Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

15 Câu hỏi và đáp án ôn thi triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.68 KB, 32 trang )

Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt
nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Trang 15-25 sách GK
1. Nội dung: có 02 nhóm quan điểm:
a. Quan điểm duy vật về thế giới:
Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất
thì trước hết thế giới phải tồn tại. Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, tính
vật chất này được chứng minh bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học
tự nhiên.
Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới có nội dung như sau:
+ Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
+ Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ tổ chức nhất định;
đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng chịu sự chi phối
bởi các quy luật khách quan của thế giới vật chất.
+ Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao; thế giới thống
nhất và duy nhất.
Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không phụ thuộc vào cảm giác.
Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ
óc con người, sau đó thông qua thực tiễn lao động nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng
tạo ra. Ý thức gồm nhiều yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí … trong đó tri thức và tình cảm
có vai trò rất quan trọng. Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức con người xâm nhập vào hiện thực
vật chất tạo nên sức mạnh tinh thần tác động lên thế giới góp phần biến đổi thế giới.
b. Quan điểm duy vật về xã hội:
Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu dài của tự nhiên, có quy
luật vận động, phát triển riêng, sự phát triển của xã hội phải thông qua hoạt động thực tiễn.
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử
gắn liền với một phương tiện sản xuất nhất định, sự thay đổi PTSX sẽ làm thay đổi mọi mặt của đời
sống xã hội.
Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sự phát triển các hình thái kinh tế - xã
hội môt cách đa dạng nhưng thống nhất từ thấp đến cao, mà thực chất là lịch sử phát triển của xã


hội.
LLSX  QHSX  PTSX  (CSHT + KTTT)  HTKTXH 
Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử: QCND là lực lượng trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, quyết định thành bại của mọi cuộc
cách mạng. Vai trò chủ thể QCND biểu hiện khác nhau ở những điều kiện lịch sử khác nhau và
ngày càng lớn dần; sức mạnh của học chỉ được phát huy khi họ được hướng dẫn, tổ chứ, lãnh đạo.
Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt
nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Trang 15-25 sách GK
Bản chất:
CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm đến thực tiễn: CNDV cũ thiếu
quan điểm thực tiễn, ámy móc  không thấy được tính năng động của ý thức; riêng CNDVBC
khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn, ý thức tác động tích
cực làm biến đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con người.
CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng tính siêu hình, PBC
được nghiên cứu trong hệ thống triết học duy tâm  Mác cải tạo CNDV cũ, giải thoát PBC ra khỏi
tính thần bí, tư biện  xây dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa TGQDV với PBC.
CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tụ nhiên mà còn trong lĩnh vực xã
hội. CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C. Mác cho kho tàng tư tưởng của loài người: CNDV cũ
không triệt để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội,
tổng kết lịch sử, kế thừ có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của
giai cấp vô sản. Với CNDVLS nhân loại tiến bộ có được một công cụ vĩ đại trong nhận thức, cải
tạo thế giới.
CNDVBC mang tính thực tiễn – cách mạng, nó hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải
tạo thế giới:
+ CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp lợi ích nhân
loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học  CNDVBC trở thành hệ tư
tưởng của giai cấp vô sản có sự thống nhất tính khoa học và tính cách mạng.
+ CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
+ CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng cái mới tiến
bộ.

+ CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc
khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng như
thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta? trang 28-33 SGK
a. Cơ sở lý luận:
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý về tính
thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như sau :khi nhận thức khách
thể (đối tượng ), sự vật,hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ thể tư duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong
chính nó mà không được thêm hay bớt một cách tùy tiện.
- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển nhất định của
mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong quá trình nhận thức
đối tượng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về đối tượng.mà phải
xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó, không được ”bắt” đối tượng tuân theo tư
duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng. Không ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay
một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư
tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối tượng đó.
- Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong sự tìm kiếm,
chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu vào “thế giới” bên
trong của sự vật. “nghệ thuật” chinh phục như thế không mang đến cho sự vật, hiện tượng một cái gì
đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó khăn. Làm như thế nào để biết
chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách quan, là phù hợp với bản thân sự vật?
Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ
thể và nguyên tắc tính đảng .
- Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày tòan bộ bản chất của mình ra thành các hiện tượng
điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái gì bộc lộ ra trước chủ thể. Do đó để phản
ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể không bổ sung những yếu tố chủ quan
như đề xuất các giả thuyết, đưa ra các dự đóan khoa học ….Thiếu những điều này tư duy sẽ không
mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện bản tính sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của chính mình.
Yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí
cải tạo đối tượng để tìm ra bản chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng không phải

tùy tiện, mà là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực thuộc lĩnh vực
nghiên cứu .
- Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các hiện tượng thuộc
đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và cái tinh thần chứa đầy những cái chủ
quan, những cái lý tưởng và luôn chịu sự tác động của các lực lượng tự phát của tự nhiên lẫn lực
lượng tự giác ( ý chí,lợi ích, mục đích, nhân cách, cá tính khác nhau ) của con người. Ơû đây đối
tượng, khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể tư duy bằng hệ thống những mối liên hệ chằng chịt.
Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội, tức là phải kết
hợp nó với các yêu cầu phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng. Điều
này có nghĩa là nguyên tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu xuất phát từ chính
đối tượng, từ những quy luật vận động và phát triển của nó, không được thêm bớt tùy tiện chủ quan,
mà nó còn phải biết phân biệt những quan hệ vật chất với những quan hệ tư tưởng, các nhân tố khách
quan với các nhân tố chủ quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan tồn tại xã hội là nhân tố
quyết định.còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng được quy định bởi đời sống vật chất của con
người và các quan hệ kinh tế của họnhưng chúng có ảnh hưởng ngược lại tồn tại xã hội. Phải coi xã
hội là một là một cơ thể sống tồn tại và phát triển không ngừng chứ không phải là cái gì đó kết thành
một cách máy móc. Phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái
kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái
xã hội đó.
- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và năng lực nhận
thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với khuynh hướng phát
triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội ….những đánh giá có giá trị
hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá, những cách giải quyết thuộc về các
lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của
thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc
tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan
trong xem xét, dễ biến nó thành chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện
tượng xã hội phức tạp.
b. Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét:
Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các nguyên tắc khác của lôgíc

biện chứng. Nó thể hiện ở yêu cầu cụ thể sau:
 Trong hoạt động nhận thức: Chủ thể phải:
 Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà không được tùy
tiện đưa ra những nhận định chủ quan .
 Hai là: Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa
học có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả tuyết đó bằng thực
nghiệm
 Trong hoạt động thực tiễn: Chủ thể phải:
 Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối nó.
 Hai là: Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế họach, tìm
kiếm các biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn nắng họat động
của con người đi theo lợi ích và mục đích đã đặt ra .
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức có nghĩa là phát huy vai trò tri thức, tình cảm, ý chí,
lý trí ….tức là phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận thức và họat động thực tiễn cải
tạo hiện thực khách quan, vươn lên làm chủ thế giới.
c. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng của Việt Nam:
Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Cụ thể:
+ Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để họach định các đường lối, chiến
lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .
+ Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực hóa đường lối, chiến
lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .
+ Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan dân tộc là động lực chủ yếu để
phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các lợi ích khác nhau ( lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,
lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội ….) thành động lực
mạnh mẻ thúc đẩy công cuộc đổi mới.
+ Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lằm, thất bại trước đổi mới, Đảng ta kết
luận :“ mọi đường lối, chủ trương của đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách
quan”.
Biết phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của các yếu tố chủ quan ( tri thức,
tình cảm … ) tức phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận thức và thực tiển:

+ Coi sự thống nhất giữa tình cả( nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước, ý chí quật cường ….) và tri
thức ( kinh nghiệm dựng nước và giữ nước, hiểu biết khoa học ) là động lực tinh thần thúc đẩy
công cuộc đổi mới. Chống lại thái độ ỷ lại, trì trệ, chỉ biết làm theo cách củ mà không biết dũng
cảm làm theo cái mới, biết khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường……phải phổ biến tri thức
khoa học, công nghệ hiện đại cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, biết nâng cao dân trí,
đào tạo và bồi dưỡng nhân tài.
+ Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng. Đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đông đảo người Việt Nam chúng ta. Phải nâng cao và đổi
mới tư duy lý luận mà trước hết là chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
+ Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan , duy ý chí,lối suy nghĩa và hành
động giản đơn, nóng vội theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng mà bất chấp quy luật khách quan,
coi thường tình hình thực tế.
Câu 4: Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận và nêu những yêu cầu phương pháp luận và của
nguyên tắc toàn diện. Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế
gì trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
1. Lý luận là gì?
Định nghĩa: Trong tự điển Triết học, Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con
người, là toàn bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác
dụng tái hiện lại trong logic của các khái niệm cái logic khách quan của sự vật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Như vậy, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ
bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Nguồn gốc của lý luận:
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát từ tri
thức kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng lý luận không hình thành một cách tự
phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc
lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên, điều đó vân
không làm mất đi mối liên hệ giữ lý luận với kinh nghiệm.

Muốn hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức
kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi, lặp lại diễn biến của các sự vạt hiện tượng, Kết quả của
nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khao học)
là tri thức thu được thông qua quá trình sinh hoạt và hoạt động hằng ngày của con người; giúp có
người giải quyết nhanh một số vấn đề cụ thể, đơn giản trong quá trình tác động trực tiếp đến đối
tượng. Tri thức kinh nghiệm khoa học là kết quả của quá trình thực nghiệm khoa học, nó đòi hỏi
chủ thể phải tích lũy một lượng tri thức nhất định trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt động
khoa học mới có thể hình thành tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học là
chất liệu ban đầu để các nhà khoa học xây dựng các lý luận khoa học.
Chức năng cơ bản của lý luận: chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp
luận.
Các cấp độ lý luận: tùy theo phạm vi phản ánh của nó mà lý luận có những cấp độ khác nhau. Có thể
phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận triết học.
Lý luận ngành: lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của một ngành; làm cơ sở
để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận cho hoạt động của ngành đó, chẳng hạn như lý
luận văn học, lý luận nghệ thuật,…
Lý luận triết học: hệ thống những quan điểm chung nhất về thế giới và con người, là thế giới quan
và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con người.
2. Phương pháp là gì?
Định nghĩa: Phương pháp là hệ thống các yêu cầu mà chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự để đạt mục
đích đặt ra một cách tối ưu.
Phương pháp là hệ thống các nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều
chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
Nguồn gốc, chức năng: từ hiểu biết về thuộc tính, quy luật của sự vật, hiện tượng thuộc các lĩnh vực
khác nhau mà các phương pháp khác nhau được xây dựng; và sau đó, chúng được vận dụng như công cụ
tinh thần vào quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiên cải tạo hiệu quả thế giới của nhân loại.
Phân loại: sự đa dạng của các đối tượng phải nghiên cứu hay cải tạo dẫn đến sự đa dạng của phương
pháp.
Dựa theo phạm vi áp dụng, phương pháp được chia thành phương pháp riêng (phương pháp áp
dụng cho từng ngành khoa học), phương pháp chung (phương pháp áp dụng cho nhiều ngành khoa

học) và phương pháp phổ biến (phương pháp áp dụng cho mọi ngành khoa học, cho toàn bộ hoạt
động thực tiễn của con người, tức các phương pháp của triết học).
Dựa theo lĩnh vực áp dụng, phương pháp được chia thành phương pháp chỉ đạo hoạt động thực tiễn
(trước hết là thực tiễn cách mạng cải tạo thế giới) và phương pháp hướng dẫn hoạt động nhận thức
(trước hết là nhận thức khoa học hiện đại).
Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh
của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận
động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng. Phép biện chứng duy vật không chỉ đưa ra hướng
nghiên cứu chung, đưa ra các nguyên tắc tiếp cận sự vật, hiện tượng nghiên cứu, mà đồng thời còn
là điểm xuất phát đề đánh giá những kết quả đạt được. Mọi nhạn thức về thế giới của Mác, đó
không phải là học thuyết mà là phương pháp. Nhận thức thế giới của Mác không mang lại những
giáo điều có sẵn, mà chỉ mang lại những điểm xuất phát để tiếp tục nghiên cứu và là phương pháp
cho việc nghiên cứu đó.
3. Mối quan hệ giữa lý luận và phương pháp: thông qua phương pháp luận
Định nghĩa: phương pháp luận là học thuyết (lý luận) về phương pháp; nó vạch ra cách thức xây dựng
và nghệ thuật vận dụng phương pháp. Phương pháp luận còn được coi như “một hệ thống các quan điểm,
nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn”
của con người.
Phân loại: dựa theo phạm vi áp dụng, phương pháp luận được chia thành phương pháp luận bộ môn
(phương pháp luận của khoa học chuyên ngành giúp giải quyết các vấn đề cụ thể của từng ngành khoa
học), phương pháp luận chung (phương pháp luận của khoa học liên ngành giúp giải quyết các vấn đề
chung của một nhóm ngành khoa học) và phương pháp luận phổ biến (phương pháp luận triết học- cơ sở
để xây dựng phương pháp luận bộ môn và phương pháp luận chung).
Phương pháp luận biện chứng duy vật là một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc nền tảng chỉ đạo chủ
thể trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng phương pháp một cách hợp lý và có hiệu quả. Do vậy,
phép biện chứng duy vật vừa là lý luận vừa là phương pháp luận phổ biến.
Mọi nội dung lý luận của phép biện chứng duy vật đều có ý nghĩa về mặt phương pháp luận. Chúng
cho phép rút ra các yêu cầu (nguyên tắc, quan điểm, phương pháp) để chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người. Các nhà phương pháp luận mácxít đưa ra số lượng và tên gọi cụ thể của
từng nguyên tắc (quan điểm, phương pháp) có thể khác nhau nhưng yêu cầu cụ thể thì giống nhau (vì

chúng toát ra từ nội dung lý luận của phép biện chứng duy vật). Trong quá trình hoạt động nhận thức (nhất
là nhận thức khoa học hiện đại) hay hoạt động thực tiễn (nhất là thực tiễn cách mạng cải tạo thế giới) các
nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật được vận dụng không tách rời nhau; tức chúng
phối hợp với nhau tạo nên phong cách tư duy biện chứng – tư duy vận dụng tổng hợp các nguyên tắc biện
chứng để chỉ đạo hoạt động của chủ thể trong nhận thức và chỉ đạo thế giới.
4. Những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện:
a. Định nghĩa phương pháp luận:
Là học thuyết (lý luận) về phương pháp; nó vạch ra cách thức xây dựng và nghệ thuật vận dụng
phương pháp. Phương pháp luận còn được coi như “ một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc xuất phát,
những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong
mọi lĩnh vực hiện thực.
Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận động, phát triển của mọi
sự vật, quá trình xãy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.
Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối liên hệ giữa: mặt đối lập-
mặt đối lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêng- cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung – hình
thức; bản chất- hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực.
Nội dung nguyên lý:
◊ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau.
◊ Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến
◊ Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận
động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xãy ra trong thế giới.
b. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,
…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt
- Phân loại để xác định những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)
nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định ; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;

- Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) bên trong cơ
bản, tất nhiên, ổn định…. Để lý giải được những mối liên hệ, quan hệ ((hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,…) còn lại. Qua đó xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối
liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…); phát hiện ra quy luật (bản chất)
của nó.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,
…) chi phối sự vật.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp
(mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ,
quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ
(hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ,
quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…. của nó.
- Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,
…)của bản thân sự vật; kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy
hay hạn chế hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng
quy luật và hợp lợi ích của chúng ta.
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa
phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện,… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức
của chính mình.
+ Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó mà
không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật.
+ Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật chứ
không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật, mà coi chúng
như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
+ Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ
yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách
tinh vi.
- Trong xã hội nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà
còn liên hệ nhận thức với cuộc sống; phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá nhân hay giai

tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ
bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản; phải biết phát huy (hay hạn chế) mọi tiềm năng hay nguồn
lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, ) từ các thành phần kinh tế
khác, từ các tổ chức, chính trị xã hội… để có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà
không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn điều, tức không thấy được trọng tâm cốt lõi
trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
5. Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn.
Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chúng ta khắc phục được chủ
nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức
của chính mình.
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó mà
không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật. thường xem xét dàn trải,
liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng mà không làm nổi bật cái cơ bản, cái
quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng
không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật mà coi chúng như
nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện. Do đó hoàn toàn bất lực khi cần phải có quyết
sách đúng đắn.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ yếu
với cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn diện có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta
không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ nhận thức với thực tiễn cuộc sống, phải
chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá nhân hay các giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân
biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản, phải biết phát huy hay hạn chế mọi tiềm
năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa…) từ các thành
phần kinh tế, từ các tổ chức chính trị - xã hội… để có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp
mà không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm,
điều cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
Câu 5: Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận và nêu những yêu cầu phương pháp luận của nguyên

tắc phát triển. Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì
trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn? Đọc thêm trang 118, 119 đề cương
CCLLCT
* Nguyên lý là gì:
Nguyên lý là những luận điểm xuất phát (tư tưởng chủ đạo) của một học thuyết (lý luận) mà tính chân
lý của nó là hiển nhiên, tức không thể hay không cần phải chứng minh nhưng không mâu thuẫn với
thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết đó phản ánh.
Nguyên lý được khái quát từ kết quả hoạt động thực tiễn – nhận thức lâu dài của con người. Nó vừa là
cơ sở lý luận của học thuyết, vừa là công cụ tinh thần để nhận thức (lý giải – tiên đoán) và cải tạo
thế giới.
Có hai loại nguyên lý:
+ Nguyên lý của khoa học (công lý, tiên đề, quy luật nền tảng).
+ Nguyên lý của triết học.
Phép biện chứng duy vật có hai nguyên lý cơ bản. Đó là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên
lý về sự phát triển.
* Nguyên tắc là gì:
Nguyên tắc là những yêu cầu nền tảng đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự nhằm đạt mục đích
đề ra một cách tối ưu.
* Mối liên hệ giữa nguyên lý và nguyên tắc:
Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý thể hiện qua các nguyên tắc tương ứng. Nghĩa là cơ sở lý
luận của các nguyên tắc là các nguyên lý:
+ Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện và nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
+ Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển.
1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển: là nội dung nguyên lý về sự phát triển.
 Sự vận động và phát triển:
Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu như sự thay
đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của
vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình
diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn

thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát triển là một khuynh
hướng vận động tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về
chất (thay đổi kết cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo;
còn sự vận động có thay đổi những quy định về chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận
động chỉ có thay đổi những quy định về lượng của sự vật theo xu hướng ổn định giữa vai trò phụ
đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên.
* “Hai quan điểm cơ bản … về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên,
như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết
cứng, nghèo nàn, khôn khan. Quan điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ hai mới cho ta
chìa khóa của “sự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của
những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt đối
lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh cái mới”.
Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ và cái mới; giữa
cái riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội dung và hình thức; giữa bản chất và
hiện tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực.
Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng: phát
triển trong giới tự nhiên hữu sinh; phát triển trong xã hội; phát triển trong tư duy, tinh thần.
 Nội dung nguyên lý:
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.
Phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một hệ thống vật chất, do
việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của
phủ định.
2. Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển:
Trong hoạt động nhận thức yêu cầu chủ thể phải:
+ Phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa, những giai đoạn tồn tại của bản thân sự vật
trong sự tự vận động và phát triển của chính nó;
+ Xây dựng được hình ảnh chỉnh thể về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những giai đoạn
thay đổi của nó; từ đó phát hiện ra quy luật vận động, phát triển (bản chất) của sự vật
Trong hoạt động thực tiễn yêu cầu chủ thể phải:

+ Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng … tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu hướng,
những giai đoạn thay đổi có thể xảy ra đối với nó;
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà
trước hết là công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện, phát huy hay
hạn chế những khả năng … tồn tại của sự vật nhằm lèo lái sự vận động, phát triển theo hướng
hợp quy luật và có lợi cho chúng ta.
3. Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn:
Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình, đầu óc bảo thủ định kiến, cung cách
suy nghĩ xơ cứng giáo điều; nó xa lạ với sự tuyệt đối hóa một giai đoạn nào đó trong quá trình vận
động của đối tượng nhận thức cũng như cả bản thân quá trình nhận thức đối tượng, nó cũng xa lạ với
đầu óc trọng cổ, chủ nghĩa lý lịch, chũ nghĩa thực tại, chủ nghĩa vị lai,…
Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục được quan điểm (tư
duy) siêu hình, bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.






























Câu 6: Anh/Chị hãy phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Ý
nghĩa phương pháp luận của quy luật này. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang vận dụng
quy luật này như thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?
Khái niệm:
a. Đối lập, mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc
tính, những khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã
hội và tư duy; chính những mặt đối lập này nằm trong sự liên hệ tác động qua lại với nhau tạo thành
mâu thuẫn biện chứng.
b. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập,
sự tồn tại của mặt này là tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia; chúng luôn tác động qua lại và đấu tranh
lẫn nhau theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau gữa các mặt đối lập.
Trong 03 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, V.I.Lenin đã coi quy luật thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập là “hạt nhân của phép biện chứng” bởi vì quy luật này đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực
bên trong của sự vận động và phát triển của sự vật; và là “chìa khóa” giúp chúng ta nắm vững thực chất
của các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
I. Nội dung của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn):
1. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến:

Mâu thuẫn là một khái niệm để chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Đó là
những mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau cùng tồn tại trong một sự vật. Mâu thuẫn là
sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Mâu thuẫn có tính khách quan, vì là cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến – tồn
tại trong tất cả các lĩnh vực (tự nhiên, xã hội và tư duy).
Do mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến nên mâu thuẫn có tính đa dạng và phức tạp. Mâu
thuẫn trong mỗi sự vật và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau. Trong mỗi sự vật, hiện
tượng không phải chỉ có một mâu thuẫn mà có nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của
mâu thuẫn lại có đặc điểm, có vai trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự
vật. Vì vậy, cần phải có phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn nhau của các mặt đối lập,
mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Chú ý: Trong quy luật mâu thuẫn, khái niệm “thống nhất” và “đồng nhất” thường được dùng cùng
một nghĩa. Nhưng cũng có lúc khái niệm “đồng nhất” được hiểu theo nghĩa là sự chuyển hóa
lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, bài trừ và phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa
chúng, bởi vì trong quy định, ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát triển
trái ngược nhau, đấu tranh với nhau.
Phát triển là một sự đấu tranh giữa các mặt đối lập:
+ Quá trình hình thành và phát triển của một mâu thuẫn: lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn thể
hiện ở sự khác biệt, sau đó phát triển lên thành hai mặt đối lập; khi hai mặt đối lập của mâu
thuẫn xung đột với nhau gay gắt và có điều kiện thì giữa chúng có sự chuyển hóa – mâu thuẫn
được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và lại một quá trình mới
làm cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.
+ Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không chuyển hóa) thì không có sự phát
triển. Chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập. Do sự đa dạng của thế giới, nên các hình thức chuyển hóa cũng rất đa dạng: có thể hai mặt
đối lập chuyển hóa lẫn nhau và cũng có thể chuyển hóa lên hình thức cao hơn …

Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt:
thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối; còn đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt
đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vận động và phát triển của sự
vật là sự tự thân và diễn ra liên tục. Tính tương đối của thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho
thế giới vật chất phân hóa thành các bộ phận, các sự vật đa dạng, phức tạp, gián đoạn.
Tóm lại, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể thống nhất của các mặt
đối lập, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hóa giữa chúng là nguồn gốc, động
lực của sự phát triển.
II. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật
mâu thuẫn):
Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gố, động lực của sự phát triển, nên muốn nắm được bản chất
của sự vật cần phải phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của chúng.
Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải có phương
pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể. Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ
bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập và với những điều kiện chín muồi.
Câu 6: Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa của phương
pháp luận của quy luật này trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn ở nước ta hiện
nay?
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, còn gọi là quy luật mâu thuẫn, là hạt nhân của phép
biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc bên trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
1. Khái niệm:
a. Đối lập, mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc
tính, những khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã
hội và tư duy; chính những mặt đối lập này nằm trong sự liên hệ tác động qua lại với nhau tạo thành
mâu thuẫn biện chứng.
b. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập,
sự tồn tại của mặt này là tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia; chúng luôn tác động qua lại và đấu tranh
lẫn nhau theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau gữa các mặt đối lập.
2. Nội dung quy luật:
Trong mỗi sự vật hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, những khuynh hướng

đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và nhường chỗ
cho sự ra đời của cái mới.
3. Phân tích nội dung quy luật:
a. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và mang tính phổ biến, là nguồn gốc của sự vận động và phát
triển
Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình phủ nhận mâu thuẫn bên trong của sự vật hiện
tượng, chỉ thừa nhận có sự đối kháng, sự xung đột bên ngoài giữa các sự vật hiện tượng với nhau,
nhưng không cho đó là có tính quy luật.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu
thuẫn bên trong; mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa các mặt, các thuộc tính, các
khuynh hướng đối lập nhau, những mặt đối lập nhau nhưng lại ràng buộc nhau nên nó tạo thành mâu
thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn là hiện tượng phổ biến; mâu thuẫn tồn
tại khách quan trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người; tồn tại phổ biến chẳng những ở
mọi sự vật hiện tượng mà còn phổ biến trong suốt quá trình vận động và phát triển của chúng; mâu
thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành.
b. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Khái niệm "thống nhất" trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là 2 mặt đối lập liên hệ nhau, ràng
buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại và phát triển. (ví dụ:
đồng hóa và dị hóa, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa).
Khái niện "thống nhất" trong quy luật mâu thuẫn còn đồng nghĩa với khái niệm "đồng nhất", đó
là sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau trong tất cả các hiện tượng, các
quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy; song "đồng nhất" còn có ý nghĩa khác, đó là sự chuyễn hóa
lẫn nhau giữa các mặt đối lập; và như vậy sự "đồng nhất" là không tách rời với sự khác nhau và đối
lập, (ví dụ liên hệ: một vật vừa là nó vừa không phải là nó; quan điểm này hoàn toàn đối lập với
quan điểm siêu hình, phiến diện, xem sự vật mang tính đồng nhất thuần túy không có đối lập, không
có sự chuyển hóa.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không thể tách rời sự đấu tranh bài trừ
nhau, phủ định nhau giữa chúng; hình thức đấu tranh được thể hiện trong thế giới vật chất là rất đa

dạng, từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp (ví dụ: trong thế giới tự nhiên chỉ là những tác động
ảnh hưởng lẫn nhau, trong xã hội đó là những xung đột gay gắt, quyết liệt bằng bạo lực cách mạng
mới có thể giải quyết căn bản các mâu thuẫn).
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn với những
đặc điểm riêng của nó; khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của 2
mặt có khuynh hướng trái ngược nhau; trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau đó
biến thành sự đối lập, khi 2 mặt đối lập xung đột nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi sẽ chuyễn
hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết; kết quả là sự thống nhất giữa 2 mặt đối lập cũ bị phá hũy,
sự thống nhất của 2 mặt đối lập mới được hình thành cùng mới mâu thuẫn mới.
Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời tương đối,
nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng; còn sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hóa về
chất của các sự vật hiện tượng, làm cho vật chất ln vận động và phát triển
Câu 7: Anh/Chị hãy phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này. Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã và đang vận dụng quy luật này như thế nào vào sự nghiệp cách mạng
hiện nay ở nước ta?
a. Quy luật chuyển hóa từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất & ngược lại:
Chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy:
 Chất - tính quy đònh vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật là nó, giúp phân biệt nó với sự vật
khác.
 Lượng - tính quy đònh vốn có của sự vật, biểu thò quy mô, tốc độ vận động, phát triển của sự vật
cũng như của các thuộc tính (chất) của nó.
 Độ - giới hạn mà trong đó sự thay đổi về Lượng chưa làm Chất thay đổi căn bản.
 Điểm nút - mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về Lượng vượt qua nó sẽ làm Chất thay đổi căn bản.
 Bước nhảy - sự chuyển hóa về Chất do những thay đổi về Lượng trước đó gây ra; Bước nhảy là
giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của sự vật, nó tồn tại khách quan, phổ biến, đa dạng
(Bước nhảy toàn bộ/Bước nhảy cục bộ; Bước nhảy đột biến/Bước nhảy dần dần; Bước nhảy tự
nhiên/Bước nhảy xã hội/Bước nhảy tư duy).
Nội dung quy luật:

 Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa Chất và Lượng.
 Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về Lượng (liên tục, tiệm tiến); nếu Lượng
thay đổi trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì Chất không thay đổi căn bản; khi Lượng thay đổi
vượt qua độ, quá điểm nút thì Chất sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy xảy ra.
 Bước nhảy làm cho Chất thay đổi (gián đoạn, đột biến) – Chất (Sự vật ) cũ mất đi, Chất (Sự vật)
mới ra đời; Chất mới gây ra sự thay đổi về Lượng (làm thay đổi quy mô tồn tại, tốc độ, nhòp điệu
vận động, phát triển của sự vật ).
 Sự thay đổi về Lượng gây ra sự thay đổi về Chất; sự thay đổi về Chất gây ra sự thay đổi về
Lượng là phương thức vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới; phát triển vừa mang
tính liên tục vừa mang tính gián đoạn.
b. Phân tích:
Trong quá trình vận động và phát triển, Chất và Lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi
của Lượng và của Chất không diễn ra độc lập với nhau, mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của Lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản Chất của
sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất đònh mà không làm thay đổi căn bản
Chất của sự vật đó. Khi vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất
mới ra đời (bước nhảy xảy ra).
Vd: Khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với tư cách là những chất khác nhau (chất
– trạng thái), ứng với chất – trạng thái đó, Lượng ở đây là nhiệt độ, thì dù Lượng có thay đổi trong
một phạm vi khá lớn (0 độ C< t<100 độ C), nước vẫn ở trạng thái lỏng (tức là chưa thay đổi về chất –
trạng thái). Khi nhiệt độ của nước giảm đến 0 độ C nước sẽ chuyển sang trạng thái rắn và khi đạt đến
100 độ C nước sẽ chuyển sang trạng thái hơi (bước nhảy xảy ra). Ở đây, 0 độ C và 100 độ được gọi là
điểm nút.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút. Sau khi ra đời,
chất mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự
vật, làm thay đổi nhòp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
c. Ý nghóa phương pháp luận:
 Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
 Phát hiện chính xác các quy đònh về chất và lượng của sự vật; thấy được sự thống nhất giữa
chúng để xác đònh đúng độ, điểm nút của sự vật;

 Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác đònh đúng tính chất, quy mô, tiến độ của
bước nhảy có thể xảy ra;
 Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá độ, quá điểm nút; còn nếu lượng chưa
thay đổi qua độ, chưa qua điểm nút thì bước chưa thể xảy ra, chất chưa thay đổi căn bản được;
 Xác đònh được chất mới (sau khi sự vật thực hiện bước nhảy), qua đó xác đònh lượng độ, điểm nút
và bước nhảy, tức đònh hình được sự vật mới phải ra đời thay thế sự vật cũ như thế nào.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
 Hiểu rõphương thức vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng các đối sách thích hợp;
 Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh hoạt các công cụ, phương tiện vật chất can thiệp
đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triểncủa sự vật, lèo lái nó theo
đúng quy luật và hợp lợi ích cùa chúng ta. Cụ thể:
◊ Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy thay đổi về lượng;
◊ Muốn duy trì sự ổn đònh của chất phải giữ sự thay đổi về lượng trong phạm vi giới hạn độ;
◊ Khi lượng thay đổi đạt tới giới hạn độphải kiên quyết thực hiện bước nhảy.
Câu 8: Phủ định biện chứng là gì? Bằng lý luận và thực tiễn, Anh chị hãy chứng minh rằng cuộc
đấu tranh giữa cái cũ và cái mới là qúa trình khó khăn, lâu dài, phức tạp; cái mới có thể
thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ.
 Về mặt lý luận: SGK trang 48-49
+ Quy luật phủ định của phủ định là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép BCDV, chỉ rõ khuynh hướng của
sự vận động, phát triển của sự vật và sự liên hệ giữa cái mới và cái cũ. Quy luật phủ định của phủ định
của phép tư duy biện chứng chỉ ra rằng: Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua q
trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế
đó là tất yếu của q trình vận động và phát triển của sự vật.
Khái niệm phủ định:
Trong thế giới vật chất, các sự vật đều có q trình sinh ra, tồn tại, mất đi và được thay thế bằng sự vật
khác. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới là sự phủ định. Như vậy, phủ định là thuộc tính khách quan của thế
giới vật chất.
Khái niệm phủ định biện chứng:
Nếu quan điểm siêu hình coi phủ định là sự xóa bỏ hoàn toàn cái cũ thì Triết học Mác – Lênin coi phủ
định là sự phủ định biện chứng – sự phủ định có kế thừa, tạo điều kiện cho sự phát triển.

Quan niệm về sự phủ định biện chứng như trên tất yếu sẽ gắn với sự giải quyết mâu thuẫn và thực hiện
bước nhảy. Chính sự ra đời của sự vật mới về chất phải thông qua việc giải quyết mâu thuẫn (đó cũng
chính là bước nhảy về chất).
Những đặc điểm của phủ định biện chứng:
Tính khách quan thể hiện ở chỗ nguyên nhân của phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là kết
quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật và của quá trình từ những tích lũy về lượng dẫn
đến sự nhảy vọt về chất.
Tính kế thừa: cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ đó là sự phủ định có kế thừa. Phủ định có kế thừa – sự
loại bỏ những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu, gâu cản trở cho sự phát triển; đồng thời cũng chọn lọc, giữ lại
những yếu tố tích cực và cải biến đi cho phù hợp với cái mới.
+ Sự vật là một tập hợp các yếu tố tương tác với nhau, trong sự tương tác đó nảy sinhvài yếu tố (biến
đổi) trái ngược nhau, tạo nên cơ sở các mặt đối lập trong sự vật. Các mặt đối lập này không tách rời
nhau, chứa những yếu tố giống nhau cùng tồn tại trong sự vật, tác động qua lại lẫn nhau. Dù vậy, các
mặt đối lập luôn đấu tranh với nhau, tác động qua lại theo xu hướng loại bỏ lẫn nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập nay chỉ mang tính tương đối nhưng sự đấu tranh mang tính tuyết
đối. Sự đấu tranh này gắn liền với sự vận động và thay đổi của sự vật. Mâu thuẫn biện chứng phát triển
tương ứng với quá trình thống nhất giữa các mặt đối lập còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thì
chuyển dần từng bước từ bình lặng tới quyết liệt, làm xuất hiện khả năng chuyển hoá của các mặt đối
lập.
+ Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của mọi sự phát triển, chúng đều trải qua các giai đoạn: từ sự xuất
hiện của các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, rồi chuyển hoá các mặt đối
lập. Khi mâu thuẫn được giả quyết , cái cũ mất đi cái mới ra đời tiến bộ, ưu việt hơn cái cũ và tự nó
cũng chứa đựng những mâu thuẫn mới, hay thay đổi những vai trò tác động cảu các mâu thuẫn cũ.
 Về mặt thực tiễn: Đáp án trang 134-136
+ Thực tế đã chứng minh vận cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới luôn là qúa trình khó khăn, lâu dài,
phức tạp, cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ. Điều đó được
minh chứng rõ ràng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp phong kiến và giai cấp công nhân trong xã hội
ta đưa đất nước đi lên từ chế độ phong kiến bỏ qua tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Cùng là hai giai cấp tồn tại tong cùng một chế độ xã hội nhưng giữa các giai cấp này luôn chứa đựng
những mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau, mâu thuẫn lên đến cao trào chính là cuộc đấu tranh của giai cấp

công nhân lao động lật đổ giai cấp phong kiến. Quá trình đấu tranh ấy diễn ra lâu dài và quyết liệt, mặc
dù có gặp phải những khó khăn chống cự của chế độ cũ nhưng rồi lực lượng lao động mới tiến bộ hơn
vẫn chiến thắng. Thay thế chế độ phong kiến lác hậu, là chế độ xã hội chủ nghĩa với những tiến bộ
mới, tuy nhiên trong nó vẫn chứa đựng những mâu thuẫn chưa thể xoá bỏ giữa tầng lớp nhân dân lao
động với tàn dư của chế độ phong kiến, với giai cấp tư sản đang hình thành trong nền kinh tế.
Nội dung quy luật phủ định của phủ định:
Thế giới vật chất vận động và phát triển diễn ra thông qua quá trình phủ định biện chứng vô tận. Sự
phát triển của các sự vật diễn ra qua nhiều lần phủ định, tạo ra một khuynh hướng đi từ thấp đến cao có
tính chu kỳ. Tính chu kỳ của sự phủ định biện chứng biểu hiện ở chỗ thông qua một số lần phủ định,
cái mới xuất hiện dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Thí dụ:
Hạt lúa Cây lúa Bông lúa
Khẳng định (1) Phủ định (2) Phủ định của phủ định
 Qua sự phủ định lần thứ nhất, sự vật chuyển thành mặt đối lập với chính mình (cây lúa phủ định
hạt lúa).
 Qua sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới này lại chuyển thành mặt đối lập với nó và dường như
trở lại dạng ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn (bông lúa phủ định cây lúa).
Như vậy, kết quả của sự phủ định của phủ định là cái tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được
phát triển từ trước, trong cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất. Đó là sự “lọc bỏ” biện
chứng những giai đoạn đã qua để đạt đến cái mới về chất cao hơn. Đó chính là quá trình “lọc bỏ” biện
chứng.
Ở thí dụ trên, qua hai lần phủ định, sự vật trải qua một chu kỳ phát triển. Rõ ràng, ở sự vật đơn giản, ít
ra cũng phải thông qua hai lần phủ định mới có được sự phát triển, ở các sự vật phức tạp, số lần phủ
định có thể nhiều hơn.
Sự phủ định của phủ định là sự kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của
một chu kỳ mới và cứ như thế tiếp tục mãi mãi, tạo nên hình thái “xoáy trôn ốc” của sự phát triển
Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng chung, là tất yếu của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Song quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng
mà quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta
tránh được cái nhìn phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các

hiện tượng xã hội.
+ Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái mới, vì cái mới là cái ra đời phù
hợp với quy luật phát triển của sự vật. Mặc dù khi mới ra đời, cái mới có thể còn non yếu, song nó là
cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, cần có ý thức phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
+ Trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ
“hư vô chủ nghĩa”, “phủ định sạch trơn”.
Câu 9: Anh/ chị hãy phân tích cơ sở lý luận và nêu những yêu cầu phương pháp luận của nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được
những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn? SGK trang 78-88
1. Phạm trù thực tiễn:
Thực tiễn là hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội, nhằm cải tạo tự nhiện
và xã hội. Phạm trù “thực tiễn” là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học Mác- Lê nin
nói chung và lý luận nhận thức mácxít nói riêng.
1.1. Thực tiễn là một hoạt động vật chất:
Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất của mình để
tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đây là một quá
trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể. Cho nên
thực tiễn trở thành khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
1.2. Hoạt động thực tiễn có mục đích
1.2.1 Hoạt động thực tiễn là bản chất của con người.
1.2.2 Động vật chỉ hoạt động theo bản năng để phù hợp với thế giới bên ngoài một cách thụ động. Con
người chủ động thích nghi với thế giới bên ngoài bằng cách cải tạo thể giới thoả mãn theo nhu cầu
của mình.
1.2.3 Khi hoạt động thực tiễn, để đạt hiệu quả cao, con người tạo ra những vật phẩm không có sẵn trong
tự nhiên, đó chính là những công cụ, và sử dụng chúng.
1.3. Thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội
1.3.1 Trình độ và hình thức hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai đoạn khác nhau của xã hội.
1.3.2 Hoạt động thực tiễn không thể được tiến hành không chỉ một vài cá nhân mà là tòan xã hội
1.4. Các dạng cơ bản và không cơ bản của thực tiễn

1.4.1 Dạng cơ bản:
 Hoạt động sản xuất vật chất – là một dạng họat động nguyên thủy và cơ bản và nó quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
 Hoạt động chính trị xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ
xã hội.
 Hoạt động thực nghiệm khoa học do nhu cầu phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
hiện đại.
1.4.2 Dạng không cơ bản: là những họat động được hình thành và phát triển từ những dạng cơ bản,
chúng là dạng thực tiễn phái sinh. Ví dụ: họat động trong một số lĩnh vực như đạo đức, nghệ thuật,
giáo dục, tôn giáo …
2. Phạm trù “lý luận”:
2.1. Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản
chất bản chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng.
2.2. Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm lý luận
được hình thành, không tự phát và cũng không bắt buộc mọi lý luận đều xuất phát từ kinh
nghiệm. Muốn hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm.
Trong quá trình nhận thức, con người đi từ nhận thức kinh nghiệm thông thường đến nhận thức
kinh nghiệm khoa học.
2.3. Chức năng cơ bản của lý luận là phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp luận
chỉ đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người
2.4. Lý luận có hai cấp độ khác nhau, cấp độ lý luận ngành và cấp độ lý luận triết học (tùy vào phạm
vi phản ánh của nó và vai trò của phương pháp luận).
3. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
3.1. Thực tiễn và lý luận có mối quan hệ biện chứng cho nhau. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục
đích và là tiêu chuẩn của lý luận. Lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn.
3.1.1 Như ở trên ta đã nói, thực tiễn là cơ sở của lý luận. Con người nhận thức giới tự nhiên đầu tiên
bằng hoạt động thực tiễn . Sự tác động của con người buộc giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính,
quy luật để từ đó con người có kinh nghiệm. Quá trình phân tích, tổng hợp, khái quát kinh nghiệm
thành một môn khoa học lý luận. Thực tiễn đề ra những vấn đề mà lý luận phải trả lời.

3.1.2 Thực tiễn là động lực của lý luận. Qua hoạt thực tiễn luôn nảy sinh những vấn đề đòi hỏi lý luận
phải hoàn thiện chính mình để bao quát và giải quyết tốt các vấn đề do thực tiễn đặt ra. Điều này
càng làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
3.1.3 Thực tiễn là mục đích của lý luận. Không có thực tiễn thì lý luận không thể đem lại lợi ích cao hơn,
thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và qua thực tiễn đã giúp cho lý luận hoàn thành
được mục đích của mình. Lý luận hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn làm cho thực tiễn ngày càng hiệu
quả hơn.
3.1.4 Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù hợp với thực
tiễn khách quan mà nó phản ánh, và đồng thời nó được thực tiễn kiểm nghiệm. Thông qua thực tiễn
những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tang tri thức nhân loại.
3.2. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Thực
tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận để làm cho thực tiễn có hiệu quả nhất.
3.2.1. Hoạt động thực tiễn của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường. Khi lý
luận đạt đến chân lý thì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương
pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển của các mối quan hệ thực
tiễn.
3.2.2. Vận dụng lý luận vào thực tiễn cần phân tích rõ từng tình hình cụ thể, tránh vận dụng lý luận máy
móc, giáo điều kinh viện . Như vậy chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại
đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn
3.2.3. Từ lý luận xây dựng mô hình thực tiễn phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu
cực nhằm đạt kết quả cao.
3.2.4. Bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời bổ sung những khuyết điểm của lý luận hoặc có thể
thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
























Câu 10: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng của Mac: “Sự phát triển
hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên”. Ý nghĩa của học thuyết về Hình
thái kinh tế - xã hội? Đáp án 199-20
 Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội:
HTKT-XH là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định,
với một kiểu qhsx đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của llsx, và với
một kttt tương ứng được xây dựng trên những qhsx ấy.
HTKT-XH là một hệ thống hoàn chỉnh và có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là llsx,
qhsx, kttt. Mỗi mặt của htkt-xh có vai trò, vị trí riêng, tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với
nhau.
+ LLSX: là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi htkt-xh. Sự hình thành và phát triển của mỗi
htkt-xh xét đến cùng do llsx quyết định. Llsx phát triển qua các htkt-xh nối tiếp nhau từ thấp
đến cao.
+ QHSX: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là những quan hệ cơ bản ban

đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi htkt-xh lại có một kiểu qhsx của nó
tương ứng với trình độ nhất định của llsx. Qhsx là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội
cụ thể này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định
của lịch sử
+ KTTT: được hình thành và phát triển phù hợp với CSHT, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ,
duy trì và phát triển CSHT đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản nêu trên, các htkt-xh còn có quan hệ về gia đình, dân tộc, và các quan hệ xã
hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với qhsx, biến đổi cùng với sự biến đổi của qhsx.
 Sự phát triển của các htkt-xh là một quá trình lịch sử tự nhiên:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao,
tương ứng với mỗi giai đoạn là một htkt-xh. Sự vận động thay thế nhau của các htkt-xh trong lịch
sử đều do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Trên
cơ sở phát hiện ra các quy luật phát triển khách quan của xã hội, Mac đã đi đến kết luận: “sự phát
triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên”.
Các mặt cơ bản hợp thành một htkt-xh không tách rời nhau mà liên hệ biện chứng với nhau hình
thành nên những qui luật phổ biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của qhsx với tính chất
và trình độ phát triển của llsx; quy luật csht quyết định kttt và các quy luật xã hội khác. Chính tác
động của các quy luật khách quan đó mà các htkt-xh vận động phát triển thay thế nhau từ thấp đến
cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng chủ
quan của con người.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của llsx.
Chính tính chất và trình độ phát triển của llsx đã quy định một cách khách quan tính chất và trình
độ của qhsx. Do đó xét đến cùng llsx quyết định quá trình vận động và phát triển của htkt-xh như
quá trình lịch sử tự nhiên
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các htkt-xh thì quy luật về
sự phù hợp của qhsx với tính chất và trình độ phát triển của llsx có vai trò quyết định nhất. Llsx
bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển từ
thấp đến cao. Qhsx là mặt thứ hai của ptsx biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
Những qhsx lỗi thời được xóa bỏ và được thay thế bằng những kiểu qhsx mới cao hơn. Đến lượt
nó, sự thay đổi qhsx sẽ kéo theo sự thay đổi về kttt, và do đó mà htkt-xh cũ được thay thế bằng

htkt-xh mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra theo quy luật khách quan chứ không phải
theo ý muốn chủ quan của con người.
Sự thay thế một htkt-xh này bằng một htkt-xh mới cao hơn thường được thực hiện thông qua cách
mạng xã hội. Nguyên nhân sâu sa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa llsx và qhsx, khi qhsx
trở thành xiềng xích của llsx. Trong thời kỳ cách mạng xã hội khi cơ sở kinh tế thay đổi thì sớm
hay muộn toàn bộ kttt đồ sộ cũng thay đổi theo
Quá trình kế thừa của lịch sử loài người luôn luôn cho phép cộng đồng nào đó, trong điều kiện
nhất định do tác động của các nhân tố, các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, có thể bỏ qua các
giai đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại. Trong thời đại ngày nay
chủ chương rút ngắn để đi lên CNXH ở một số quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa chẳng những không
mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính lịch sử- tự nhiên mà còn là biểu hiện sinh
động của quá trình lịch sử- tự nhiên ấy. Chỉ khi ta “rút ngắn ”một cách duy ý chí, bấp chấp quy
luật thì lúc đó sự phát triển rút ngắn mới trở nên đối lập với quá trình lịch sử- tự nhiên.
Như vậy, quá trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường
tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử nhất định, một hoặc một vài
htkt-xh nhất định. Sự khác nhau về trật tự phát triển vẫn là quá trình lịch sử- tự nhiên.
 Vai trò (giá trị) của học thuyết về Hình thái kinh tế - xã hội?
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là sự vận dụng học thuyết biện chứng về sự phát triển dưới hình
thức triệt để nhất, đầy đủ nhất, chín chắn nhất và có nội dung phong phú nhất vào CNTB.
Đem lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học, khắc phục mọi quan
điểm duy tâm về lịch sử. Vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, những
nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi của các hiện tượng xã hội.
Là căn cứ khoa học để xác định chất của một xã hội cụ thể. Là công cụ lý luận giúp chúng ta
nhận thức những quy luật phổ biến đang tác động và chi phối sự vận động của xã hội.
Là căn cứ để tiến hành sự phân kỳ lịch sử.
Là cơ sở lý luận khoa học để xây dựng CNXH, hoạch định đường lối cách mạng của đảng cộng
sản.
Câu 11: Phân tích phép biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong sự vận động
và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Đảng ta đã vận dụng quy luật này như thế
nào vào quá trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay. Đáp án 186-193

1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất (PTSX) và quan hệ sản xuất (QHSX):
1.1 PTSX:
Là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài
người.
Mỗi xã hội được đặc tưng bằng một PTSX nhất định.
PTSX đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội : Kinh tế, chính trị, văn hóa
và xã hội.
Sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài ngưòi từ
thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có quan hệ : Một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là LLSX, mặt
khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. PTSX chính là sự thống nhất giữa
LLSX ở một trình độ nhất định với QHSX tương ứng.
1.2 LLSX:
Là toàn bộ các lực lượng đựoc con người sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất. LLSX biểu hiện
quan hệ giữa người với người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình sản xuất, con người phải
chinh phục giới tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình.
LLSX bao gồm: Con người (CN) và tư liệu sản xuất (TLSX)
+ TLSX: bao gồm:
 Đối tượng lao động: một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
 Tư liệu lao động: Công cụ lao động và kho tàng bến bãi, giao thông vận tải.
Trong TLLĐ, công cụ lao động không ngừng đựoc cải tiến, cho nên nó là yếu tố động nhất,
cách mạng nhất. Chính sự cải tiến và hòan thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi
toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
+ Con người: là yếu tố có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực
lươngj tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng được kết hợp với lao động sống, đó chính là
con người, với những kỹ năng, kỷ xảo, với trí tuệ và kinh nghiệm của mình. Hàm lượng trí tuệ
trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc
biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
1.3 QHSX:
Là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Thể hiện qua 3 mặt: Quan

hệ giữa ngưòi với người đối với việc sở hữu về TLSX, quan hệ giữa người với người đối với việc tổ
chức quản lý, quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối với
tất cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề
những TLSX chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có 2 hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
2. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX:
LLSX và QHSX là hai mặt của PTSX, có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau hình thành nên quy luật về
sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật nàu vạch rõ tính chất phụ thuộc
khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX. Đến lượt mình, QHSX tác động trở lại đối với
LLSX. Khuynh hướng chung của SX là không nhừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt
nguồn từ sự biến đổi và phát triển của LLSX, trước hết là CCLĐ.
Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của CCLĐ, của ký thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng của
người lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động… Trình độ của LLSX gắn với tính chất
của LLSX. Tính chất của LLSX : Khi SX còn trình độ thấp kém thì LLSX có tính chất cá nhân, khi SX
đạt tới trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm
cách cải thiện, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới, tinh xảo hơn,
đồng thời kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con
người cũng tiến bộ theo.
Như vậy, sự thay đổi của xã hội bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi LLSX. Cùng với sự phát triển
của LLSX, QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sự
phù hợp đólà động lực làm cho LLSX phát trỉen mạnh mẽ.
QHSX phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa TLSX và người lao động. Mở ra điều
kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần đối với người lao động. Nhưng LLSX luôn luôn
phát triển còn QHSX có xu hướng tương đối ổn định. Khi LLSX phát triển lên một trình độ mới,
QHSX không còn phù hợp nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó sẽ nảy sinh mâu
thuẫn gay gắt giữa hai mặt của PTSX. Sự phát triển khách đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ QHSX cũ,
thay thế bằng một QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của LLSX, mở đường cho LLSX
phát triển. Việc xóa bỏ QHSX cũ, thay thế bằng QHSX mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của một

PTSX lỗi thời và sự ra đời của PTSX mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa LLSX
mới và QHSX lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề tất yếu của
các cuộc cách mạng xã hội. Đây là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại
“Quy luật QHSX phù hợp với trình độ PT của LLSX”. QHSX phù hợp với trình độ của LLSX lại trở
thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho LLSX phát triển. QHSX không phù hợp với trình độ
của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Song tác động kìm hãm đó cũng chỉ có tính chất tạm
thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng QH cũng se phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX. Sở dĩ QHSX có tác động trở lại mạnh mẽ với LLSX là vì nó qui định: Mục đích
của SX, hệ thống quản lý của SX và quản lý xã hội, Phương thức phân phối và phần của cải ít hay
nhiều mà người lao động được hưởng. Từ đó, nó sẽ tạo ra những điều kiện để kích thích việc cải tiến
lao động và kỹ thuật sản xuất, thúc đẩy LLSX phát triển. Thực tiễn đã cho thấy LLSX chỉ có thể phát
triển khi có một QHSX hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. QHSX lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách
giả tạo cũnhg sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và
trình độ của LLSX là quy luật chung nhất của sự phát triển XH. Sự tác động cảu quy luật này đã đưa
xã hội loài ngưòi trải qua các PTSX khác nhau. Tuy nhiên không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết
phải tuần tự trải qua các PTSX, một số nước có thể bỏ qua hợc một số các PTSX để tiến lên PTSX mới
cao hơn.
3. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX ở nước ta:
Nước ta lựa chọn con đường XHCN bỏ qua chế độ TBCN từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây
dựng phương thức sản xuất XHCN là một quá trình lâu dài và đầy khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm
thực tế chỉ rõ, lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp QHSX lạc hậu mà cả khi
QHSX phát triển không đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp
đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất XHCN, chúng ta chủ
trương xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của CNXH. Từng bước xã hội hóa XHCN, quá trình đó được thực hiện
không phải bằng gò ép mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như
công ty cổ phần, Chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác xã … để dần dần hình thành các

tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ
bỏ qua những gì của xã hội cũ không còn phù hợp với xã hội mới thay thế và không đem lại hiệu quả
kinh tế - xã hội cao hơn; chúng ta chủ trương thực hiện sự chuyển hóa cái cũ thành cái mới theo định
hướng XHCN.












CÂU 12: Anh/chị hãy phân tích phép biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong
sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vận dụng phép biện chứng này như thế nào vào giai đoạn cách mạng hiện nay?
* Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội
nhất định.
* Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức,
tôn giáo …, các thể chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo hội … được hình thành trên
một CSHT nhất định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
CSHT quyết định KTTT (CSHT nào thì KTTT nấy):
+ Trật tự kinh tế xét đến cùng quy định trật tự chính trị, mâu thuẫn trong kinh tế gây ra mâu
thuẫn trong chính trị. Giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó thống trị trong
chính trị.
+ Tất cả các yếu tố của KTTT đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do CSHT

quy định.
+ CSHT thay đổi hay mất đi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi hay mất đi để cho
một KTTT mới ra đời, tuy nhiên, đây là một quá trình phức tạp.
Sự tác động của KTTT đến CSHT: Do KTTT và mỗi yếu tố của nó có tính độc lập tương đối và vai
trò khác nhau nên chúng tác động đến CSHT theo những cách những xu hướng khác nhau.
+ Chức năng chính của KTTT là xây dựng, củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó, chống lại
mọi nguy cơ làm suy yếu hay phá hoại chế độ kinh tế hiện hành.
+ KTTT tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội, nhưng nó không thể làm thay đổi xu hướng
phát triển khách quan của đời sống kinh tế - xã hội. Sự tác động của nó chủ yếu diễn ra theo
hai hướng:
 Nếu phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT thúc đẩy sự tăng trưởng, đảm
bảo sự phát triển bền vững cho CSHT.
 Nếu không phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT kìm hãm sự tăng
trưởng, gây bất ổn cho sđời sống xã hội.
* Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện
nay:
Nước ta đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau: từ xã hội cộng sản nguyên thủy tiến
lên xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến rồi tiến hóa lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa và đỉnh cao nhất trong quá trình tiến hóa này là chủ nghĩa cộng sản. Nước ta đang trong giai
đoạn xây dựng CNXH theo hướng xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó
mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT là 1 quá trình đấu tranh lâu dài giữa cái mới và cái cũ.
CNXH đang trong quá trình xây dựng nên cái mới còn rất non yếu, muốn xóa bỏ hết tàn dư của xã hội
cũ – đại diện cho cái cũ rất khó bởi nó đã tồn tại lâu dài. Tuy nhiên, con đường đi lên CNXH ở nước ta
diễn ra theo các quy luật khách quan của thời đại chứ không phải do ý muốn chủ quan của con người
quyết định nên nó là cái mới nhưng hợp quy luật nên ngày càng phát triển và ngược lại cái cũ không
hợp quy luật sẽ ngày càng yếu đi.
Đảng ta đã ra sức xây dựng CNXH trong đó phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Quá trình xây dựng
này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo
…, các thể chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo hội cho phù hợp với sự phát triển của

phương thức sản xuất mà Đảng đã đề ra để góp phần xây dựng một nhà nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
























×