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội để rồi
phát triển lên một bước cao hơn đó là chủ nghĩa cộng sản một chế độ xã hội
mà ở đó quan hệ sở hữu là sở hữu công cộng, xã hội không còn giai cấp có
tính tự quản cao, làm theo nhu cầu. Con người được tự do phát triển toàn
diện. Đó là mục tiêu của loài người nói chung và cViệt Nam xuất phát từ một
nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển. Di sản của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp vẫn còn tồn tại khá nặng. Những hệ quả của
trạng thái bao cáo tư duy bao cấp vẫn còn, chưa thực sự sẵn sàng hội nhập.
Do vậy phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một của toàn Đảng toàn
dân. Muốn vậy phải phát triển kinh tế quốc dân, phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhủa nước ta nói riêng. Muốn xây dựng được một xã hội như vậy điều kiện
tiên quyết là phải phát triển lực lượng sản xuất.
à nước theo định hướng XHCN. Đây là giải pháp cơ bản để chuyển từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay. Biện chứng của quá trình
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ .
Phát triển kinh tế là vấn đề quan trọng nhát từ trước tới nay của xã hội loài
người. Kể từ khi con người xuất hiện , xã hội loài người đã trải qua và hình
thành xã hội : cuộc sống nguyên thuỷ , chiếm hữu nô lệ , phong kiến , tư bản
chủ nghĩa và đỉnh cao đang huớng tới xã hội chủ nghĩa . Tương ứng với mỗi
tình thái xã hội trong một hình thái kinh tế mang nét đặc trưng riêng . Tư bản
chủ nghĩa cũng vậy , đây là một giai đoạn mà của cải vật chất của xã hội được
sản xuất ra nhiều hơn tất cả các giai đoạn trước cộng lại . Một giai đoạn
chứng kiến bao sự biến đổi cả về mặt chất lẫn về mặt lượng của xã hội loài
người : kinh tế , khoa học kĩ thuật , chính trị , văn hoá Tuy nhiên trong giai
đoạn này cũng là một giai đoạn phát triển còn nhiều thiếu sót như phân biệt
giàu nghèo , khủng hoảng king tế , chiến tranh bất công bằng trong xã hội
Từ những khuyết tật đó , con người muốn hướng tới một xã hội ở đó con
người có quyền bình đẳng , không còn đói nghèo và áp bức bóc lột , vật chất
sản xuất ra có thể đáp ứng mọi nhu cầu của con người đó chính là chế độ xã
hội chủ nghĩa


Sau khi đập tan mưu toan của các nước đế quốc và các lực lượng phản
cách mạng trong nước nhằm tiêu diệt chính quyền Xô-viết, Lê-nin tuyên bố:
Trọng tâm toàn bộ hoạt động của Đảng và Nhà nước Xô-viết chuyển sang
việc tổ chức công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, những năm
chiến tranh đã làm cho nền kinh tế của nước Nga Xô-viết rơi vào tình trạng vô
cùng suy sụp và kiệt quệ. Lợi dụng những khó khăn trong nước và sự bất mãn
của nhân dân lúc bấy giờ, những phần tử phản cách mạng theo phái dân chủ
lập hiến, "xã hội chủ nghĩa cách mạng", men-sê-vích, dân tộc chủ nghĩa tư
sản, chủ nghĩa vô chính phủ đã điên cuồng chống phá chính quyền cách
mạng. Thực tế trên cộng với sự dao động của một bộ phận đảng viên càng
làm cho tình hình chính trị trong nước những năm đầu tiên sau thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười trở nên khó khăn và nghiêm trọng hơn.
Trong hoàn cảnh đầy cam go như vậy, ở bước chuyển giai đoạn của cách
mạng, Mác-Lênin đã đề xuất những quan điểm, đặc biệt là những quan điểm
kinh tế hết sức sáng tạo, độc đáo, đúng đắn, khoa học và cách mạng. Những
quan điểm kinh tế của Người không chỉ là những giải pháp cụ thể cho một
tình hình cụ thể, mà còn chứa đựng những chân lý, những nguyên lý, nguyên
tắc của quản lý kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và của việc
quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nói chung.
Quan điểm chỉ đạo của Lê-nin về việc xây dựng và phát triển chính sách
kinh tế trong thời kỳ quá độ được khởi đầu từ việc Người soạn thảo bản
Cương lĩnh về những biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ trước khi nổ ra
Cách mạng tháng Mười. Những biện pháp này đã được triển khai vào cuộc
sống trong khoảng thời gian từ tháng 10-1917 đến tháng 5 - 1918. Trong các
tác phẩm viết vào thời gian này, Lê-nin đã đưa ra hàng loạt các luận điểm cốt
lõi làm cơ sở lý luận cho việc chấn hưng và phát triển kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kinh tế này sau đó được tiếp tục phát
triển và hoàn thiện dần qua nhiều tác phẩm mà Người viết vào những năm
1921-1923.
Theo quan điểm của Lê-nin, chính sách kinh tế của đảng không phải là

chính sách chỉ dành riêng cho một thành phần kinh tế nào đó. Chính sách kinh
tế của đảng càng không phải chỉ là tổng số giản đơn các hoạt động kinh tế.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối chung của
đảng, chính sách kinh tế phản ánh những mối quan hệ về mặt kinh tế giữa các
giai cấp, và trong phạm vi những mối quan hệ ấy, chính sách kinh tế đóng vai
trò là "kế hoạch", "phương pháp" hay "chế độ hoạt động" phục vụ công cuộc
xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
Phân tích tính chất quá độ của nền kinh tế, Lê-nin đã chỉ rõ 5 thành phần
kinh tế tồn tại ở Nga khi đó: Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một
phần lớn có tính chất tự nhiên; sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm đại
đa số nông dân bán lúa mì); chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà
nước; chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế nhiều thành phần này, thành phần
những người tiểu nông sản xuất nhỏ (mà chủ yếu là nông dân) chiếm phần
đông dân cư. Với đặc điểm đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể giành
thắng lợi trong điều kiện liên minh chặt chẽ giữa giai cấp vô sản nắm chính
quyền với đa số nông dân. Vấn đề này không những được khẳng định như
một giá trị phổ biến trong chính sách kinh tế của đảng ở thời kỳ quá độ, như
một nguyên tắc bắt buộc đối với tất cả các nước tiểu nông bước vào con
đường phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là một đòi hỏi đối với
những đảng cộng sản cầm quyền phải biết phân tích kỹ lưỡng những đặc điểm
của nước mình trong khi triển khai chính sách kinh tế.
Bước ngoặt mang tính sáng tạo đầu tiên có ý nghĩa quyết định trong quan
điểm kinh tế của Lê-nin chính là quyết định thực hiện thuế lương thực thay
cho chế độ trưng thu lương thực thừa ngay từ những ngày đầu tháng 2-1921.
Bước ngoặt này đồng thời là sự mở đầu cho việc chấm dứt "Chính sách cộng
sản thời chiến"- một chính sách buộc phải thực hiện như một giải pháp tình
thế trong những năm chiến tranh- và ra đời của chính sách kinh tế mới (NEP).
Việc thực hiện thuế lương thực đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho
nền kinh tế nông dân đi vào ổn định và khởi sắc. Ngoài ra, nó không những
tạo khả năng thực tế bảo đảm sự hình thành các mối liên kết kinh tế giữa kinh

tế nông dân với công nghiệp, mà còn củng cố vững chắc khối liên minh công
nông.
Kinh nghiệm thực tiễn qua thời gian ngắn cho thấy, không thể duy trì việc
tự do buôn bán trong phạm vi trao đổi hàng hóa mang đặc tính của một thị
trường mở với lưu thông tiền tệ, trong lúc hoạt động thương nghiệp hợp tác
còn yếu, thương nghiệp quốc doanh hầu như còn trống vắng và thị trường đa
phần nằm trong tay tư thương. Mặt khác, trên thực tế, thị trường và những
quan hệ hàng hoá - tiền tệ không chỉ đáp ứng lợi ích của người nông dân mà
còn góp phần chấn hưng nền kinh tế của nước Nga Xô-viế. Khi thị trường và
các quan hệ hàng hoá - tiền tệ đã trở thành một thực tế trong đời sống kinh tế
đất nước, Lê-nin cho rằng chỉ "rút lui" khỏi "Chính sách cộng sản thời chiến"
thôi vẫn chưa đủ, mà "cần kéo dài cuộc rút lui nữa, rút lui xa hơn nữa". Thực
chất của cuộc "rút lui xa hơn nữa" là thay việc trao đổi kinh tế giữa công
nghiệp với kinh tế nông dân như đã thực hiện trước đây bằng việc mua bán
thông thường thông qua quan hệ hàng hoá-tiền tệ, "chừng nào chúng ta chưa
đủ sức thực hiện trao đổi hàng hoá, tức là cung cấp sản phẩm công nghiệp cho
nông dân- chừng đó nông dân còn buộc phải sống trong điều kiện có những
tàn tích của lưu thông hàng hoá (do đó của lưu thông tiền tệ) với thế phẩm của
nó.Chừng nào chưa cung cấp được cho nông dân những cái loại trừ được sự
cần thiết phải có thế phẩm (tiền) thì bãi bỏ thế phẩm đó là không đúng về mặt
kinh tế". Từ đây, Lê-nin quyết định: cho phép tư bản tư nhân sử dụng thương
nghiệp và các quan hệ hàng hoá - tiền tệ nhưng với những mức độ nhất định
và trong những thời hạn nhất định. Điều quan trọng là làm cho thương nghiệp
và các quan hệ hàng hoá - tiền tệ từ chỗ là công cụ của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa trở thành phương tiện hữu hiệu trong xây dựng nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Để thực hiện mục tiêu này, theo Lê-nin, nhà nước chuyên chính vô sản
phải giải quyết tốt hai nhiệm vụ có liên hệ chặt chẽ với nhau: một là, điều tiết
thương nghiệp và lưu thông tiền tệ (giám sát, kiểm tra, quy định các hình
thức, trình tự ); hai là, nắm lấy thương nghiệp, thị trường và các quan hệ
hàng hoá- tiền tệ vì lợi ích của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong nhiều bài viết, bài phát biểu và cả những bức thư cuối đời, Lê-nin
luôn đánh giá thương nghiệp và những quan hệ hàng hoá - tiền tệ không phải
với tư cách là biện pháp tạm thời khôi phục lại những mối liên kết kinh tế
giữa thành thị và nông thôn mà với tư cách một quan điểm cơ bản trong chính
sách kinh tế của đảng trong suốt cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lẫn
trong giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cùng
với đánh giá đó, Lê-nin nhấn mạnh sự cần thiết phải khắc phục nhận thức sai
lầm của một số cán bộ đảng và nhà nước cho rằng: chủ nghĩa xã hội và thị
trường là hai vấn đề không thể dung hợp được, là những hiện tượng rất xa lạ
với nhau và không có liên hệ gì với nhau. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội và
kinh tế thị trường không những có thể mà còn cần thiết phải được kết hợp lại
với nhau, bởi sự kết hợp ấy tạo khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.
Nếu như trong học thuyết của Mác, vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chưa được bàn tới, thì
đến Lê-nin, những luận điểm chung về chủ nghĩa tư bản nhà nước với tư cách
là một thành phần kinh tế trong điều kiện chuyên chính vô sản đã được Người
phân tích cặn kẽ. Thành phần đó, theo đánh giá của Lê-nin, là "một bước tiến
so với tình hình trong nước cộng hoà Xô-viết" khi đó. Người đã luận chứng
một cách toàn diện các khả năng sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước vào mục
đích thực hiện thành công bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì có thể hạn
chế và quy định giới hạn phát triển hoạt động của chủ nghĩa tư bản nhà nước,
nên nó "không đáng sợ, mà đáng mong đợi. Học tập chủ nghĩa tư bản nhà
nước"(2). Và, Lê-nin đã đề cập đến việc sử dụng các hình thức cụ thể của
thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ. Nếu trong lĩnh vực
sản xuất các hình thức đơn giản nhất của nó là tô nhượng và cho thuê, thì
trong lĩnh vực phân phối, các hình thức này là hợp tác xã tiêu thụ và thu hút
các nhà tư bản với tư cách là thương nhân trả tỉ lệ tiền hoa hồng. Đáng tiếc là
sau khi Lê-nin mất, việc áp dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện
nước Nga Xô-viết đã bị hạn chế. Bởi thế, trên thực tế, nó không đóng vai trò

quan trọng trong nền kinh tế Liên Xô thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên, khả năng sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước có lợi cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội như sự chỉ dẫn của Lê-nin đã được khẳng định trong
thực tiễn ngày nay ở những nước tiếp tục khẳng định con đường phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những phân tích trên đây chưa phản ánh được tất cả sự phong phú và sâu
sắc trong tư duy kinh tế của Lê-nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội -
một tư duy lô-gíc, biện chứng, hết sức khoa học và cách mạng. Đằng sau
những biện pháp cụ thể để phục hồi kinh tế trên tất cả mọi lĩnh vực là quan
điểm về sử dụng và phát huy mọi thành phần kinh tế vào phát triển lực lượng
sản xuất; về mở rộng và phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ; về các nguyên
tắc của quản lý kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về quan hệ
giữa kinh tế, tư tưởng và tổ chức; về vai trò của nhân tố chủ quan trong quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong thời kỳ quá độ v.v Những
quan điểm của Lê-nin vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn trong
công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Lý luận về hình thái kinh tế- xã hội của C.Mác
cho thấy sự biến đổi của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý
luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật vận động của nó,
C.Mác và Ph. Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới- xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Đồng thời C.Mác và Ph. Ănghghen cũng dự báo trên những nét lớn về những
đặc trưng cơ bản của xã hội mới, đó là: có lực lượng sản xuất xã hội cao; chế
độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người
bị thủ tiêu; sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội,
nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn
xã hội, sự phân phối sản phẩm bình đẳng; sự đối lập giữa thành thị và nông
thôn, giữa lao động trí óc và chân tay bị xóa bỏ
Để xây dựng xã hội mới có những đặc trưng như trên cần phải qua hai

giai đoạn: giai đoạn thấp hay giai đoạn đầu và giai đoạn sau hay giai đoạn
cao. Sau này V.I.Lênin gọi giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau
là chủ nghĩa cộng sản. C.Mác gọi giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa là thời kỳ
quá độ chính trị lên giai đoạn cao của xã hội cộng sản.
Vận dụng học thuyết C.Mác vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô trước đây, V.I.Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Như mọi người đều biết, tình trạng kinh tế của nước Nga Xôviết sau nội
chiến vô cùng tồi tệ: “Hậu quả của nội chiến đạt tới mức độ khổng lồ”, tình
trạng phân tán và tản mạn của những người tiểu sản xuất, sự nghèo đói, vô
văn hoá và mù chữ của họ, mối liên hệ trao đổi hàng hóa giữa thành thị và
nông thôn bị ngừng trệ. Nội chiến những năm 1918 - 1920 làm khánh kiệt đất
nước, cản trở công việc tái thiết lực lượng sản xuất vốn đã bị tàn phá nặng nề.
Thêm vào đó là nạn mất mùa năm 1920, nạn dịch súc vật; vì vậy tăng thêm
những vùng bị đói, việc đó lại càng cản trở việc khôi phục giao thông và công
nghiệp.
Theo đà ngày càng suy thoái của tình trạng kinh tế đất nước, tình thế
chính trị cũng tiếp tục trầm trọng hơn. Khá phổ biến là sự dao động về chính
trị của người tiểu sản xuất. Cuộc nổi loạn ở Crônstát và cuộc khởi nghĩa của
nông dân ở vùng Tambốp đã thể hiện một cách đặc trưng cho sự dao động của
tầng lớp tiểu tư sản và tính tự phát của nông dân nói chung. Những sự kiện
diễn ra vào mùa xuân năm 1921 chứng tỏ Đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng
và những người mensêvích muốn thực hiện “chuyển giao chính quyền” cho
những phần tử tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng này đã
được V.I.Lênin chỉ rõ rằng, đó là do “chúng tôi đã tiến quá xa trong cuộc tấn
công về mặt kinh tế… Chúng tôi chưa đủ sức để chuyển trực tiếp sang những
hình thức thuần túy xã hội chủ nghĩa, sang việc phân phối thuần túy xã hội
chủ nghĩa; và nếu chúng tôi lại tỏ ra không có khả năng lùi bước, để chỉ đóng
khung trong những nhiệm vụ dễ hơn mà thôi, thì có lẽ chúng tôi đã bị nguy cơ
diệt vong rồi”.Như mọi người đều biết, tình trạng kinh tế của nước Nga

Xôviết sau nội chiến vô cùng tồi tệ: “Hậu quả của nội chiến đạt tới mức độ
khổng lồ”, tình trạng phân tán và tản mạn của những người tiểu sản xuất, sự
nghèo đói, vô văn hoá và mù chữ của họ, mối liên hệ trao đổi hàng hóa giữa
thành thị và nông thôn bị ngừng trệ. Nội chiến những năm 1918 - 1920 làm
khánh kiệt đất nước, cản trở công việc tái thiết lực lượng sản xuất vốn đã bị
tàn phá nặng nề. Thêm vào đó là nạn mất mùa năm 1920, nạn dịch súc vật; vì
vậy tăng thêm những vùng bị đói, việc đó lại càng cản trở việc khôi phục giao
thông và công nghiệp.
Theo đà ngày càng suy thoái của tình trạng kinh tế đất nước, tình thế
chính trị cũng tiếp tục trầm trọng hơn. Khá phổ biến là sự dao động về chính
trị của người tiểu sản xuất. Cuộc nổi loạn ở Crônstát và cuộc khởi nghĩa của
nông dân ở vùng Tambốp đã thể hiện một cách đặc trưng cho sự dao động của
tầng lớp tiểu tư sản và tính tự phát của nông dân nói chung. Những sự kiện
diễn ra vào mùa xuân năm 1921 chứng tỏ Đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng
và những người mensêvích muốn thực hiện “chuyển giao chính quyền” cho
những phần tử tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng này đã
được V.I.Lênin chỉ rõ rằng, đó là do “chúng tôi đã tiến quá xa trong cuộc tấn
công về mặt kinh tế… Chúng tôi chưa đủ sức để chuyển trực tiếp sang những
hình thức thuần túy xã hội chủ nghĩa, sang việc phân phối thuần túy xã hội
chủ nghĩa; và nếu chúng tôi lại tỏ ra không có khả năng lùi bước, để chỉ đóng
khung trong những nhiệm vụ dễ hơn mà thôi, thì có lẽ chúng tôi đã bị nguy cơ
diệt vong rồi”
Như mọi người đều biết, tình trạng kinh tế của nước Nga Xôviết sau
nội chiến vô cùng tồi tệ: “Hậu quả của nội chiến đạt tới mức độ khổng lồ”,
tình trạng phân tán và tản mạn của những người tiểu sản xuất, sự nghèo đói,
vô văn hoá và mù chữ của họ, mối liên hệ trao đổi hàng hóa giữa thành thị và
nông thôn bị ngừng trệ. Nội chiến những năm 1918 - 1920 làm khánh kiệt đất
nước, cản trở công việc tái thiết lực lượng sản xuất vốn đã bị tàn phá nặng nề.
Thêm vào đó là nạn mất mùa năm 1920, nạn dịch súc vật; vì vậy tăng thêm
những vùng bị đói, việc đó lại càng cản trở việc khôi phục giao thông và công

nghiệp.
Nhờ có việc áp dụng chính sách kinh tế mới NEP đúng thời điểm, mà
chính quyền Xô viết đã nhanh chóng thoát ra cuộc khủng hoảng, mặc dù xuất
phát điểm kinh tế lạc hậu và kiệt quệ ảnh hưởng nặng nề từ nội chiến.
Năm 1921, sau hậu chiến, ngay lập tức Lênin đã đề xướng việc áp dụng
Chính sách kinh tế mới (NEP) thay cho chính sách "cộng sản thời chiến". Là
một nước nông nghiệp nên nội dung quan trọng đầu tiên của của NEP hướng
về nông dân, thực hiện chế độ thu thuế lương thực, cho phép người nông dân
sau khi nộp thuế cho nhà nước được tự do buôn bán, trao đổi sản phẩm. Cơ
chế này đã khuyến khích hàng hóa sản xuất nhiều và lưu thông nhanh chóng,
quyền lợi của người nông dân tỷ lệ thuận với sự tích lũy của xã hội.
Trong chính sách kinh tế mới, Lênin cũng tháo bỏ cơ chế giao nộp, trưng
thu củhóa, phương thức này đã làm hồi sinh các ngành kinh tế và toàn bộ xãa
chính sách cộng sản thời chiến, mà thay vào đó là cơ chế trao đổi hàng hội cả
ở thành thị và nông thôn đáp ứng cung và cầu theo sự vận hành của thị trường
hàng hóa. Dấu ấn nổi trội trong chính sách kinh tế mới được nhắc đến nhiều
nhất khi Lênin đưa ra công thức: CNXH = Chính quyền xô viết + Điện khí
hóa. Lê nin cũng cho rằng, muốn thực sự xây dựng được CNXH thì phải học
hỏi và tiếp nhận những thành tựu khoa học và phương pháp quản lý của
CNTB.
Ông Hoàng Ngọc Hòa, Nguyên Viện trưởng Viện kinh tế phát triển, Học
viện HCQG HCM: “Trong bối cảnh của nước Nga lúc đó, Lênin nói là muốn
có CNXH thì phải tiếp nhận tiếp thu những tinh hoa, trí tuệ, thành tựu khoa
học công nghệ của CNTB mà Lênin đánh giá đó là của Đức, Mỹ và các nước
tư bản phát triển. Đó là những thành tựu mà CNXH phải kế thừa và phải biết
tiếp nhận để tạo nên cơ sở vật chất thì mới có CNXH thực sự”.
Những quan điểm của Lênin trong chính sách kinh tế mới còn đề cập đến phát
triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ kinh tế thị
trường. Lênin cũng khuyến khích hợp tác kinh tế với nước ngoài để tiếp thu
những tiến bộ của các nền kinh tế phát triển. Lênin đã nhìn nhận CNTB ở

những khía cạnh tích cực và chủ trương sử dụng những tiến bộ của CNTB để
xây dựng XHCN ở những nước kinh tế chậm phát triển. Với việc vận dụng
chính sách kinh tế mới phù hợp, nên chỉ sau đó khoảng 4-5 năm, nước Nga đã
vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, là tiền đề cho sự phát triển sau
này .
Ông Trần Nguyên Tuyên, Vụ trưởng Vụ Tây Bắc Âu - Bắc Mỹ, Ban Đối
ngoại TW Đảng: “Chính sách kinh tế mới của Lênin cốt lõi là ở chỗ tư duy
CNXH sử dụng phương pháp mới, nhận thức mới về CNXH, với sự thừa nhận
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần và việc sử dụng mối quan hệ kinh tế
giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, việc sử dụng
các hình thức kinh tế quá độ để xây dựng CNXH, và chúng ta biết rằng, đó là
những nhận thức rất mới, hoàn toàn khác với giai đoạn trước đây CNCS thời
chiến”.
Những ý tưởng mới mẻ về sự đột phá của Lênin trong việc quyết định từ
bỏ cơ chế “Cộng sản thời chiến” chuyển sang thực hiện “Chính sách kinh tế
mới” nhằm tiến hành một sự cải tổ quan trọng, đã cung cấp cho Việt Nam cơ
sở lý luận và thực tiễn để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng sâu sắc về kinh tế -
xã hội trong những năm cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 của thế kỷ 20.
Và những thành tựu trong 20 năm Đổi mới của Việt Nam đã chứng minh rõ
ràng nhất, sống động nhất nhiều luận điểm của Lênin trong chính sách kinh tế
mới hoàn toàn đúng đắn và vẫn nKhi tổ quốc còn đang bị thực dân nước
ngoài dày xéo, theo Hồ Chí Minh trong điều kiện nước ta- sản xuất nhỏ lạc
hậu, có chiến tranh, cho nên phải phát triển nhiều thành phần kinh tế. Tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển ở nước ta lúc này trước hết để
tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Nền sản xuất nhỏ lạc hậu, năng suất
lao động thấp, sản phẩm làm ra không đủ đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Trong khi đó kẻ thù lại đánh phá ác liệt, bao vây cô lập cách mạng Việt Nam.
Để đảm bảo cuộc sống của nhân dân, để cung cấp kịp thời cho cuộc kháng
chiến ngày càng phát triển và mở rộng, tất yếu chúng ta phải phát triển nhiều
thành phần kinh tế.

Hơn nữa mỗi thành phần kinh tế bao giờ cũng có một giai cấp, tầng lớp
xã hội đại diện. Quan tâm phát triển các thành phần kinh tế cũng có nghĩa là
quan tâm đến lợi ích của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. từ đó mới có
thể đoàn kết được mọi lực lượng trong dân tộc, cô lập kẻ thù, tăng cường sức
mạnh cho cuộc kháng chiến. Như vậy, phát triển nhiều thành phần kinh tế của
nước ta lúc này không chỉ để tạo ra nhiều sản phẩm, đáp ứng yêu cầu đa dạng
phức tạp trong xã hội, mà điều quan trọng hơn là để đoàn kết tất cả các lực
lượng trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm đẩy mạnh sản xuất, phục vụ
đắc lực cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.
Trong “Thường thức chính trị” viết vào năm 1953 Hồ Chí Minh cho rằng
nước ta (vùng tự do) nên kinh tế còn tồn tại những thành phần kinh tế: Kinh tế
địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh có tính chất xã hội chủ
nghĩa; kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công
nông thôn, có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa; kinh tế cá nhân của nông dân và
của thủ công mỹ nghệ; kinh tế tư bản của tư nhân; kinh tế tư bản quốc gia.
Phát triển các thành phần kinh tế trên là để thực hiện chính sách kinh tế
của Đảng và Chính phủ nước ta lúc đó là: Công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi,
công nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài.
Như vậy, ngay trong điều kiện kháng chiến, Hồ Chí Minh đã thấy được
tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta bảo đảm sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất còn là thủ công lạc
hậu manh mún hiện có. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần lúc
đó vừa là để kiến thiết đất nước, vừa là để phục vụ kịp thời cho cuộc kháng
chiến lâu dài gian khổ của nhân dân. Nó vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt đoàn
kết tất cả các lực lượng có thể đoàn kết được trong dân tộc, đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi, vừa đáp ứng yêu cầu lâu dài của cách mạng Việt Nam là
xây dựng chế độ dân chủ mới tạo tiền đề từng bước, tiến lên theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, tư tưởng xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần của Hồ Chí Minh vẫn là tư tưởng chỉ đạo rất quan

trọng để đưa nền kinh tế từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ sản xuất nhỏ đi lên, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần còn là lâu
dài ở nước ta. Đã có một thời, do nóng vội, chủ quan, chúng ta đã cố tình
dùng biện pháp hành chính, cưỡng bức để xóa đi các thành phần kinh tế “ phi
xã hội chủ nghĩa”, và tưởng rằng như thế là sớm có chủ nghĩa xã hội. Chúng
ta không hiểu rằng làm như vậy là trái với quy luật khách quan, là triệt tiêu cả
nhiều mặt tích cực của các thành phần kinh tế mà lẽ ra nó phải được nuôi
dưỡng, khuyến khích để phục vụ xã hội, để hỗ trợ cho thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa mới ra đời còn rất non yếu. Đó là một trong những nguyên nhân
dẫn nước ta lâm vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong
đó có đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức
rất phong phú, đa dạng và sáng tạo. Nhờ đó, chỉ sau hơn 10 năm, vẫn những
con người ấy, cũng những điều kiện tự nhiên ấy, từ một đất nước thiếu ăn
quanh năm, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ bên ngoài; hàng tiêu dùng
khan hiếm, người lao động không có việc làm… đã trở thành một đất nước
không những đủ ăn, mà còn có lương thực, thực phẩm dự trữ và đến nay xuất
khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới; nhu cầu tiêu dùng trong nước được thỏa
mãn về nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển, nền kinh tế – xã hội sôi động,
đất nước không ngừng phát triển. Chính nhờ đổi mới cơ chế, chính sách nhằm
không ngừng phát triển các thành phần kinh tế, các tiềm năng của xã hội được
khai thác, nội lực được phát huy, sức mạnh của bên ngoài được huy động.
Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận
trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Từ chỗ
không thừa nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận kinh
doanh nhỏ ở một số ngành nghề, đến chỗ không hạn chế về quy mô và lĩnh
vực mà luật pháp không cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ được làm, mỗi lần
thay đổi tư duy như vậy là một lần nhận thức của chúng ta được mở rộng, sâu
thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế phát triển. Những biến
đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng góp quan trọng vào tăng

trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội cho những chủ thể kinh tế, các
doanh nhân mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách
nhiệm với mình và với đất nước.
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định thực hiện nhất
quán nền kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên và được coi như một
giải pháp chiến lược góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát
triển lực lượng sản xuất. Nghị quyết Trung ương 6, khóaVI, chỉ rõ: "Trong
điều kiện nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu nền kinh tế
hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội". Đại hội VIII của Đảng nêu 5 thành phần
kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá
thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX của Đảng xác định, ở nước ta
hiện nay, cần phát triển 6 thành phần kinh tế, tức là ngoài 5 thành phần kinh
tế nêu trên, có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và nhấn
mạnh các thành phần kinh tế đó đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Có thể nói
đây là quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt,
nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân, đơn vị, tập thể khai thác phát huy mọi tiềm
năng, nội lực, tạo ra một tổng hợp lực thật sự cho việc phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xác
định và phát triển các loại hình sở hữu, phân định các thành phần kinh tế là
cần thiết, hợp quy luật làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển
kinh tế nói chung và tạo điều kiện cho từng thành phần kinh tế nói riêng phát
triển, phát huy được mọi nguồn sức mạnh, giải phóng mọi năng lực sản xuất,
hỗ trợ thúc đẩy, cạnh tranh lẫn nhau làm cho nền kinh tế của đất nước thực sự
năng động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những thành phần kinh tế này có diện mạo riêng nhưng đều nằm trong

sự thống nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lâu dài,
vừa hợp tác vừa cạnh tranh lành mạnh góp phần phát triển vững mạnh nền
kinh tế nước ta trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với
kinh tế khu vực và thế giới.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà
nước, các tài nguyên quốc gia và các tài sản sở hữu nhà nước như hầm mỏ,
đất đai, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống
bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác…
Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể
hiện ở "làm đòn bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã
hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát
triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và
quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới".
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất
quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ
mô. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và
công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp
luật.
Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh càng gay gắt thì những
người lao động riêng rẽ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có
yêu cầu phải liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển. Vì thế, phát
triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã là con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa
sản xuất nhỏ manh mún với sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế hợp tác là hình thức kinh tế mang tính tập thể, xã hội hóa, là
nhân tố quan trọng để xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó giáo dục ý thức cộng đồng, tinh thần
hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên xã hội, giữa các thành phần kinh
tế để sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật.

Hợp tác xã kiểu mới đã khắc phục những hạn chế của hợp tác xã kiểu cũ.
Nó do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân (người lao động, hộ
gia đình, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ…), cả người ít vốn và người
nhiều vốn, người góp sức hoặc góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tự nguyện,
tôn trọng các nguyên tắc, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Hợp tác
xã không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên mà dựa trên sở
hữu của các thành viên và sở hữu tập thể. Tổ chức và hoạt động của hợp tác
xã không bị giới hạn bởi quy mô, lĩnh vực và địa bàn, hoàn toàn tự chủ trong
sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường. Hình
thức phân phối vừa theo lao động, vừa theo cổ phần và mức độ tham gia, dịch
vụ…
Với những ưu việt như vậy, Đại hội IX của Đảng xác định: Kinh tế tập
thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác xã đa dạng. Nhà nước phải giúp đỡ
hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học – công nghệ, nắm bắt thông tin,
mở rộng thị trường… để cùng với kinh tế nhà nước ngày càng giữ vai trò nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đại hội IX của Đảng coi kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng,
lâu dài. Loại hình kinh tế này xuất hiện và phát huy tác dụng ở cả thành thị và
nông thôn, cả trong nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, thương mại và dịch
vụ. Sự phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa
gắn với thị trường có vai trò quan trọng trước mắt cũng như lâu dài trong việc
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
Qua thực tế gần 18 năm đổi mới cho thấy, kinh tế hộ cá thể, tiểu chủ là
loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh mang tính chất của một xí nghiệp gia
đình chứa đựng những khả năng lớn của sáng kiến cá nhân. ở đây, nguyên tắc
kinh doanh, theo đuổi mục tiêu doanh lợi kết hợp hài hòa với các giá trị gia
đình. Những thành viên trong hộ gắn bó với nhau bằng quan hệ ruột thịt, nên
có tính cộng đồng, trách nhiệm cao dễ thống nhất. Ngoài các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, chủ hộ còn quan tâm đến việc học hành, giáo dục truyền

thống, đạo đức, pháp luật cho các thành viên để hướng tới sự thành đạt. Quan
hệ sản xuất ở đây là trực tuyến, bỏ qua các khâu trung gian, nên việc quản lý
rất chặt chẽ, hiệu quả. Chất lượng sản phẩm, thương hiệu hàng hóa được quan
tâm đầu tiên, bởi nó tạo nên chữ tín của gia đình. Mọi tiềm năng trí tuệ, kinh
nghiệm quản lý, tay nghề, bí quyết, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh… được
tích lũy qua nhiều đời là tiềm năng" chất xám" quan trọng của kinh tế cá thể,
tiểu chủ được phát huy. Quy mô của kinh tế cá thể, tiểu chủ vừa và nhỏ nên
dễ tổ chức sản xuất, kinh doanh, ít tốn kém, dễ thích nghi. Nó có khả năng
huy động mọi nguồn lực phân tán như vốn, lao động, đất đai, tài nguyên thiên
nhiên, thiết bị kỹ thuật… kết hợp lại với nhau, qua đó giải quyết việc làm cho
đông đảo người lao động, tăng thu nhập, tăng tích lũy, thúc đẩy sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, tạo cơ hội cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản
xuất và hưởng thụ các thành quả tăng trưởng nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu
chủ góp phần tích cực xóa đói giảm nghèo, nâng cao mặt bằng kinh tế – xã
hội, cải thiện đáng kể bộ phận đông đảo dân cư ở thành thị và nông thôn.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất, kinh doanh
dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc
lột lao động làm thuê.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta, thành phần kinh tế
này có vai trò quan trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, về
phát triển nền sản xuất hàng hóa, về giải quyết các vấn đề xã hội. Đại hội VIII
của Đảng khẳng định: "Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây
dựng đất nước. Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm
làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận
lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi
cho quốc kế dân sinh". Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định rõ hơn
vai trò vị trí của kinh tế tư bản tư nhân và Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX,
xác định: "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nâng cao năng lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế".
Theo V.I. Lê-nin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là con đường hữu hiệu nhất
để cải tạo các quan hệ tiểu nông, để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình
thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước
và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. V.I. Lê-
nin cũng nhấn mạnh: Chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa phục tùng sự
điều tiết của nhà nước (giám sát, kiểm tra, quy định các hình thức trật tự, v.v)
(1). Chủ nghĩa tư bản nhà nước gắn liền với nhà nước, phụ thuộc vào bản chất
của nhà nước, khả năng điều tiết của nhà nước và phụ thuộc vào sự vững
mạnh của nhà nước. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
chúng ta hoàn toàn có khả năng làm được những điều nêu trên. Vì vậy, Đảng
ta chủ trương phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức
liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và
ngoài nước trong việc khai thác các nguồn vốn, máy móc, thiết bị, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường v.v , để
mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước.
Từ Đại hội IX Đảng ta khẳng định thêm thành phần kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, phản ánh đúng thực tế đang diễn ra trong nền kinh tế nước ta
hiện nay.
Việc triển khai thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra
một khối lượng đáng kể năng lực sản xuất, đã tiếp nhận được một số kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến trong một số ngành kinh tế như thông tin viễn thông, thăm
dò dầu khí, sản xuất phụ tùng, lắp ráp xe máy, hóa chất, trồng trọt theo công
nghệ tiên tiến, nuôi tôm nước lợ theo công nghệ mới, xây dựng khách sạn cao
cấp, sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm có chất lượng cao…
Đồng thời đã tiếp thu được một số phương pháp quản lý tiến bộ, một số kinh
nghiệm về tổ chức sản xuất, kinh doanh.

Đảng, Nhà nước ta đã tạo điều kiện thông thoáng nhằm khuyến khích
đầu tư nước ngoài vào những mục tiêu trọng điểm và lĩnh vực ưu tiên phục vụ
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, như sản xuất hàng xuất
khẩu; nuôi trồng, chế biến nông – lâm – thủy sản; sử dụng công nghệ cao, kỹ
thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư, chế biến nguyên liệu và sử
dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; tập trung ở các địa bàn miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.
Trong xu thế toàn cầu hóa, để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, với
chính sách kinh tế mở, chúng ta đang tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn
đầu tư nước ngoài. Dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam ngày một tăng, chiếm
tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu GDP. Cho nên việc tạo điều kiện để kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây
dựng kết cấu kinh tế – xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm
nhiều việc làm là chủ trương đúng của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan
của quá trình phát triển nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay nhằm giải quyết khủnghoảng
sâu sắc bắt đầu từ cuối thập niên 70 cũng là sự kế thừa và phát huytinh thần
đổi mới mà Bác Hồ đã thực hiện.Từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa
IV) tháng 8 - 1979, Đảng đãđề xuất chủ trương đổi mới. Trải qua một "quá
trình tìm tòi, đổi mới, bámsát thực tiễn ", Đại hội lần thứ VI của Đảng năm
1986 mới chính thức bắtđầu tiến hành công cuộc đổi mới, như Đại hội lần thứ
VIII của Đảng đã tổngkết:''Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) với
những chính sách làmcho sản xuất "bung ra”; Chỉ thị 100 của Ban Bí thư
(khóa IV) về khoán sảnphẩm c
USD (năm 2004 đạt 553 USD/ người, đứng thứ 7/11 nước trong khu
vực,đứng thứ 33/40 nước và vùng lãnh thổ ở châu á và đứng thứ 110/
132nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có số liệu so sánh).Nếu tính bằng USD
theo tỷ giá sức mua tương đương thì thứ bậccòn khá hơn và tăng khá: năm
1995 mới đạt 1.236 USD, còn đứng thứ 8,thứ 41, thứ 147, thì đến năm 2003

đã đạt gần 2.490 USD, vượt lên đứngthứ 7, thứ 36 và thứ 125 trên 177 nước
và vùng lãnh thổ có số liệu sosánh.Nông nghiệp đã có sự biến đổi thần kỳ,
không chỉ tăng so với cácthời kỳ trước, mà quan trọng là nhiều loại đã đủ
dùng trong nước và xuấtkhẩu với khối lượng lớn (năm 2005 xuất khẩu thuỷ
sản đạt 2.738,2 triệuUSD, trên 5,25 triệu tấn gạo, 54,5 nghìn tấn lạc nhân,
892,4 nghìn tấn càphê nhân, 587,1 nghìn tấn cao su, 108,8 nghìn tấn hạt điều
nhân, 235,5triệu USD hàng rau quả, 109 nghìn tấn hạt tiêu, 87,9 nghìn tấn
chè ) vàđứng thứ hạng cao trên thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, điều.Tính
đến đầu năm 2005, cả nước có 23,2 nghìn doanh nghiệp côngnghiệp đang
hoạt động, với tổng số gần 3,2 triệu lao động, tổng số vốn cógần 677,2 nghìn
tỷ đồng, tài sản cố định 400 nghìn tỷ đồng. Sản phẩmcông nghiệp không
những nhiều gấp bội về số loại mà còn gấp nhiều lần vềsản lượng. Điều quan
trọng là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao gấprưỡi tốc độ chung,
hiện có tỷ trọng (tính theo giá thực tế) cao nhất lên đến43,6%, khu vực ngoài
quốc doanh mấy năm nay tăng cao nhất trong 3 khuvực và tỷ trọng đạt 29%,
đều cao hơn tỷ trọng 27,4% của khu vực doanhnghiệp nước ngoài.Về thương
mại, việc mua bán ở trong nước được tự do hoá, nhiềusản phẩm cung đã vượt
cầu. Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với trên200 nước, với tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu năm 2005 lên đến trên 69,4tỷ USD, gấp 34,8 lần năm 1976,
gấp 16,8 lần năm 1985 và gấp 13,5 lầnnăm 1990, trong đó xuất khẩu đạt trên
32,4 tỷ USD, gấp 186 lần 1976, gấp46,3 lần năm 1985 và gấp gần 13,5 lần
năm 1990. Xuất khẩu năm 2005 đãchiếm 61% GDP, vào loại cao trên thế
giới. Kim ngạch bình quân đầungười đạt 390 USD, gấp 10,7 lần năm
1990.Vận tải cơ bản đáp ứng được nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoácủa
nhân dân. Năm 2004 so với 1939, số đầu máy xe lửa gấp trên 1,5 lần,toa xe
hàng gấp 1,4 lần, toa xe khách gấp 1,6 lần, luân chuyển bằngđường sắt về
hàng hoá gấp 7,3 lần, về hành khách gấp 11,3 lần; số xe tảigấp gần 45 lần, số
xe khách gấp gần 35 lần.Từ năm 1988 đến tháng 7/2006 đã có 7.646 dự án
đầu tư trực tiếpnước ngoài được cấp giấy phép,

×