Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Triết học dành cho các lớp cao học thi kết thúc học phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.04 KB, 30 trang )

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU BAN TRIẾT HỌC
CÂU HỎI ÔN TẬP THI KẾT THÚC HỌC PHẦN TRIẾT HỌC
DÙNG CHO CÁC LỚP CAO HỌC KHÓA 20
* * * * * *
Câu 1: Anh/Chị hãy phân tích bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là
hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học.
Bản chất của CNDVBC:
 CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:
CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn, máy móc  không thấy được tính năng động của ý thức; riêng
CNDVBC khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn ý thức tác
động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con người.
 CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng tính
siêu hình, PBC được nghiên cứu trong hệ thống triết học duy tâm  Mác cải tạo CNDV cũ, giải
thoát PBC ra khỏi tính thần bí, tư biện  xây dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa TGQDV với
PBC.
 CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn
trong lĩnh vực xã hội. CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng của loài
người: CNDV cũ không triệt để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV vào nghiên cứu
lĩnh vực xã hội, tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát
thực tiễn mới của giai cấp vô sản. Với CNDVLS nhân loại tiến bộ có được một công cụ vĩ đại trong
nhận thức, cải tạo thế giới.
 CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người trong hoạt động
thực tiễn cải tạo thế giới:
 CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp lợi ích nhân
loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học  CNDVBC trở thành hệ tư
tưởng của giai cấp vô sản có sự thống nhất tính khoa học và tính cách mạng.
 CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
 CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng cái mới
tiến bộ.
 CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.


Câu 2: Đảng ta khẳng định: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan”. Anh/Chị hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học (cơ sở lý
luận và cơ sở phương pháp luận) của khẳng định đó.
Trả lời:
Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản đơn, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi mới có nguyên nhân và gây ra tác hại
lớn.
Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý
luận, ít kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Đồng thời do sai lầm ấu trĩ “tả” khuynh,
xảy ra trong một điều kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta (Biết phát huy tối đa sức mạnh tinh
thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ ) nhưng lại không xuất phát từ hiện thực,
bất chấp quy bluật, coi thường tri thức KH,… Nên tạo ra những chính sách sai lầm, gây ra những
hậu quả về nhiều mặt (kinh tế, xã hội…) rất nghiêm trọng & kéo dài.
Để có thể khắc phục triệt để chủ nghĩa chủ quan phải quán triệt thực hiện nguyên tắc khách
quan. Vì nguyên tắc khách quan là nguyên tắc đầu tiên của tư duy biện chứng, Vận dụng nguyên tắc
khách quan kết hợp với chủ quan trong hoạt động nhận thức sẽ tránh được những sai lầm trong
chính sách phát triển đất nước.
Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối chủ trương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm được điều đó Phải tôn trọng hiện
thực kh.quan, tôn trọng vai trò quyết định của VC, tức:
 Xuất phát của hiện thực kh.quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến lược,
sách lược phát triển đất nước;
 Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức những lực lượng vật chất (cá nhân – cộng đồng, kinh tế –
quân sự, trong nước – ngoài nước, quá khứ – tương lai,…) để hiện thực hóa chúng.
 Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ
yếu phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh tế, chính trị,
tinh thần, ; cá nhân, tập thể, xã hội) thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của YT, ph.huy vai trò của các yếu tố chủ
quan (t.thức, t.cảm, ý chí, lý trí, ), tức ph.huy vai trò nhân tố CN trong h.động nhận thức & thực
tiễn cải tạo đất nước. Cụ thể:

 Coi sự thống nhất nhiệt tình CM & tri thức KH là động lực tinh thần thúc đẩy công
cuộc Đổi mới; Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ; Bồi dưỡng nhiệt tình, phẩm
chất cách mạng; Khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường, tài trí người Việt Nam,…
 Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác–Lênin, tư
tưởng HCM); Nâng cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH & con đường đi lên CNXH);
 Phổ biến tri thức KH cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.
 Kiên quyết khắc phục & ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ,
hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng; bất chấp quy luật
khách quan.
Câu 3: Bằng lý luận và thực tiễn, Anh/Chị hãy chứng minh rằng: “Ý thức con người không
chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới”.
Trả lời:
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự
phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Ý thức của con người là cơ
năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin).
Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc của con người và sau đó, thông qua thực
tiễn lao động, nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã hội – vật chất
mang/chứa ý thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí….
Trong đó, tri thức (yếu tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức và tình cảm thống
nhất, chuyển hoá lẫn nhau; sự thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy
hoạt động của con người, góp phần làm cho con người trở thành chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
Thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người xâm nhập
vào hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức mạnh này, ý
thức tác động đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con người không chỉ phản
ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới theo nhu cầu thực tiễn xã hội.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý thức
có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể
tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết khoa
học hết sức trừu tượng và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất phức tạp và
phong phú của đời sống tâm lý – ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên

cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng ấy.
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh
hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo, thống nhất 3 mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất
hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất, đây là
quá trình “ sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất tạo thành
các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá tư tưởng,
thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất
trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn
những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện
mục đích của mình.
Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản ánh mà kết
quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý
thức.
Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ
nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn,
tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ
thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học, văn hoá và tư tưỏng.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều
kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt được
những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế
trong một thời gian ngắn hay không? Chúng ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các
nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn
bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong
các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải
không ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành
niềm tin và ý chí thì tự nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. Chỉ chú trọng đến
tri thức mà bỏ qua công tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống

của dân tộc. Chức năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không
có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Còn
cách mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ tư
tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra được
những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì con người mới có thể
tham gia xây dựng đất nước.
Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư tưởng
có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp đúng đắn tạo
điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội.
Câu 4: Lý luận, phương pháp là gì? Mối quan hệ giữa chúng. Anh/Chị hãy phân tích cơ sở
lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc toàn diện. Việc tuân thủ nguyên tắc này
sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
4.1 Anh ( chị) hãy nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên
tắc toàn diện
Định nghĩa phương pháp luận: Là học thuyết (lý luận) về phương pháp; nó vạch ra cách thức xây
dựng và nghệ thuật vận dụng phương pháp. Phương pháp luận còn được coi như “ một hệ thống các
quan điểm, nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong
mọi lĩnh vực hiện thực.
Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận động, phát triển của
mọi sự vật, quá trình xãy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.
Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối liên hệ giữa: mặt đối
lập- mặt đối lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêng- cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội
dung – hình thức; bản chất- hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực.
Nội dung nguyên lý:
◊ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn
nhau.
◊ Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến

◊ Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá
trình vận động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xãy ra trong thế giới.
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt
- Phân loại để xác định những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định ; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay
những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên,
không ổn định…;
- Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) bên
trong cơ bản, tất nhiên, ổn định…. Để lý giải được những mối liên hệ, quan hệ ((hay những
đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) còn lại. Qua đó xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự
thống nhất các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…); phát
hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) chi phối sự vật.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích
hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối
liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) để biến đổi những mối liên
hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật, đặc biệt là
những mối liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…. của nó.
- Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…)của bản thân sự vật; kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để
phát huy hay hạn chế hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát
triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta.
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ
nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện,… trong hoạt động thực tiễn và
nhận thức của chính mình.

+ Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó
mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật.
+ Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật chứ không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật, mà
coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
+ Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái
chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một
cách tinh vi.
- Trong xã hội nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận
thức mà còn liên hệ nhận thức với cuộc sống; phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá
nhân hay giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn)
và lợi ích không cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản; phải biết phát huy (hay hạn chế)
mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn
hóa, ) từ các thành phần kinh tế khác, từ các tổ chức, chính trị xã hội… để có thái độ, biện
pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn
điều, tức không thấy được trọng tâm cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
4.2 Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động
nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chúng ta khắc phục được
chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện… trong hoạt động thực tiễn và
nhận thức của chính mình.
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó
mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật. thường xem xét dàn
trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng mà không làm nổi bật cái cơ
bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật
nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật mà coi chúng
như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện. Do đó hoàn toàn bất lực khi cần phải có
quyết sách đúng đắn.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái

chủ yếu với cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách
tinh vi.
Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn diện có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi chúng
ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ nhận thức với thực tiễn cuộc sống,
phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá nhân hay các giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết
phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản, phải biết phát huy hay hạn chế
mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa…)
từ các thành phần kinh tế, từ các tổ chức chính trị - xã hội… để có thái độ, biện pháp, đối sách hành
động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn đều, tức không thấy được
trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
Câu 5: Anh/Chị hãy phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận
dụng quy luật này như thế nào vào công cuộc Đổi mới hiện nay ở nước ta.
1. Đặt vấn đề.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn), là một trong
ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, là hạt nhân của phép biện chứng, nó vạch ra nguồn
gốc bên trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
2. Các khái niệm.
Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao
nhất trong học thuyết của triết học cổ điển Đức, tiêu biểu nhất là Cantơ và Hêghen. Song, do bị chi
phối bởi quan niệm duy tâm, nên không thể phát triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng đến độ triệt
để.
Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu có giá trị nhất trong toàn bộ lịch sử triết học và dựa
trên những thành quả mới nhất của khoa học hiện đại, C.Mác và PH.Ăngghen đã phát triển học
thuyết mâu thuẫn biện chứng lên một tầm cao mới. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã cho
rằng, chúng ta phải tìm xung lực vận động và phát triển của sự vật trong chính sự vật đó, trong
những mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý luận đó được thể hiện trong quy luật thống nhất
và đấu tranh của của các mặt đối lập.
Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được làm sáng tỏ thông
qua một loạt những phạm trù cơ bản: “ mặt đối lập”, “sự thống nhất” và “ đấu tranh của các mặt đối

lập”
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong nguyên
tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong kinh tế thị trường có cung và
cầu, v.v Những mặt trái ngược nhau đó, trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập. Mặt đối
lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định
có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện
chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan trong cả tự nhiên lẫn trong xã hội và tư duy.
Hai mặt đối lập tuy có tính bày trừ, phủ định nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, tồn tại
trong sự thống nhất của chúng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi
có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “sự thống nhất của các mặt đối
lập” còn bao hàm sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà
trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Như vậy, các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn tác động qua lại với nhau “đấu tranh” với
nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn
nhau giữa các mặt đó.
3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn biện chứng
cũng bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự
đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và
phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập là tuyệt đối.
Vậy mâu thuẫn biện chứng có quan hệ như thế nào với nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển?
Mâu thuẫn là sự tác động lẫn nhau của các mặt, các khuynh hướng đối lập. Chính sự tác động qua
lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc vận động và phát triển, là xung lực của sự sống.
Chẳng hạn, tư tưởng, nhận thức của con người không thể phát triển, nếu không có sự cọ xát thường
xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai
Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và sự thay đổi. Thống

nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do vậy,
mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại trong tất cả các sự vật và hiện
tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng.
4. Phân loại mâu thuẫn
a) Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự
vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó
với các sự vật khác nhau. (Thí dụ, sự tác động qua lại giữa đồng hoá và dị hoá của một sinh vật là
mâu thuẫn bên trong, sự tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường - khi xét cơ thể là một sự vật - là
mâu thuẫn bên ngoài). Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp với quá trình vận động và
phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác
động nhau.
b) Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất
của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn
tại của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự
vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật.
c) Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật,
giải quyết nó sẽ tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những mâu thuẫn thứ
yếu). Sự phát triển hơn nữa của sự vật, chuyển hoá nó sang giai đoạn tồn tại khác của mình phụ
thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
c) Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã
hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau (Thí dụ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản,
giữa tư sản và vô sản). Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh
hướng xã hội có đối lập về lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời (Thí dụ mâu thuẫn giữa tầng lớp
nông dân, giữa các bộ phận công nhân khác nhau, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, ở
nước ta hiện nay).
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác

định phương pháp giải quyết mâu thuẫn.
5. Ý nghĩa phương pháp luận.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận
quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Để phân tích đúng bản chất của sự vật, trước hết phải nhận thức sự vật như một thực thể đồng
nhất, tiếp đó phải nghiên cứu những mặt khác nhau, những mặt đối lập và tác động qua lại giữa các
mặt đối lập để nhận biết mâu thuẫn và nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi toàn bộ quá trình phát
sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng giai đoạn.
- Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực
lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực
tế.
- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta không được giải
quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; phải tạo điều kiện thức đẩy sự chín
muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết.
- Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc
vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với
từng mâu thuẫn.
Tóm lại, từ những điều trình bày trên đây, chúng ta nhận thấy, mọi sự vật và hiện tượng đều chứa
đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành mâu thuẫn trong bản thân sự vật; sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn
đến sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
Câu 6: Anh/Chị hãy phân tích nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại, và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã và đang vận dụng quy luật này như thế nào vào công cuộc Đổi mới hiện nay ở
nước ta.
Quy luật chuyển hóa từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất & ngược lại:
Chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy:
 Chất - tính quy định vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật là nó, giúp phân biệt nó với sự
vật khác.

 Lượng - tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị quy mô, tốc độ vận động, phát triển của sự
vật cũng như của các thuộc tính (chất) của nó.
 Độ - giới hạn mà trong đó sự thay đổi về Lượng chưa làm Chất thay đổi căn bản.
 Điểm nút - mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về Lượng vượt qua nó sẽ làm Chất thay đổi căn
bản.
 Bước nhảy - sự chuyển hóa về Chất do những thay đổi về Lượng trước đó gây ra; Bước nhảy
là giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của sự vật, nó tồn tại khách quan, phổ biến, đa
dạng (Bước nhảy toàn bộ/Bước nhảy cục bộ; Bước nhảy đột biến/Bước nhảy dần dần; Bước
nhảy tự nhiên/Bước nhảy xã hội/Bước nhảy tư duy).
Nội dung quy luật:
 Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa Chất và Lượng.
 Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về Lượng (liên tục, tiệm tiến); nếu Lượng
thay đổi trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì Chất không thay đổi căn bản; khi Lượng thay đổi
vượt qua độ, quá điểm nút thì Chất sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy xảy ra.
 Bước nhảy làm cho Chất thay đổi (gián đoạn, đột biến) – Chất (Sự vật ) cũ mất đi, Chất (Sự
vật) mới ra đời; Chất mới gây ra sự thay đổi về Lượng (làm thay đổi quy mô tồn tại, tốc độ,
nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật ).
 Sự thay đổi về Lượng gây ra sự thay đổi về Chất; sự thay đổi về Chất gây ra sự thay đổi về
Lượng là phương thức vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới; phát triển vừa mang
tính liên tục vừa mang tính gián đoạn.
Phân tích:
Trong quá trình vận động và phát triển, Chất và Lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi
của Lượng và của Chất không diễn ra độc lập với nhau, mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của Lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản Chất
của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi
căn bản Chất của sự vật đó. Khi vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất
đi, chất mới ra đời (bước nhảy xảy ra).
Vd: Khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với tư cách là những chất khác nhau
(chất – trạng thái), ứng với chất – trạng thái đó, Lượng ở đây là nhiệt độ, thì dù Lượng có thay đổi
trong một phạm vi khá lớn (0 độ C< t<100 độ C), nước vẫn ở trạng thái lỏng (tức là chưa thay đổi

về chất – trạng thái). Khi nhiệt độ của nước giảm đến 0 độ C nước sẽ chuyển sang trạng thái rắn và
khi đạt đến 100 độ C nước sẽ chuyển sang trạng thái hơi (bước nhảy xảy ra). Ở đây, 0 độ C và 100
độ được gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút. Sau khi ra đời,
chất mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của
sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Ýnghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
 Phát hiện chính xác các quy định về chất và lượng của sự vật; thấy được sự thống nhất giữa
chúng để xác định đúng độ, điểm nút của sự vật;
 Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác định đúng tính chất, quy mô, tiến độ
của bước nhảy có thể xảy ra;
 Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá độ, quá điểm nút; còn nếu lượng chưa
thay đổi qua độ, chưa qua điểm nút thì bước chưa thể xảy ra, chất chưa thay đổi căn bản được;
 Xác định được chất mới (sau khi sự vật thực hiện bước nhảy), qua đó xác định lượng độ, điểm
nút và bước nhảy, tức định hình được sự vật mới phải ra đời thay thế sự vật cũ như thế nào.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
 Hiểu rõphương thức vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng các đối sách thích hợp;
 Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh hoạt các công cụ, phương tiện vật chất can thiệp
đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triểncủa sự vật, lèo lái nó
theo đúng quy luật và hợp lợi ích cùa chúng ta. Cụ thể:
◊ Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy thay đổi về lượng;
◊ Muốn duy trì sự ổn định của chất phải giữ sự thay đổi về lượng trong phạm vi giới hạn
độ;
◊ Khi lượng thay đổi đạt tới giới hạn độphải kiên quyết thực hiện bước nhảy.
Câu 7: Anh/Chị hãy giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của
phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển
thêm”.
Trả lời:

- PBC là hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên hệ và sự
vận động, phát triển của thế giới vật chất.
* Nguyên lý là những luận điểm xuất phát, những tư tưởng chủ đạo của một học thuyết hay lý luận
mà tính chân lý của chúng là hiển nhiên, không thể hay không cần phải chứng minh nhưng không
mâu thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết hay lý luận đó phản ánh.
- Với tính cách là một học thuyết triết học, PBCDV được xây dựng dựa trên 2 nguyên lý cơ bản: NL
về mối liên hệ phổ biến và NL về sự phát triển.
- NL về mối liên hệ phổ biến: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của MLH xảy ra trong các
lĩnh vực khác nhau của thế giới, NL về mối liên hệ phổ biến có nội dung như sau:
+ Mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn MLH ràng buộc
qua lại lẫn nhau.
+ Trong muôn vàn MLH chi phối sự tồn tại của SV, HT, QT trong thế giới có MLH phổ biến.
MLH phổ biến tồn tại khách quan – phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự VĐ và PT của mọi
SV, HT, QT trong thế giới.
- NL về sự phát triển: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển xảy ra trong các lĩnh
vực khác nhau của thế giới, NL về sự phát triển có nội dung như sau:
+ Mọi SV, HT trong thế giới đều không ngừng VĐ và PT.
+ PT mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất do
việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của
phủ định.
* Quy luật: là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, chung, lặp lại giữa các sự vật, hiện
tượng và chi phối sự vận động, phát triển của chúng. PBCDV gồm 3 quy luật cơ bản sau:
1 – QL thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
- Mặt đối lập: SV là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và với môi
trường. Kết quả của sự tương tác này là các yếu tố tạo nên bản thân SV có một sự biến đổi nhất
định, trong đó có một vài yếu tố biến đổi trái ngược nhau. Những yếu tố trái ngược nhau (bên cạnh
những yếu tố giống hay khác nhau) tạo nên cơ sở của các mặt đối lập trong SV. MĐL tồn tại k.quan
và phổ biến.
- Thống nhất của các mặt đối lập là các MĐL kg tách rời nhau tức MĐL này lấy MĐL kia

làm điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của mình; là các MĐL đồng nhất nhau tức trong chúng chứa
những yếu tố giống nhau cho phép chúng đồng tồn tại trong SV; là các MĐL tác động ngang nhau,
tức sự thay đổi trong MĐL này tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong MĐL kia, và ngược lại.
- Đấu tranh của các MĐL: Dù tồn tại trong sự thống nhất, song các MĐL luôn đấu tranh với
nhau, tức chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định hay loại bỏ lẫn nhau. Hình
thức và mức độ đấu tranh của các MĐL rất đa dạng, trong đó thủ tiêu lẫn nhau là một hình thức đặc
biệt của các MĐL.
- Mâu thuẫn BC, tức sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL, tồn tại k.quan phổ biến và đa
dạng (MT bên trong – MT bên ngoài; MT cơ bản – MT kg cơ bản; MT chủ yếu – MT thứ yếu; MT
trong tự nhiên – MT trong xã hội – MT trong tư duy). Sự tác động lên bản thân sự vật là nguồn
gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển xảy ra trong thế giới.
- Chuyển hóa của các MĐL (giải quyết MTBC): sự thống nhất mang tính tương đối gắn liền
với sự ổn định của SV; sự đấu tranh mang tính tuyệt đối gắn liền với sự VĐ, thay đổi của SV.
MTBC phát triển tương ứng với quá trình thống nhất các MĐL chuyển từ mức độ trừu tượng sang
cụ thể; còn sự đấu tranh các MĐL chuyển từ mức bình lặng sang quyết liệt từ đó làm xuất hiện các
khả năng chuyển hóa của các MĐL. Khi đk k.quan hội đủ, một trong khả năng đó biến thành hiện
thực, các MĐL tự thực hiện quá trình chuyển hóa. MTBC sẽ được giải quyết khi các MĐL tự phủ
định chính mình để biến thành cái khác. Với hai phương thức chuyển hóa như sau: MĐL này
chuyển hóa thành MĐL kia ở trình độ mới và cả hai MĐL cùng chuyển hóa thành một cái thứ 3 nào
đó.
- Nd quy luật: Các MTBC khác nhau tác động kg giống nhau đến quá trình vận động và phát
triển của sự vật. Mỗi MTBC đều trải qua các giai đoạn từ sinh thành (sự xuất hiện của các MĐL)
sanh hiện hữu (sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL), rồi giải quyết (sự chuyển hóa của các
MĐL). MTBC được giải quyết, cái cũ mất đi cái mới ra đời với những MTBC mới hay thay đổi vai
trò tác động của MTBC cũ. MTBC là nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển. Do đó, VĐ và
PT trong thế giới vật chất là tự bản thân nó.
-> Phép biện chứng đòi hỏi xem xét sự thống nhất của các mặt đối lập một cách cụ thể, xem xét
những mối quan hệ cụ thể. Đây cũng là bản chất của sự đồng nhất mang tính biện chứng, sự đồng nhất
có chứa đựng các yếu tố khác biệt.
-> Nhấn mạnh tính chất quan trọng của sự thống nhất của các mặt đối lập, V.I.Lênin đưa ra

một định nghĩa nữa về phép biện chứng: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết
về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng
điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”. Phép biện chứng là sự phát
triển của nó, các mặt đối lập và mâu thuẫn - hạt nhân của phép biện chứng.
2 – QL chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại: Mọi
SV đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa lượng và chất. SV bắt đầu bằng sự thay đổi về
lượng một cách liên tục hay tiệm tiến); nếu lượng chỉ thay đổi trong độ; chưa vượt quá điểm nút thì
chất kg thay đổi căn bản; khi lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất sẽ thay đổi căn bản,
bước nhảy nhất định sẽ xảy ra. Bước nhảy làm cho chất thay một cách gián đoạn hay đột biến; chất
cũ mất đi chất mới ra đời. Chất mới gây ra sự thay đổi về lượng. Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay
đổi về chất và sự thay đổi về chất gây ra sự thay đổi về lượng là phương thức VĐ, PT của SV trong
thế giới.
3 – QL phủ định của phủ định: Mọi SV đều liên hệ lẫn nhau và luôn vận động phát triển. Phát triển
là một chuỗi các lần phủ định BC có gắn liền với việc giải quyết mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy
về chất xảy ra bên trong SV. PĐBC man tính k.quan – nội tại, kế thừa – tiến lên. Qua một số lần
PĐBC xuất hiện PĐ của PĐ, xác lập cái cũ ở một trình độ cao hơn. PĐ của PĐ vạch ra khuynh
hướng phát triển xoắn ốc tiến lên của mọi SV trong thế giới.
* Ngoài những nguyên lý và QL, PBC còn có sáu cặp phạm trù: cái riêng và các chung, nguyên
nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng
và hiện thực.
Tóm lại, PBC DV là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là hệ thống các
phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá và điều
chỉnh các hành vi trong hoạt động của mình.
Câu 8: Cơ sở nào để khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể là “linh hồn” phương pháp luận
của triết học Mác – Lênin? Nêu những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào công cuộc Đổi mới
hiện nay ở nước ta.
a/ - Cơ sở khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn” phương pháp
luận của triết học Mác – Lênin
- Triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết

học trong lịch sử nhân lọai.
- Triết học Mác-Lênin xem xét lịch sử xuất phát từ con người và cho rằng con người là sản
phẩm của lịch sử.
b/- Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc LS-CT
1. Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát
triển cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nghĩa là:
- Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện, hoàn cảnh
nào, bị chi phối bởi những quy luật nào;
- Hiện giờ sự vật đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra sao, do
những quy luật nào chi phối;
- Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế nào (trên những
nét cơ bản) trong tương lai
2. Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng
cho những sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể mà không
nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn
cảnh, quan hệ nào.
3. Nguyên tắc LS-CT được V.I. Lênin cô đọng trong nhận định: “Xem xét mỗi vấn đề
theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, những
hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự
phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành thế nào”.
Điều này có nghĩa là nguyên tắc LS-CT đỏi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong những tình
hình cụ thể để thấy được:
- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua những
độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất, lượng mới nào?
- Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn đó
đang nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của sự vật?
- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào đang
(đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?
- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái riêng
hay cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù / cái phổ biến; chúng quy định nhau, chuyển

hóa lẫn nhau như thế nào?
- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng nào
chỉ là giả tượng, hiện tượng nào là điển hình …
- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức nào;
hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với nội dung, cái gì
làm cho nội dung của sự vật biến đổi?
- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra những
khả năng nào; mỗi khả năng đó, trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu hiện thực hóa ra
sao?
4. Nguyên tắc LS-CT đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu
khoa học hay các biến cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như những cái ngẫu
nhiên thuần túy của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử như những cái vụn vặt đơn lẻ của xã
hội, mà nó đòi hỏi chúng ta phải tái hiện chúng, mô tả chúng trên cơ sở vạch ra được cái tất yếu lô
gích, cái chung (quy luật, bản chất) của chúng, chỉ ra được những trật tự nhân quả quy định chúng.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức tranh khoa học về thế giới, để qua
đó chúng ta nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú của lịch sử trong sự thống
nhất.
5. Nguyên tắc LS-CT đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng: Xuất phát từ tình
hình cụ thể của CNTB ở giai đoạn tiền độc quyền, tự do cạnh tranh mà C. Mác cho rằng, cách
mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở tất cả các nước TBCN tiên tiến.
Sang thế kỷ 20, CNTB đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế quốc chủ nghĩa. Khi vận
dụng nguyên tắc này vào xem xét tình hình thế giới lúc này có những thay đổi lớn mà V.I. Lênin
đã đi đến kết luận đúng đắn là: cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở vài nước, ở khâu yếu nhất
của CNTB.
Đảng CS Việt Nam, Đảng CS Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên
tắc này vào thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng cho quốc gia mình một con đường riêng
đi lên CNXH.
Vận dụng nguyên tắc LS-CT, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường CNXH. Ngày
nay, để xây dựng thành công CNXH, Đảng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng
hệ thống chính trị vững mạnh.
Câu 9: Phép biện chứng tư duy, tư duy biện chứng là gì? Mối quan hệ giữa chúng? Tư duy
biện chứng có vai trò như thế nào trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của thời đại chúng
ta?
Phép biện chứng tư duy là một hệ thống tư tưởng phản ánh những mối liên hệ cơ bản và
phổ quát – các nguyên lý, quy luật biện chứng – chi phối những hình thức tư duy biện chứng. Về
nguồn gốc, phép biện chứng tư duy chính là sự phản ánh của phép biện chứng khách quan vào trong
bộ óc con người.
Tư duy biện chứng là một hệ thống các nguyên tắc có quan hệ với nhau điều phối hoạt động
của chủ thể tư duy trong việc nhận thức và cải tạo thực tiễn thế giới. Về nguồn gốc, tư duy biện
chứng được xây dựng từ những nội dung cơ bản của phép biện chứng tư duy, trước hết là từ nội
dung của các nguyên lý, quy luật cơ bản.
 Mối quan hệ giữa phép biện chứng tư duy và tư duy biện chứng
Phép biện chứng tư duy có nhiệm vụ giải thích những gì xảy ra trong quá trình tư duy nhận thức,
đồng thời vạch ra những mối liện hệ phổ biến giữa các tiến trình tư duy và diễn đạt điều đó bằng hệ
thống các phạm trù của phép biện chứng duy vật. Trong khi đó, tư duy biện chứng – công cụ nhận
thức hiệu quả được xây dựng từ nội dung của phép biện chứng tư duy nói riêng, phép biện chứng
duy vật nói chung – được chủ thể sử dụng để nắm bắt bản chất của sự vật trong quá trình vận động,
phát triển của chính nó.
Phép biện chứng tư duy thực hiện chức năng chính là giải thích, nó chỉ ra các quy luật mà tư duy
biện chứng tuân theo, các hình thức mà tư duy biện chứng phải dựa vào. Còn tư duy biện chứng
thực hiện chức năng điều tiết, nó chỉ ra chủ thể tư duy phải xử sự như thế nào, phải thực hiện những
thao tác nào để đạt được mục đích là hiểu thấu bản chất của sự vật trong sự vận động và phát triển
của nó – khách thể biện chứng.

Không nên đồng nhất phép biện chứng của tư duy với tư duy biện chứng mặc dù chúng cùng phản
ánh một đối tượng là tư duy lý luận hiện đại. Nói đến phương thức tư duy lý luận khoa học không
nên chỉ chú trọng đến các nguyên tắc chi phối tư duy mà cần phải làm rõ các quy luật, hình thức thể
hiện của nó.
Câu 10: Lý luận, thực tiễn là gì? Anh/Chị hãy phân tích những yêu cầu cơ bản của nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng
nguyên tắc này như thế nào vào công cuộc Đổi mới?
1. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội, nhằm cải tạo tự
nhiện và xã hội. Phạm trù “thực tiễn” là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học
Mác- Lê nin nói chung và lý luận nhận thức mácxít nói riêng.
I.1. Thực tiễn là một hoạt động vật chất
Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất của mình
để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đây là
một quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách
thể. Cho nên thực tiễn trở thành khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
I.2. Hoạt động thực tiễn có mục đích
1.2.1 Hoạt động thực tiễn là bản chất của con người.
1.2.2 Động vật chỉ hoạt động theo bản năng để phù hợp với thế giới bên ngoài một cách thụ động.
Con người chủ động thích nghi với thế giới bên ngoài bằng cách cải tạo thể giới thoả mãn
theo nhu cầu của mình.
1.2.3 Khi hoạt động thực tiễn, để đạt hiệu quả cao, con người tạo ra những vật phẩm không có sẵn
trong tự nhiên, đó chính là những công cụ, và sử dụng chúng.
I.3. Thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội
1.3.1 Trình độ và hình thức hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai đoạn khác nhau của xã hội.
1.3.2 Hoạt động thực tiễn không thể được tiến hành không chỉ một vài cá nhân mà là tòan xã hội
I.4. Các dạng cơ bản và không cơ bản của thực tiễn
I.4.1. Dạng cơ bản:
 Hoạt động sản xuất vật chất – là một dạng họat động nguyên thủy và cơ bản và nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

 Hoạt động chính trị xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội,
chế độ xã hội.
 Hoạt động thực nghiệm khoa học do nhu cầu phát triển của cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật hiện đại.
I.4.2. Dạng không cơ bản: là những họat động được hình thành và phát triển từ những dạng cơ bản,
chúng là dạng thực tiễn phái sinh. Ví dụ: họat động trong một số lĩnh vực như đạo đức, nghệ
thuật, giáo dục, tôn giáo …
2. Phạm trù “lý luận”
2.1. Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ
bản chất bản chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng.
2.2. Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm lý
luận được hình thành, không tự phát và cũng không bắt buộc mọi lý luận đều xuất phát từ
kinh nghiệm. Muốn hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm. Trong quá trình nhận thức, con người đi từ nhận thức kinh nghiệm thông thường đến
nhận thức kinh nghiệm khoa học.
2.3. Chức năng cơ bản của lý luận là phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp
luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người
2.4. Lý luận có hai cấp độ khác nhau, cấp độ lý luận ngành và cấp độ lý luận triết học ( tùy vào
phạm vi phản ánh của nó và vai trò của phương pháp luận).
3. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
3.1. Thực tiễn và lý luận có mối quan hệ biện chứng cho nhau. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là
mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận. Lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực
tiễn, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
3.1.1 Như ở trên ta đã nói, thực tiễn là cơ sở của lý luận. Con người nhận thức giới tự nhiên đầu
tiên bằng hoạt động thực tiễn . Sự tác động của con người buộc giới tự nhiên bộc lộ những
thuộc tính, quy luật để từ đó con người có kinh nghiệm. Quá trình phân tích, tổng hợp, khái
quát kinh nghiệm thành một môn khoa học lý luận. Thực tiễn đề ra những vấn đề mà lý luận
phải trả lời.
3.1.2 Thực tiễn là động lực của lý luận. Qua hoạt thực tiễn luôn nảy sinh những vấn đề đòi hỏi lý
luận phải hoàn thiện chính mình để bao quát và giải quyết tốt các vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Điều này càng làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
3.1.3 Thực tiễn là mục đích của lý luận. Không có thực tiễn thì lý luận không thể đem lại lợi ích
cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và qua thực tiễn đã giúp cho lý luận
hoàn thành được mục đích của mình. Lý luận hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn làm cho thực tiễn
ngày càng hiệu quả hơn.
3.1.4 Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù hợp
với thực tiễn khách quan mà nó phản ánh, và đồng thời nó được thực tiễn kiểm nghiệm.
Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tang tri thức
nhân loại.
3.2. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Thực
tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận để làm cho thực tiễn có hiệu quả nhất.
3.2.1. Hoạt động thực tiễn của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường.
Khi lý luận đạt đến chân lý thì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng,
phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển của các mối
quan hệ thực tiễn.
3.2.2. Vận dụng lý luận vào thực tiễn cần phân tích rõ từng tình hình cụ thể, tránh vận dụng lý luận
máy móc, giáo điều kinh viện . Như vậy chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm
phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn
3.2.3. Từ lý luận xây dựng mô hình thực tiễn phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế những yếu
tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
3.2.4. Bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời bổ sung những khuyết điểm của lý luận hoặc có
thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Câu 11: Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là gì? Anh/Chị hãy phân tích
nguyên nhân cơ bản và chỉ ra cách khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều đã xuất hiện ở nước ta trước Đổi mới. Muốn khắc phục triệt để bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều chúng ta phải quán triệt nguyên tắc nào? Phân tích
các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc đó.
Bổ sung thêm định nghĩa nhé.
1/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm:
- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận

khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.
- Kinh nghiệm là rất quý, góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định và là cơ
sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm một nơi, một lúc nào đó, xem
thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh
thay đổi. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ nguyên nhân chủ quan: dễ thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý luận, không
chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, coi thường giới trí thức, thiếu nhìn xa
trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.
+ nguyên nhân khách quan: sự tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ, trình độ dân trí thấp, khoa
học – kỹ thuật chưa phát triển, Nho giáo phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề.
2/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh giáo điều:
- Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách
rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp dụng kinh nghiệm một cách rập
khuôn, máy móc.
- Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo kiểu
“tầm chương trích cú”; hiểu lý luận một cách phiến diện, hời hợt, biến lý luận thành tín điều và áp
dụng lý luận một cách máy móc; vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý
luận. Nguyên nhân của bệnh giáo điều là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ hiểu lý luận bằng kinh nghiệm, hiểu lý luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ
lược…
+ xuyên tạc, bóp méo lý luận…
3/. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả:
Hoàn cảnh giai cấp vô sản của nước ta trong buổi đầu cách mạng vừa giành độc lập tự do làm mảnh
đất màu mỡ cho các bệnh này phát triển nhanh, tuy nhiên chúng ta đã để chúng tồn tại quá dài. Để
khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải quán triệt nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác – Lênin. Cụ thể:
- Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra trong thực tiễn
và không ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung,
vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn;
- Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và

đào tạo, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…;
- Phải đổi mới công tác lý luận của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt nhiệm vụ, hướng nghiên cứu chủ yếu và phương châm lớn chỉ đạo
hoạt động lý luận của Đảng;
- Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị trường luôn vận
động và biến đổi, đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, phải thường
xuyên bám sát thị trường để ứng phó cho phù hợp
- Phải đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp khoảng cách giữa lý
luận và thực tiễn bằng cách:
+ từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện;
+ thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực tế của
nước ta;
- Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ
sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới, quan điểm mới để chỉ đạo
sự nghiệm đổi mới xã hội.
Câu 12: Anh/Chị hãy phân tích nội dung cơ bản của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang
vận dụng quy luật này như thế nào vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay.
Trả lời:
I Biện chứng giữa lực lượng sản xuất (PTSX) và quan hệ sản xuất (QHSX)
1.1 khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
1.1PTSX : là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc tưng bằng một PTSX nhất định.
PTSX đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội : Kinh tế, chính trị, văn
hóa và xã hội.
Sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài ngưòi
từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có quan hệ : Một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là LLSX,

mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. PTSX chính là sự thống nhất
giữa LLSX ở một trình độ nhất định với QHSX tương ứng.
1.2 LLSX : là toàn bộ các lực lượng đựoc con người sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất.
LLSX biểu hiện quan hệ giữa người với người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình sản xuất,
con người phải chinh phục giới tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình.
LLSX bao gồm : Con người (CN) và tư liệu sản xuất (TLSX)
* TLSX : bao gồm :
+Đối tượng lao động : một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
+ Tư liệu lao động : Công cụ lao động và kho tàng bến bãi, giao thông vận tải.
Trong TLLĐ, công cụ lao động không ngừng đựoc cải tiến, cho nên nó là yếu tố động nhất, cách
mạng nhất. Chính sự cải tiến và hòan thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ
tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
*Con người: là yếu tố có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực
lươngj tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng được kết hợp với lao động sống, đó chính là
con người, với những kỹ năng, kỷ xảo, với trí tuệ và kinh nghiệm của mình. Hàm lượng trí tuệ trong
điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt của
sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
1.3 QHSX: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Thể hiện
qua 3 mặt : Quan hệ giữa ngưòi với người đối với việc sở hữu về TLSX, quan hệ giữa người với
người đối với việc tổ chức quản lý, quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định
đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc
vào vấn đề những TLSX chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có 2 hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
II. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX:
LLSX và QHSX là hai m?t c?a PTSX, có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau hình thành nên
quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật nàu vạch rõ tính
chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX. Đến lượt mình, QHSX tác động
trở lại đối với LLSX. Khuynh hướng chung của SX là không nhừng phát triển. Sự phát triển đó xét
đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của LLSX, trước hết là CCLĐ.

Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của CCLĐ, của ký thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng
của người lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động… Trình độ của LLSX gắn với
tính chất của LLSX. Tính chất của LLSX : Khi SX còn trình độ thấp kém thì LLSX có tính chất cá
nhân, khi SX đạt tới trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính
xã hội hóa. Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người
luôn luôn tìm cách cải thiện, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới,
tinh xảo hơn, đồng thời kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa
học của con người cũng tiến bộ theo.
Như vậy, sự thay đổi của xã hội bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi LLSX. Cùng với sự phát
triển của LLSX, QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX. Sự phù hợp đólà động lực làm cho LLSX phát trỉen mạnh mẽ.
QHSX phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa TLSX và người lao động. Mở ra điều
kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần đối với người lao động. Nhưng LLSX luôn
luôn phát triển còn QHSX có xu hướng tương đối ổn định. Khi LLSX phát triển lên một trình độ
mới, QHSX không còn phù hợp nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó sẽ nảy sinh
mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của PTSX. Sự phát triển khách đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ
QHSX cũ, thay thế bằng một QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của LLSX, mở
đường cho LLSX phát triển. Việc xóa bỏ QHSX cũ, thay thế bằng QHSX mới cũng có nghĩa là sự
diệt vong của một PTSX lỗi thời và sự ra đời của PTSX mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng,
mâu thuẫn giữa LLSX mới và QHSX lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng
thời là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội. Đây là quy luật phổ biến tác động trong toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại “Quy luật QHSX phù hợp với trình độ PT của LLSX”. QHSX phù
hợp với trình độ của LLSX lại trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho LLSX phát triển.
QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Song tác động
kìm hãm đó cũng chỉ có tính chất tạm thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng QH cũng se phải
thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sở dĩ QHSX có tác động trở lại mạnh mẽ
với LLSX là vì nó qui định: Mục đích của SX, hệ thống quản lý của SX và quản lý xã hội, Phương
thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Từ đó, nó sẽ tạo ra
những điều kiện để kích thích việc cải tiến lao động và kỹ thuật sản xuất, thúc đẩy LLSX phát triển.
Thực tiễn đã cho thấy LLSX chỉ có thể phát triển khi có một QHSX hợp lý, đồng bộ, phù hợp với

nó. QHSX lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũnhg sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là quy luật chung nhất của sự
phát triển XH. Sự tác động cảu quy luật này đã đưa xã hội loài ngưòi trải qua các PTSX khác nhau.
Tuy nhiên không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua các PTSX, một số nước
có thể bỏ qua hợc một số các PTSX để tiến lên PTSX mới cao hơn.
Bổ sung: Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng quy luật này như thế nào vào
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Câu 13: Anh/Chị hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng mối quan hệ biện chứng này
như thế nào vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Trả lời:
* CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
* KTTT là toàn bộ các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo ,các thể
chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo hội… được hình thành trên một CSHT nhất
định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
- CSHT quyết định KTTT (CSHT nào thì KTT nấy):
+ Trật tự kinh tế xét đến cùng quy định trật tự chính trị, mâu thuẫn trong kinh tế gây ra mâu
thuẫn trong chính trị. Giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó thống trị trong chính trị.
+ Tất cả các yếu tố của KTTT dều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do CSHT
quy định.
+ CSHT thay đổi hay mất đi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi hay mất đi để cho
một KTTT mới ra đời, tuy nhiên đây là một quá trình phức tạp.
- Sự tác động của KTTT đến CSHT: Do KTTT và mỗi yếu tố của nó có tính độc lập tương đối
và vai trò khác nhau nên chúng tác động đến CSHT theo những cách những xu hướng khác
nhau.
+ Chức năng chính của KTTT là xây dựng, củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó, chống lại mọi
nguy cơ làm suy yếu hay phá hoại chế độ kinh tế hiện hành.
+ KTTT tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội, nhưng nó không thể làm thay đổi xu hướng
phát triển khách quan của đời sống kinh tế - xã hội. Sự tác động của nó chủ yếu diễn ra theo 2

hướng:

×