Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

thực trạng và hiệu quả can thiệp nâng cao năng lực điều dưỡng trưởng từ năm 2010 - 2013 tại tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.01 KB, 124 trang )


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Điều dưỡng là một nghề vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật.
Người điều dưỡng dựa vào kiến thức, thái độ, kỹ năng của mình để giúp đỡ cá nhân, gia
đình, cộng đồng trong việc duy trì, nâng cao sức khoẻ, phòng ngừa bệnh tật, giảm đau
đớn về thể chất, tinh thần và biết cách tự chăm sóc nhằm đáp ứng nhu cầu sức khoẻ [79].
Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về "Bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới" đã chỉ ra rằng: Nhu cầu chăm
sóc sức khoẻ của nhân dân ngày càng đòi hỏi cao về chất lượng và toàn diện [4].
Để không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh, đặc biệt thực
hiện quy chế chăm sóc người bệnh toàn diện của Bộ Y tế, cần thiết phải có hệ thống
Điều dưỡng trưởng có trình độ chuyên môn, năng lực quản lý điều dưỡng [13], [87].
Bên cạnh đó Sanders, Davidson and Price (1996) chỉ ra rằng, Điều dưỡng
trưởng khoa là người chuyển tải các mục tiêu, sự định hướng, các tiêu chí của tổ
chức y tế (bệnh viện, khoa, phòng, trung tâm điều dưỡng) từ góc độ quản lý sang
thực hành lâm sàng; họ là người kết nối sự định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của tổ
chức với người cung cấp dịch vụ chăm sóc hàng ngày cho người bệnh. Điều dưỡng
trưởng khoa không chỉ là người chịu trách nhiệm quản lý mà họ còn là người chịu
trách nhiệm cho các hoạt động chăm sóc người bệnh tại khoa phòng trong suốt 24h
[16], [33].
Ở nước ta, hệ thống Điều dưỡng trưởng là cấp quản lý đầu tiên của bệnh
viện. Điều dưỡng trưởng khoa chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các y lệnh của
thầy thuốc, công tác quản lý nguồn lực và hành chính khoa. Vì vậy chất lượng chăm
sóc, phục vụ người bệnh, sử dụng nguồn lực có hiệu quả phụ thuộc đáng kể của hệ
thống Điều dưỡng trưởng. Theo điều tra của Hội Điều dưỡng Việt Nam (2007),
Điều dưỡng trưởng nói chung có trình độ chuyên môn trung cấp chiếm 84,8 %, Cao
đẳng 7,2 %, Đại học 7,8% và sau đại học là 0,2 %. Về quản lý điều dưỡng, được
đào tạo chiếm tỷ lệ 37,8 %, hiệu quả công tác lãnh đạo điều hành, tham gia hoạt


động đào tạo, hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn chỉ thực hiện tốt 33,7 % [43], [44].

2

Ở Nghệ An (2008), số lượng Điều dưỡng trưởng có hơn 400 người, trình độ
chuyên môn trung cấp chiếm 91,9%; cao đẳng 8,1%; đã qua đào tạo về quản lý điều
dưỡng chiếm 19,2% [72], [96]. Trong những năm qua, Nghệ An đã từng bước củng
cố và hoàn thiện hệ thống quản lý điều dưỡng. Tuy nhiên trên thực tế đã bộc lộ một
số hạn chế nhất định, đó là trình độ chuyên môn thấp, năng lực quản lý chưa hiệu
quả, hệ thống quản lý nhiều bất cập, đã và đang gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng chăm sóc người bệnh.
Các nghiên cứu về lĩnh vực điều dưỡng trước đây mới dừng lại ở điều tra
mức độ hoàn thành chức năng nhiệm vụ, chưa đi sâu vào nghiên cứu sự thiếu hụt
kiến thức, kỹ năng quản lý so với yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Việc tìm ra giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý điều dưỡng là hết sức cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên
trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu năng lực về quản
lý của người Điều dưỡng trưởng. Xuất phát từ yêu cầu trên chúng tôi đã tiến hành
thực hiện đề tài:
Thực trạng và hiệu quả can thiệp nâng cao năng lực Điều dưỡng trưởng
tại tỉnh Nghệ An với các mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng và yếu tố ảnh hưởng đến năng lực Điều dưỡng trưởng tại
các bệnh viện ở tỉnh Nghệ An năm 2010 - 2011.
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp nâng cao năng lực của Điều dưỡng trưởng tại
các bệnh viện nghiên cứu năm 2011 - 2013.

3

Chương 1
TỔNG QUAN


1.1 Một số khái niệm và định nghĩa liên quan:
1.1.1 Khái niệm chung về năng lực:
- Theo quan điểm của những nhà tâm lý học Năng lực là tổng hợp các đặc
điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt
động, nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Các năng lực
hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá nhân, năng lực của con người
không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, phần lớn do công tác, do tập luyện mà có.
Tâm lý học chia năng lực thành các dạng khác nhau như năng lực chung và năng
lực chuyên môn.
+ Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều ngành hoạt động khác nhau
như năng lực phán xét tư duy lao động, năng lực khái quát hoá, năng lực tưởng
tượng
+ Năng lực chuyên môn là năng lực đặc trưng trong lĩnh vực nhất định của
xã hội như năng lực tổ chức, năng lực âm nhạc, năng lực kinh doanh, hội hoạ, toán
học Năng lực chung và năng lực chuyên môn có quan hệ qua lại hữu cơ với nhau,
năng lực chung là cơ sở của năng lực chuyên môn, nếu chúng càng phát triển thì
càng dễ thành đạt được năng lực chuyên môn. Ngược lại sự phát triển của năng lực
chuyên môn trong những điều kiện nhất định lại có ảnh hưởng đối với sự phát triển
của năng lực chung.
+ Trí thức là những hiểu biết thu nhận được từ sách vở, từ học hỏi và từ kinh
nghiệm cuộc sống của mình.
+ Kỹ năng là sự vận dụng bước đầu những kiến thức thu lượm vào thực tế để
tiến hành một hoạt động nào đó.
+ Kỹ xảo là những kỹ năng được lặp đi lặp lại nhiều lần đến mức thuần thục
cho phép con người không phải tập trung nhiều ý thức và việc mình đang làm. Còn
năng lực là một tổ hợp phẩm chất tương đối ổn định, tương đối cơ bản của cá nhân,
cho phép nó thực hiện có kết quả một hoạt động.

4


- Theo quan điểm của Tâm lý học Mác xít "Năng lực là sự tổng hợp những
thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm
bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao".
- Theo tác giả Mạc Văn Trang thì năng lực nghề nghiệp được cấu thành bởi 3
thành tố sau:
+ Tri thức chuyên môn
+ Kỹ năng hành nghề
+ Thái độ đối với nghề
Năng lực: Khả năng làm việc tốt, nhờ có phẩm chất đạo đức và trình độ
chuyên môn.
- “Năng lực” theo Từ điển tiếng Việt là khả năng đủ để làm một công việc
nào đó hay “Năng lực” là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực hiện một
hoạt động nào đó [29].
1.1.2 Khái niệm về Năng lực quản lý:
- Năng lực quản lý được đánh giá dựa trên khả năng ứng dụng kiến thức hiểu
biết và kỹ năng về hoạt động quản lý: bao gồm kiến thức hiểu biết về các kỹ năng,
nội dung quản lý. Thực hiện thành thạo các quy trình quản lý và thái độ trước công
việc được giao trên tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, tự giác, biết hy sinh vì tập thể.
- Năng lực quản lý điều dưỡng (QLĐD) được thể hiện trên các mặt kiến
thức, thực hành và thái độ: người điều dưỡng trưởng khoa (ĐDTK) vừa có trình
chuyên môn kỹ thuật giỏi, vừa có trình độ quản lý tốt và thái độ nghiêm túc, trách
nhiệm trước hành động. Việc áp dụng công cụ hệ thống quản lý chất lượng, ưu việt
hỗ trợ cho người quản lý sẽ làm tăng hiệu quả quản lý [46], [47], [74], [91].
1.1.3 Tiêu chuẩn đánh giá:
Về đánh giá mức độ hoàn thành năng lực điều dưỡng (ĐD), theo nghiên cứu
của Đỗ Đình Xuân (2007) [107], để đánh giá mức độ thực hiện từng công việc trong
một nhiệm vụ được giao cho ĐDT; mỗi bước thực hiện được đánh giá mức độ hoàn
thành quy định tính như sau (kiến thức và thực hành được đánh giá riêng).
1.1.3.1 Đánh giá về kiến thức và thực hành quản lý Điều dưỡng trưởng:


5

+ Hoàn thành từ ≥ 90% nhiệm vụ: 4 điểm
+ Hoàn thành từ 70 - 89 % nhiệm vụ: 3 điểm
+ Hoàn thành từ 50 - 69% nhiệm vụ: 2 điểm
+ Hoàn thành từ < 50% nhiệm vụ: 1 điểm
+ Không làm: 0 điểm
Dựa vào cách cho điểm trên, lượng giá được khả năng hoàn thành từng
nhiệm vụ của điều dưỡng trưởng (ĐDT), từ đó tính được tổng điểm ĐDT đạt được
khi thực hiện tất cả các nhiệm vụ được giao.
1.3.1.2 Đánh giá về năng lực quản lý Điều dưỡng trưởng:
Căn cứ xếp loại kết quả học tập kết thúc năm học của qui chế đào tạo ban
hành kèm theo Quyết định số 25/2006/QĐ-BGDĐT ngày 26/06/2006 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc ban hành Quy chế đào tạo CĐ, ĐH hệ chính quy [5].
Đánh giá xếp loại thực trạng năng lực quản lý (mục tiêu 1): Tính tổng số
điểm của từng phần đánh giá kiến thức (KT) và thực hành (TH), tổng điểm và xếp
loại năng lực quản lý:
Xếp
loại
Tiêu chuẩn
Điểm KT
(phụ lục 1)
Điểm TH
(phụ lục 2)
Điểm Năng lực
(PL1+2)
Tốt ≥ 80% tổng điểm ≥ 68 đ ≥ 112 đ ≥ 180
Khá ≥ 70 - 79% tổng điểm ≥ 59 – 67 đ ≥ 98 – 111 đ ≥ 157 – 179 đ
TB ≥ 50 - 69% tổng điểm ≥ 42 – 58 đ ≥ 70 - 97 đ ≥ 112 – 156 đ
Kém < 50% tổng điểm < 42 đ < 70 đ < 112


Đánh giá xếp loại năng lực quản lý ĐDT (mục tiêu 2): Tính tổng số điểm của
từng phần đánh giá kiến thức và thực hành, tổng điểm và xếp loại năng lực quản lý:

Xếp
loại
Tiêu chuẩn
Điểm KT
(phụ lục 4)
Điểm TH
(phụ lục 5)
Điểm Năng lực
(PL4+5)
Tốt ≥ 80% tổng điểm ≥ 320 đ ≥ 320 đ ≥ 640 đ
Khá ≥ 70 - 79% tổng điểm ≥ 280 – 319 đ ≥ 280 – 319 đ ≥ 560 – 639 đ
TB 50 - 69% tổng điểm ≥ 200 – 279 đ ≥ 200 – 279 đ ≥ 400 – 559 đ
Kém < 50% tổng điểm < 200 đ < 200 đ < 400

6

1.2 Hệ thống tổ chức ngành điều dưỡng trên thế giới và Việt Nam:
1.2.1 Trên thế giới:
Tuỳ theo mỗi nước mà có tổ chức hệ thống điều dưỡng (ĐD) khác nhau, bộ
máy hoạt động chỉ đạo công tác ĐD toàn quốc. Đối với các nước phát triển như Mỹ,
Anh, Thụy Điển, Nhật v.v. Đặc biệt ở Thái Lan là nước Đông Nam Á, gần Việt
Nam có hệ thống tổ chức ĐD từ Bộ Y tế đến các cơ sở để chỉ đạo công tác ĐD
thống nhất cả nước, tại các bệnh viện thực hiện các mô hình chăm sóc phù hợp. Các
mô hình ở các nước phát triển đã giúp cho các nước khác học tập và ứng dụng vào
việc CSNB tại bệnh viện [67], [112], [113], [114], [128], [135], [142], [148], [149].
1.2.1.1 Nhật Bản:

Mặc dù ĐD có một lịch sử lâu dài, ĐD hiện đại nhanh chóng phát triển từ y
học Trung Quốc chuyển qua truyền thống y học phương Tây sau khi khôi phục Đế
chế Nhật Hoàng. Sự bắt đầu của hệ thống giáo dục ĐD tại Nhật Bản cung cấp giáo
dục nữ hộ sinh, cấp phép và đào tạo phù hợp với Quy chế y tế được ban hành vào
năm 1874. Giáo dục điều dưỡng hiện đại bắt đầu vào năm 1885. ĐD chuyên nghiệp
đã được thành lập do dự luật Nữ hộ sinh (NHS) năm 1899, dự luật ĐD 1915, tương
ứng nội qui ĐD sức khoẻ công cộng năm 1941. Đạo luật Y tế Quốc gia được ban
hành năm 1942 quy định ĐD sức khoẻ công cộng, NHS và y tá như các chuyên gia
y tế cùng với các bác sĩ và nha sĩ [16], [137].
Sau khi Chiến tranh thế giới II, theo các GHQ (General Headquarters of the
Supreme Commander for the Allied Powers: Trụ sở chính của Tổng Tư Lệnh tối
cao cho các nước đồng minh), được đặt trong nghề nghiệp của các cường quốc đồng
minh", ba quy định hiện hành cho các chuyên gia ĐD đã được thống nhất vào Đạo
luật về ĐD sức khoẻ công cộng, nữ hộ sinh và y tá năm 1948, dựa trên triết lý của
điều dưỡng tích hợp. Mục đích của luật này được định nghĩa là "nâng cao chất
lượng Điều dưỡng sức khoẻ công cộng, nữ hộ sinh và y tá; do đó thúc đẩy và cải
thiện chăm sóc sức khỏe và y tế công cộng" [16], [137].
Ngày nay, nhân viên ĐD tại Nhật Bản có thể được chia thành Điều dưỡng
sức khỏe công cộng, NHS, ĐD và Trợ lý ĐD. Đạo luật trên quy định cụ thể trình độ
và thực hành tại Điều 2 - 6.

7

Hệ thống ĐD Nhật Bản được tổ chức lại dưới sự chỉ huy của GHQ, một bộ
phận ĐD đã được đặt trong Bộ Y tế và Phúc lợi, năm 1948 bắt đầu Quản lý điều
dưỡng (QLĐD) bởi các nhân viên ĐD. Tuy nhiên, với những thay đổi tiếp theo
trong hệ thống cung cấp chăm sóc y tế và sự gia tăng tình trạng thiếu ĐD đã trở
thành nghiêm trọng, các vấn đề về điều kiện làm việc của ĐD bao gồm cả khối
lượng công việc và giờ làm việc nổi lên. Để giải quyết vấn đề này, Bộ Y tế và Phúc
lợi đưa ra các biện pháp để cải thiện hệ thống ĐD, thiết lập một nền giáo dục ĐD

cao hơn.
Trong những năm qua, tăng cường dịch vụ của ĐD đã được yêu cầu để đáp
ứng chăm sóc tiên tiến và đa dạng, xã hội lão hóa với ít con hơn và nhu cầu cao của
các công dân. Trong năm 2009, dự án luật sửa đổi cho Đạo Luật Y tế công cộng,
ĐD, NHS và các luật khác của pháp luật bắt đầu được phê duyệt lần đầu tiên trong
60 năm. Các sửa đổi chính được xác định tốt nghiệp từ 1 trường đại học 4 năm
trong việc mở ra những hứa hẹn cung cấp đủ điều kiện để kiểm tra ĐD, sửa đổi các
điều kiện khóa học ĐD sức khỏe công cộng và giáo dục NHS, làm cho các nỗ lực
để cung cấp nhân viên ĐD mới, tốt nghiệp đào tạo cơ bản. Để nâng cao hơn nữa
chất lượng và dịch vụ của ĐD, các nỗ lực đang được tiến hành để nâng cao giáo
dục, mở rộng các lĩnh vực ĐD và giới thiệu các khuôn khổ mới.
Để trở thành một ĐD sức khỏe công cộng, nữ hộ sinh hoặc ĐD tại Nhật Bản,
điều cần thiết để hoàn thành một chương trình giảng dạy theo yêu cầu tại một cơ sở
giáo dục quy định của pháp luật, vượt qua một kỳ thi quốc gia có thể được thực hiện
mỗi năm một lần và có được một giấy phép được cấp bởi Bộ Lao động, Y tế và
Phúc lợi.
Để trở thành một ĐD, nền tảng học tập cơ bản cho mười hai năm và giáo dục
ĐD cơ bản ba năm. Để trở thành một ĐD sức khỏe công cộng hoặc NHS, đào tạo
ĐD cộng với một hoặc nhiều năm giáo dục là bắt buộc. Nhân viên điều dưỡng nước
ngoài muốn làm việc tại Nhật Bản được yêu cầu qua bước kiểm tra ĐD quốc gia để
có được một giấy phép hành nghề bởi vì giấy phép ĐD ở nước ngoài không được
chấp nhận tại Nhật Bản.

8

Giấy phép trợ lý ĐD không được ban hành của Bộ trưởng mà thống đốc
quận. Tuy nhiên, trợ lý ĐD cần có giấy phép không chỉ làm việc trong tỉnh, mà còn
bất cứ nơi nào ở Nhật Bản. Thời hạn đào tạo cho trợ lý ĐD là hai năm. Dịch vụ ĐD
của họ yêu cầu các đơn đặt hàng của một nha sĩ, bác sĩ hoặc ĐD [16], [137], [138].
Trình độ chuyên môn ĐD Nhật Bản không có bất kỳ hệ thống đổi mới, kéo

dài cho phần còn lại cuộc sống của họ. Tuy nhiên, khuynh hướng bao gồm hủy bỏ
giấy phép có thể được trả lại như là căn cứ để truất quyền hành nghề được quy định
bởi luật pháp hoặc trong trường hợp hành vi đó vi phạm nhân phẩm. Về tổ chức:
- Có 01 ĐDT viện; 02 phó viện;
- Điều dưỡng trưởng khoa và phó khoa
- Điều dưỡng viên: ĐD chính; ĐD thực hành và Trợ lý ĐD.
1.2.1.2 Hoa kỳ: Có 4 chức danh liên quan đến ĐD:
Phụ tá bác sỹ: Physian assistan (PA) tương tự như y sỹ trước đây. Trình độ
cử nhân, sau đó phải học thêm 2 năm chuyên ngành. Sau khi hoàn thành chương
trình, phụ tá bác sỹ phải vượt qua kỳ thi cấp chứng chỉ hành nghề cấp quốc gia. Phụ
tá bác sỹ ở một số bang được phép kê đơn thuốc, tuy nhiên không làm việc độc lập
mà dưới sự giám sát của thầy thuốc.
Điều dưỡng viên (ĐDV) chuyên ngành: Nurse practitioner (NP), để trở
thành NP trước hết phải là RN, cá nhân phải học tiếp để có bằng thạc sỹ điều dưỡng
chuyên khoa, qua kỳ thi quốc gia để được cấp bằng hành nghề NP.
ĐDV: Registered Nurse (RN) là điều dưỡng có trình độ đại học (ĐH), được
cấp chứng chỉ hành nghề sau khi vượt qua kỳ thi do Hội đồng Điều dưỡng quốc gia
tổ chức. ĐDV có nhiệm vụ ghi chép tiền sử, diễn biến bệnh, thăm khám, cung cấp
dịch vụ chữa bệnh, thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán, vận hành máy móc y tế,
thực hiện các y lệnh thuốc cho người bệnh.
Phụ tá ĐD: Licened Practical Nurse (LPN), chương trình đào tạo 1 - 2 năm,
sau khi ra trường, để được hành nghề Phụ tá ĐD phải vượt qua kỳ thi cấp quốc gia
để cấp bằng hành nghề. Khi hành nghề dưới sự chỉ dẫn và ĐD của ĐDV. Nhiệm vụ
là thực hiện chăm sóc người bệnh (CSNB) tại giường, lấy dấu hiệu sinh tồn, thu

9

thập bệnh phẩm, cho bệnh nhân ăn, theo dõi và ghi chép lượng dịch nhập xuất vào
cơ thể bệnh nhân, thay băng, chuẩn bị thuốc và tiêm thuốc (trừ tiêm tĩnh mạch,
truyền dịch và truyền máu) [16], [83], [100], [111], [121], [129].

1.2.1.3 Thái Lan: Ở Thái Lan đào tạo trình độ sơ cấp đến sau ĐHĐD [16], [53], [100]:
+ Trợ lý điều dưỡng (nurses aide): 6 tháng
+ Điều dưỡng thực hành (practical nurses): 1 năm
+ Điều dưỡng kỹ thuật (technical nurses): 2 năm
+ Cử nhân điều dưỡng (Bachelor of nursing science): 4 năm
+ Thạc sỹ khoa học điều dưỡng (Master of nursing science): 2 năm
+ Tiến sỹ khoa học điều dưỡng (PhD of nursing Science): 3 năm
1.2.1.4 Hà Lan: Trình độ điều dưỡng có 5 cấp độ:
+ Trình độ 4 và 5 (level 4,5 – Nurse): 4 năm
+ Trình độ 3 (level 3 – Care worker): 3 năm
+ Trình độ 2 (level 2 – Care helper): 2 năm
+ Trình độ 1 (Level 1 – Care assistant): 1 năm
Ở một số quốc gia khác như Úc, Anh, Thụy Điển, Canada các trường thường
đào tạo ĐD chuyên khoa như ĐD hồi sức cấp cứu, ĐD nhi, ĐD sức khỏe tâm thần
[80], [119], [120], [122], [124], [126], [139], [143], [144], [146], [150].
1.2.2 Tại Việt Nam:
1.2.2.1 Hệ thống tổ chức ngành Điều dưỡng:
- Tại Vụ Điều trị - Bộ Y tế (nay là Cục Quản lý Khám - Chữa bệnh): Phòng y
tá trong Vụ Điều trị được thành lập năm 1992, hiện nay có 3 biên chế chính thức.
Phòng được giao nhiệm vụ chỉ đạo hệ thống Y tá - ĐD, Nữ hộ sinh (NHS), Kỹ thuật
viên (KTV) trong toàn quốc.
- Tại Sở Y tế: Bộ Y tế đã có quyết định bổ nhiệm chức vụ Điều dưỡng
trưởng (ĐDT) Sở Y tế từ năm 1999. ĐDT Sở Y tế cơ cấu là Phó phòng Nghiệp vụ
Y chuyên trách công tác Y tá - Điều dưỡng trong toàn tỉnh.
- Tại các bệnh viện đa khoa quận/huyện: Tuỳ theo số giường bệnh mà có
phòng ĐD, Tổ ĐDT hoặc một ĐDT. Vai trò các ĐDT các bệnh viện đa khoa

10
quận/huyện đối với điều dưỡng làm việc các Trạm Y tế đang được nghiên cứu xác
định cụ thể.

- Tại các bệnh viện hạng I, II và III: Các bệnh viện có Phòng Y tá - ĐD
hoạt động theo quy chế bệnh viện 1997. Vị trí, tổ chức, nhiệm vụ của Phòng,
nhiệm vụ và quyền hạn của Trưởng phòng Y tá - ĐD bệnh viện và Y tá - ĐDTK
đã được xác định rõ và hoạt động ngày càng có hiệu quả.
Hệ thống Điều dưỡng Việt Nam phân chia theo cấp từ Trung ương (TW) đến
Địa phương theo 3 hệ thống: Hội, trường giảng dạy và chính quyền. Ngoài ra còn
rất nhiều nhóm, hội điều dưỡng hoạt động tự phát như hội sinh viên [7], [16], [18],
[36], [61], [70], [83], [98], [100].
1.2.2.2. Vai trò hệ thống điều dưỡng:
* Trưởng phòng điều dưỡng (Điều dưỡng trưởng bệnh viện):
Nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của phòng ĐD. Xây dựng kế
hoạch hoạt động của phòng ĐD, Điều dưỡng trưởng khoa (ĐDTK), hộ sinh trưởng
khoa, Kỷ thuật viên (KTV) trưởng khoa trong bệnh viện. Kiểm tra đôn đốc ĐD, hộ
sinh, KTV, hộ lý thực hiện quy chế bệnh viện, quy định kỹ thuật bệnh viện các
nhiệm vụ thường quy. Báo cáo kịp thời giám đốc bệnh viện các việc đột xuất xảy ra
ở các khoa. Hướng dẫn ĐDTK xây dựng bảng mô tả công việc cho ĐD, hộ sinh,
KTV và hộ lý trong bệnh viện. Tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH), huấn luyện
và chỉ đạo tuyến trong lĩnh vực CSNB. Dự trù, phân bổ vật tư tiêu hao và dụng cụ y
tế cho công tác chăm sóc phục vụ người bệnh và giám sát sử dụng vật tư tiêu hao
đảm bảo tiết kiệm và chống lãng phí. Hướng dẫn và kiểm tra việc ghi sổ sách, phiếu
theo dõi, phiếu chăm sóc cho ĐD, HS, KTV và hộ lý trong bệnh viện. Chỉ đạo và
giám sát công tác vệ sinh buồng bệnh, buồng thủ thuật. Uỷ viên thường trực kiêm
thư ký hội đồng người bệnh cấp bệnh viện. Định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo công
tác ĐD lên giám đốc bệnh viện [8].
Quyền hạn: Chủ trì giao ban phòng hàng ngày và dự giao ban bệnh viện. Chủ trì các
cuộc họp của ĐDTK, bệnh viện. Đề xuất ý kiến với giám đốc về vấn đề tuyển dụng,
thuyên chuyển, khen thưởng, kỷ luật, tăng lương và học tập đối với ĐD, HS, KTV

11
và hộ lý. Đề nghị với giám đốc bệnh viện về việc bổ nhiệm hoặc thôi chức vụ

ĐDTK, NHS trưởng khoa, và KTV trưởng khoa. Điều động tạm thời ĐD và hộ lý
khi cần để kịp thời chăm sóc và phục vụ người bệnh. Đề nghị cấp phát bổ sung vật
tư tiêu hao cho các khoa khi có yêu cầu đột xuất. Được tham gia các hội đồng theo
quy định của Nhà nước và sự phân công của giám đốc [8], [9], [23], [97].
* Điều dưỡng trưởng khoa:
Nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện công tác chăm sóc người bệnh toàn diện. Hàng ngày
đi thăm người bệnh. Nhận các y lệnh về điều trị và chăm sóc của trưởng khoa để tổ
chức thực hiện. Quản lý buồng bệnh và kiểm tra công tác vệ sinh, vô khuẩn chống
nhiễm khuẩn trong khoa. Kiểm tra, đôn đốc ĐD, HS và hộ lý thực hiện y lệnh của
bác sĩ điều trị, quy chế bệnh viện, quy trình kỹ thuật bệnh viện, báo cáo kịp thời
trưởng khoa các việc đột xuất, những diễn biến bất thường của người bệnh để kịp
thời xử lý. Lập kế hoạch và phân công công việc cho ĐD, HS và hộ lý trong khoa.
Tham gia công tác đào tạo cho ĐD, HS, học viên, hộ lý và tham gia công tác chỉ
đạo tuyến theo sự phân công. Lập kế hoạch mua y dụng cụ, vật tư tiêu hao. Thường
xuyên kiểm tra việc sử dụng, bảo dưỡng và quản lý tài sản, vật tư theo quy định
hiện hành. Lập kế hoạch các yêu cầu sửa chữa dụng cụ hỏng. Kiểm tra việc ghi sổ
sách, phiếu theo dõi, phiếu chăm sóc, công tác hành chính, thống kê và báo cáo
trong khoa. Theo dõi, chấm công lao động hàng ngày và tổng hợp ngày công để báo
cáo. Tham gia thường trực và chăm sóc người bệnh. Uỷ viên thường trực kiêm thư
ký hội đồng người bệnh cấp khoa [58].
Quyền hạn: Phân công ĐD, HS, hộ lý đáp ứng yêu cầu công việc của khoa. Kiểm tra
ĐD, HS, hộ lý thực hiện các quy định và quy chế bệnh viện [9], [23], [97].
* Người Điều dưỡng chăm sóc:
Người Điều dưỡng chăm sóc (ĐDCS) có vai trò là người chăm sóc, người
truyền đạt thông tin, người giáo viên, người tư vấn, người biện hộ cho người bệnh,
NCKH và người quản lý lãnh đạo. Người ĐDCS có chức năng độc lập, chức năng
phối hợp, chức năng phụ thuộc.

12
Về nhiệm vụ, người ĐDCS nghiêm chỉnh thực hiện quy chế bệnh viện, y

lệnh của thầy thuốc, thực hiện CSNB bệnh theo đúng quy định thủ thuật, các kỹ
thuật cơ bản như lập kế hoạch CSNB, cho người bệnh uống thuốc, thực hiện kỹ
thuật tiêm thuốc, truyền dịch, thay băng, đặt thông tiểu, kỹ thuật cấp cứu theo quy
định và vận hành bảo quản các thiết bị y tế trong khoa theo sự phân công. Ghi chép,
bàn giao người bệnh cho ĐD trực theo quy đinh. Bảo quản tài sản, thuốc, dụng cụ y
tế, trật tự và vệ sinh buồng bệnh, buồng thủ thuật trong phạm vi được phân công.
Tham gia NCKH, thường trực theo sự phân công của ĐDTK, thực hiện tốt quy định
về y đức, thường xuyên tự học tập, cập nhật kiến thức [15].
Năm 2005, Nhà nước ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức
điều dưỡng [6] gồm:
- Điều dưỡng sơ cấp (tốt nghiệp sơ cấp điều dưỡng)
- Điều dưỡng trung cấp (tốt nghiệp trung cấp điều dưỡng)
- Điều dưỡng cao đẳng (tốt nghiệp cao đẳng điều dưỡng)
- Điều dưỡng (tốt nghiệp cử nhân điều dưỡng)
- Điều dưỡng chính (thạc sỹ điều dưỡng hoặc chuyên khoa 1 điều dưỡng).
1.3 Mô hình quản lý Điều dưỡng:
- Mô hình QLĐD là khuôn khổ công việc trừu tượng, liên kết các sự kiện và
hiện tượng, hỗ trợ người ĐD lên kế hoạch CSĐD, điều tra các vấn đề liên quan đến
thực hành lâm sàng, nghiên cứu các kết quả của hành động và can thiệp ĐD [136].
- Mô hình phân công chăm sóc là phương pháp phân công công việc mà việc
chăm sóc được phân phối tới người bệnh nhằm cá biệt hoá và thoả mãn nhu cầu cơ
bản của họ thông qua sự chăm sóc thích hợp của người ĐD [16], [83], [100].
- Chăm sóc người bệnh toàn diện (CSTD):
+ Là sự theo dõi chăm sóc, điều trị của Bác sĩ, ĐD nhằm đáp ứng nhu cầu cơ
bản của người bệnh cả về thân thể và tinh thần trong thời gian nằm điều trị tại bệnh
viện, không áp dụng hình thức phân công theo công việc [13], [16].
+ Là nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên trong toàn bệnh
viện nhằm đảm bảo chất lượng chẩn đoán, điều trị và CSNB [13].

13

+ CSNB trong bệnh viện bao gồm hỗ trợ, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của
mỗi người bệnh nhằm duy trì hô hấp, tuần hoàn, thân nhiệt, ăn uống, bài tiết, tư thế,
vận động, vệ sinh cá nhân, ngủ, nghỉ; chăm sóc tâm lý; hỗ trợ điều trị và tránh các
nguy cơ từ môi trường bệnh viện cho người bệnh [23].
+ CSTD cho người bệnh là không những chỉ điều trị và quản lý bệnh tật mà
còn phải chăm sóc cả về thể chất, tinh thần và cảm xúc của người bệnh. CSTD là
lắng nghe người bệnh một cách đồng cảm, tôn trọng sự chọn lựa, nhu cầu và mối
quan tâm, lo âu của người bệnh [141].
Theo Judith Philipps Otto: CSTD là hình thức phương pháp hợp tác làm việc
nhóm (nhiều ngành) để điều trị cho nhu cầu đặc biệt của từng người bệnh [155].
- Nguyên tắc CSNB trong bệnh viện [23]:
Người bệnh là trung tâm của công tác chăm sóc nên phải được CSTD, liên
tục, bảo đảm hài lòng, chất lượng và an toàn. CSNB là nhiệm vụ của bệnh viện, các
hoạt động chăm sóc ĐD, theo dõi do ĐDV, hộ sinh viên thực hiện và chịu trách
nhiệm. Can thiệp ĐD phải dựa trên cơ sở các yêu cầu chuyên môn và sự đánh giá
nhu cầu của mỗi người bệnh để chăm sóc phục vụ.
- Một mô hình chăm sóc tốt, đảm bảo các yếu tố sau [16], [23], [83], [100]:
+ Lấy người bệnh làm trung tâm.
+ Đảm bảo tính liên tục và toàn diện trong chăm sóc
+ Phù hợp với đặc điểm chuyên môn và điều kiện của từng khoa, phòng.
+ Đảm bảo sự hài lòng của người bệnh và nhân viên.
+ Thuận lợi cho công tác quản lý.
 Mô hình chăm sóc theo đội là mô hình đáp ứng các yếu tố trên.
1.3.1 Mô hình tổ chức chăm sóc:
Tuỳ theo quan điểm của từng quốc gia, các chuyên gia đầu ngành ĐD, nhưng
nhìn chung có 4 loại mô hình phân công chăm sóc [9], [16], [83], [100], [102], [108],
[132], [134], [152]: Chăm sóc theo người bệnh/ chăm sóc toàn diện; Điều dưỡng
chức năng hay phân công chăm sóc theo công việc; Chăm sóc theo đội nhóm hay
theo đơn nguyên và Điều dưỡng ban đầu.


14
1.3.2 Tình hình áp dụng Mô hình quản lý điều dưỡng:
1.3.2.1 Trên Thế giới:
Mô hình phân công chăm sóc đã và đang được thực hiện tại cơ sở y tế của
nhiều nước, mỗi nước có thể áp dụng một hay nhiều mô hình, thậm chí trong một
bệnh viện, mỗi khoa có thể áp dụng một trong 4 loại mô hình. Tuỳ theo từng giai
đoạn, điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị và tính chất chức năng,
nhiệm vụ của từng khoa, bệnh viện mà mô hình chăm sóc khác nhau [133]:
Theo Marquys và Huston (Mỹ, 1992) Chăm sóc người bệnh toàn diện (Total
patient care) là mô hình phân công chăm sóc cổ nhất, nó xuất hiện từ thế kỷ XIX và
được áp dụng CSNB tại cả bệnh viện và gia đình. Trong mô hình này, một ĐDV
chịu trách nhiệm chăm sóc hoàn toàn cho một vài người bệnh trong suốt cả ca làm
việc của họ. Điều cơ bản nhất là người ĐD phải có đủ năng lực để độc lập CSNB.
Mô hình này hiện vẫn còn đang được áp dụng khá phổ biến ở một số khoa như
khoa Hồi sức tích cực và các nước đang phát triển [121].
Mô hình phân công chăm sóc theo chức năng nhiệm vụ hay công việc
(Functional nursing) được áp dụng trong suốt thời gian chiến tranh thế giới thứ II để
đáp ứng nhu cầu phục vụ tại thời điểm đó. Việc chăm sóc được chia thành những
nhiệm vụ nhỏ, mỗi ĐD được giao thực hiện một hoặc hai nhiệm vụ cố định trên một
nhóm người bệnh hoặc trên toàn bộ bệnh nhân trong khoa dưới sự chỉ đạo của
ĐDTK. Hiện nay mô hình chăm sóc này bị phê phán nhiều vì có nhiều sơ suất do
những diễn biến bất thường hoặc do những nhu cầu chăm sóc của người bệnh xuất
hiện nhưng không được phát hiện kịp thời. Vai trò người ĐDT ở đây là người tổ
chức thực hiện và giám sát công tác chăm sóc. Người ĐDT phải có trình độ chuyên
môn và công bằng [145].
Mô hình ĐD ban đầu (Primary nursing) được sử dụng từ những năm 1970,
trong mô hình ĐD ban đầu, một ĐD chịu trách nhiệm chăm sóc cho một số bệnh
nhân trong suốt 24 giờ. Mô hình chăm sóc này lấy người bệnh làm trung tâm,
hướng tới cá thể và đảm bảo liên tục trong chăm sóc. Sự thông tin giữa người ĐD
với thầy thuốc, người bệnh, thân nhân người bệnh và với nhân viên y tế khác được


15
thường xuyên hơn. Mô hình này ngày càng được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên
thế giới chứng tỏ CLCS của mô hình này cao. Người ĐDT cần có kỹ năng quản lý,
giám sát và lượng giá chất lượng chăm sóc. Mô hình ĐD ban đầu đòi hỏi người điều
dưỡng phải có trình độ chuyên môn cao để độc lập trong chăm sóc do vậy cần có đủ
kinh phí để chi trả cho đào tạo và lương. Đây chính là khó khăn thường gặp ở hầu
hết các cơ sở y tế. Để giải quyết khó khăn này, nhiều cơ sở khám chữa bệnh của
nhiều nước đã và đang lựa chọn mô hình ĐD theo đội và theo nhóm [123].
Mô hình chăm sóc theo đội (Team nursing) được giới thiệu trong những năm
1950 để giải quyết những khiếm khuyết của mô hình chăm sóc theo công việc. Một
đội ĐDV có trình độ khác nhau, có một đội trưởng là một ĐD có trình độ chuyên
môn cao hơn những ĐD khác trong đội, có kỹ năng lãnh đạo và điều khiển các
thành viên trong đội. Các thành viên trong đội cùng hợp tác chăm sóc một nhóm
bệnh nhân, thường xuyên trao đổi và chia sẻ hoạt động chăm sóc như nhận định, lập kế
hoạch, thực hiện và lượng giá kết quả chăm sóc người bệnh. Do vậy mô hình này tốn
nhiều thời gian cho việc trao đổi và kiểm tra công việc giữa các thành viên trong đội.
Chất lượng chăm sóc trong mô hình này cao hơn mô hình chăm sóc theo công việc.
ĐDT trong mô hình chăm sóc này có trách nhiệm lựa chọn đội trưởng và có vai trò
của người quản lý, huấn luyện, hỗ trợ và giúp đỡ của đội trưởng. Khi người đội
trưởng có đủ kinh nghiệm hơn thì người ĐDT có thể uỷ quyền cho họ việc quản lý
với thời gian dài hơn, lĩnh vực quản lý rộng hơn và bản thân người ĐDT sẽ có nhiều
thời gian hơn để thực hiện trách nhiệm khai thác, sử dụng và quản lý kinh phí, tài
sản, thuốc men, nhân lực như tuyển dụng, phân công, tư vấn, đánh giá, khen
thưởng và kỷ luật nhân viên ĐD [151].
Mô hình điều dưỡng theo nhóm (Modular Nursing là mô hình cải tiến của
mô hình chăm sóc theo đội và chăm sóc ban đầu. Sự phân công chăm sóc trong mô
hình này là nhóm chăm sóc người bệnh theo địa dư. Nhóm ở mô hình này nhỏ hơn
mô hình chăm sóc đội, mỗi nhóm gồm 2 - 3 điều dưỡng chăm sóc một số bệnh
nhân. Mỗi nhóm có một trưởng nhóm có trình độ cử nhân và hai hoặc ba ĐDV có

thể có ít kinh nghiệm hơn hoặc trình độ thấp hơn. Trưởng nhóm có trách nhiệm lập

16
kế hoạch chăm sóc cho tất cả bệnh nhân trong nhóm và hướng dẫn ĐDV trong
nhóm thực hiện các hoạt động CSNB. Mô hình chăm sóc này đảm bảo người bệnh
được một nhóm nhỏ ĐDV chăm sóc, duy trì được liên tục trong chăm sóc và giải
quyết được những vấn đề khó khăn như đã nêu ở những mô hình chăm sóc đề cập
trên đây.
Hơn nửa thế kỷ qua, nhiều nhà quản lý điều dưỡng đã tranh luận nhiều về mô
hình phân công chăm sóc, song họ chưa phân định mô hình nào là tốt nhất với lý
luận rằng mỗi người bệnh có nhu cầu chăm sóc riêng nhau, mỗi cơ sở y tế có đặc
thù riêng nên mô hình chăm sóc này phù hợp với bệnh nhân hoặc cơ sở y tế này
nhưng chưa chắc đã phù hợp với nhu cầu hoặc đặc điểm của bệnh nhân hoặc cơ sở y
tế khác [130], [131].
Hiện nay tại các cơ sở y tế của Mỹ và nhiều nước đang sử dụng mô hình
chăm sóc theo đội (Nursinh care team module). Một đội chăm sóc bao gồm bác sỹ,
dược sỹ, nhân viên vật lý trị liệu, ĐD (RN, PN, PA, LPN) và người nhà bệnh nhân,
trong đó ĐD là đội trưởng, các thành viên làm việc theo trình độ và giấy phép hành
nghề. Thông tin về trình trạng sức khoẻ bệnh nhân, các can thiệp chăm sóc và điều
trị được chia sẻ giữa các thành viên thông qua hệ thống ghi chép ĐD, điều trị và
giao ban đội. ĐDT thực sự có trình độ chuyên môn giỏi, kỹ năng quản lý tốt, điều
hành các hoạt động hiệu quả, chất lượng chăm sóc, điều trị đạt ở mức độ cao [9],
[16], [83], [100], [102], [125], [132], [134], [152].
Tại Thụy Điển [3], Nhật Bản [3], [110] và Thái Lan [3], [16] áp dụng mô
hình CSTD, lấy người bệnh làm trung tâm trong công tác chăm.
1.3.2.2 Tại Việt Nam:
Năm 2003, Chỉ thị 05/2003/BYT-CT của Bộ trưởng Bộ Y tế đã yêu cầu mọi
cán bộ y tế đều có trách nhiệm thực hiện CSNBTD, các bệnh viện phải tăng cường
công tác CSNBTD thông qua 5 hoạt động chính: (1) Kiện toàn mạng lưới điều
dưỡng trưởng từ Sở Y tế đến tận khoa - phòng trong bệnh viện, (2) Thành lập Ban

chỉ đạo CSNBTD bao gồm các thành phần liên quan để tăng cường chỉ đạo CSTD,
(3) Yêu cầu Giám đốc bệnh viện phải đầu tư cho công tác CSTD qua đào tạo, bổ

17
sung nguồn lực và phát động phong trào thi đua, (4) Giao trách nhiệm cho các
trưởng khoa lâm sàng tổ chức thực hiện CSNBTD, xoá bỏ mô hình phân công chăm
sóc theo công việc mà thay vào đó là mô hình phân công chăm sóc theo đội hoặc
nhóm thay cho chăm sóc theo công việc, và (5) Giao trách nhiệm cho các khoa,
đơn vị cận lâm sàng (xét nghiệm, dược, vật tư - trang thiết bị, kiểm soát nhiễm
khuẩn, dinh dưỡng) cung cấp dịch vụ tại các khoa lâm sàng để giành thời gian cho
người ĐD chăm sóc người bệnh nhiều hơn [13], [24].
Thực hiện quy chế CSNBTD: mỗi người bệnh phải được một Bác sỹ và một
ĐD chịu trách nhiệm cụ thể về điều trị và chăm sóc. Mô hình phân công chăm sóc
theo nhóm đáp ứng được tiêu chí lấy người bệnh làm trung tâm chăm sóc không chỉ
dịch vụ y tế mà còn đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của người bệnh cả về thể
chất, tinh thần và xã hội.
Mô hình phân công chăm sóc theo nhóm phù hợp với điều kiện tại Bệnh viện,
tất cả các khoa lâm sàng áp dụng mô hình chăm sóc theo nhóm. Trưởng khoa và
ĐDTK phân chia số lượng nhóm cho phù hợp với giường bệnh và nhân lực của
khoa. Mỗi nhóm chăm sóc bao gồm Bác sỹ, ĐD, Hộ lý:
+ Bác sỹ là người quyết định phương pháp điều trị.
+ Điều dưỡng là người thực hiện các y lệnh điều trị, trực tiếp chăm sóc
người bệnh, hướng dẫn Hộ lý, thân nhân phối hợp cùng chăm sóc người bệnh.
+ Hộ lý: phụ Điều dưỡng cùng chăm sóc người bệnh.
Bác sỹ trưởng khoa phân công Bác sỹ điều trị theo buồng hay giường bệnh.
ĐDTK phân công ĐDT nhóm. ĐD chăm sóc, Hộ lý theo buồng hay giường bệnh
phù hợp với điều kiện thực tế tại khoa. Trong mỗi nhóm ĐDCS do ĐDT nhóm có
trình độ tay nghề vững vàng quản lý, chịu trách nhiệm lập kế hoạch chăm sóc cho
tất cả các bệnh nhân trong nhóm, hướng dẫn ĐD nhóm thực hiện các hoạt động
CSNB. ĐDCS đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người bệnh cả về thể chất, tinh

thần và xã hội theo phân cấp chăm sóc. Hướng dẫn thân nhân cùng chăm sóc [68].
Quy chế CSNBTD do Bộ Y tế ban hành đã quy định rõ " không áp dụng
hình thức phân công theo công việc" và "mỗi người bệnh phải được một bác sỹ và

18
một y tá (điều dưỡng) chịu trách nhiệm cụ thể về điều trị và chăm sóc toàn diện".
Quy chế đã nhấn mạnh vào mô hình phân công chăm sóc và trách nhiệm cụ thể của
các cá nhân trong chăm sóc. Quy chế vừa đề cập tới chuyển đổi phương thức phân
công chăm sóc từ lấy công việc làm trung tâm sang lấy người bệnh làm trung tâm,
vừa mở rộng nội dung chăm sóc không chỉ dịch vụ y tế mà còn đáp ứng những
nhu cầu cơ bản của một con người cả về thể chất, tinh thần và xã hội [25].
CSNBTD được coi là giải pháp cơ bản để nâng cao sự hài lòng của người
bệnh, cũng như nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và uy tín của bệnh viện. Tại
các bệnh viện, công tác này được thực hiện với nhiều mô hình: theo người bệnh,
theo công việc, theo nhóm, theo đội phù hợp điều kiện cụ thể của từng đơn vị.
Mô hình chăm sóc người bệnh toàn diện theo đội mà Bệnh viện Việt Nam -
Thụy Điển Uông Bí đang triển khai được đánh giá có thể áp dụng cho nhiều bệnh
viện ở nước ta. Phòng ĐD của bệnh viện chịu trách nhiệm chỉ đạo hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ, nhân lực ĐD và chịu trách nhiệm trước giám đốc bệnh viện về tổ
chức, điều hành và giám sát công tác chăm sóc để người bệnh được CSTD với chất
lượng, hiệu quả cao nhất khi tới khám và điều trị tại bệnh viện. Rút kinh nghiệm từ
mô hình nhóm chăm sóc toàn diện, từ năm 1998 Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển
Uông Bí bắt đầu nghiên cứu điểm thực hiện mô hình phân công chăm sóc theo đội.
Đến năm 2005 - 2006 mô hình mới này được triển khai toàn bệnh viện. Đội chăm
sóc gồm: bác sĩ, ĐD, KTV phục hồi chức năng, dược lâm sàng, nhân viên y tế khác,
học sinh, sinh viên, người bệnh và người nhà người bệnh. Nguyên tắc làm việc của
đội chăm sóc là phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên, nhằm mục đích phát huy hết
khả năng của từng người; phân công nhiệm vụ công khai, cụ thể và khoa học phù
hợp với phân cấp người bệnh. Theo dõi người bệnh thường xuyên để thay đổi cấp
độ chăm sóc và có những can thiệp kịp thời. Người bệnh là trọng tâm, được chăm

sóc cả về thể chất và tinh thần, được tham gia vào lập kế hoạch chăm sóc. Đáng chú
ý, người nhà người bệnh cũng được tham gia vào đội chăm sóc đó, có nhiệm vụ hỗ
trợ chăm sóc người bệnh theo sự tư vấn, hướng dẫn của các thành viên trong đội.
Nhờ đó, hầu hết cán bộ và nhân viên các khoa, phòng đều có thái độ tích cực và ý

19
thức trách nhiệm trong quá trình triển khai chăm sóc toàn diện người bệnh theo mô
hình đội. Trung bình mỗi khoa có hai hoặc ba đội chăm sóc như vậy. Các thành viên
đều phát huy được vai trò, trách nhiệm của mình khi tham gia. Chất lượng CSNB
được cải thiện, người bệnh được theo dõi sát và liên tục, không có "khoảng trống"
trong CSNB.
Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, công tác CSNBTD được thực hiện theo mô
hình lấy người bệnh, buồng bệnh làm trung tâm với sự tham gia của các lực lượng
liên quan (bác sĩ, điều dưỡng, hộ lý, dược ). Nội dung chăm sóc toàn diện bao gồm
về chăm sóc y tế (chữa bệnh); thể chất (ăn mặc, ở, vệ sinh); tinh thần (phong cách
giao tiếp, thời gian tiếp xúc người bệnh). Nhờ đó, góp phần áp dụng nhiều tiến bộ
khoa học công nghệ về chẩn đoán, điều trị và chăm sóc người bệnh và từng bước
thực hiện kỹ thuật CSNB chuyên sâu.
Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, CSNBTD cũng thực hiện theo mô hình lấy người
bệnh làm trung tâm với sự tham gia tích cực của các bộ phận từ lâm sàng, cận lâm
sàng cũng như vệ sinh, dinh dưỡng người bệnh và người nhà người bệnh. Trên cơ
sở những nhu cầu chính đáng của người bệnh để tổ chức thực hiện đáp ứng nhu cầu
đó. Cán bộ y tế thường xuyên giao tiếp, giải thích tường tận, động viên an ủi, trao
đổi với người bệnh và người nhà người bệnh với các hình thức "ba không": không
nặng lời, không thờ ơ, không từ chối; "ba công đoạn": xin phép, xin lỗi, cảm ơn.
CSNBTD là dịch vụ hết sức quan trọng, giúp nâng cao chất lượng khám,
chữa bệnh, làm người bệnh hài lòng là xu thế tất yếu đối với các bệnh viện. Nhưng
phần lớn các bệnh viện đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trong việc triển khai
loại hình dịch vụ này. Khó khăn đến từ cả trong và ngoài bệnh viện. Các yếu tố bên
trong là bệnh viện thiếu nhân lực, tình trạng quá tải, chi phí y tế tăng cao, chính

sách cho cán bộ y tế thiếu. Ngoài ra, nhiều lãnh đạo bệnh viện nhận thức chưa đầy
đủ về CSNBTD, chưa quan tâm xây dựng và củng cố hệ thống y tá - ĐD, phương
tiện chăm sóc Các yếu tố bên ngoài là nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân tăng
trong khi đó chi phí của nhà nước cho khám chữa bệnh giảm. Nhiều ý kiến cho
rằng, chăm sóc toàn diện bao hàm cả chăm sóc liên tục, nghĩa là người bệnh được

20
chăm sóc, quản lý tiếp tục sau khi xuất viện. Nhưng hiện tại vấn đề này đang bị bỏ
ngỏ. Theo TS Trần Quý Tường, Phó Cục trưởng Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y
tế), để bảo đảm sự hài lòng của người bệnh, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh
và tăng uy tín của đơn vị, các cơ sở khám chữa bệnh phải đẩy mạnh công tác
CSNBTD. Đặc biệt phải thay đổi nhận thức trong toàn thể cán bộ, nhân viên và xác
định đây là công việc của tất cả mọi cán bộ, nhân viên [48].
1.3.2.3 Tại Nghệ An:
Ngành y tế đã và đang chỉ đạo các bệnh viện thực hiện nghiêm qui chế của
Bộ Y tế về CSNBTD. Tuy nhiên ở trong từng bệnh viện, các khoa chưa thống nhất
thực hiện một mô hình chung mà thực tế kết hợp nhiều mô hình khác nhau tùy
theo điều kiện cụ thể của khoa. Các bệnh viện trên toàn tỉnh cũng vậy, chưa có
một mô hình thống nhất chung cho tỉnh, mỗi bệnh viện đều có lý do riêng cho việc
triển khai mô hình chăm sóc phù hợp với điều kiện hiện có.
Kết quả đạt được [45]: Trong những năm qua triển khai mô hình CSNBTD
đã thu được một số kết quả như củng cố hệ thống QLĐD. Tổ chức mô hình phân
công chăm sóc theo đội (gồm cả bác sĩ, ĐD, học sinh, sinh viên, người bệnh hoặc
người nhà người bệnh và cả nhân viên y tế khác) hoặc chăm sóc theo nhóm (bao
gồm 2-3 ĐD trở lên). Nhiều bệnh viện bố trí cho ĐD làm việc theo ca kíp tại các
khoa trọng điểm như hồi sức cấp cứu, chăm sóc sau phẫu thuật, khoa chăm sóc đặc
biệt để đảm bảo chăm sóc người bệnh cả ban ngày và đêm. Quyền lợi của người
bệnh thông qua những nội dung chăm sóc.
Chăm sóc y tế: những hoạt động chuyên môn phục vụ cho chẩn đoán, điều
trị, chăm sóc của thầy thuốc, ĐD được cải thiện.

Chăm sóc thể chất: cung cấp những phương tiện phục vụ cá nhân tại bệnh
viện, sự tiện nghi trong khi nằm viện, những thực hành chăm sóc trợ giúp cá nhân
như vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường buồng bệnh, cung cấp đồ vải, tiện nghi
buồng bệnh, dịch vụ ăn uống trong bệnh viện…
Chăm sóc tinh thần: thông qua giao tiếp, tinh thần thái độ phục vụ người
bệnh, những trợ giúp tâm lý, thông tin giáo dục sức khoẻ. Tỷ lệ người bệnh hài lòng

21
khi sử dụng dịch vụ y tế và điều trị tại bệnh viện đang được cải thiện dần [13], [24],
[25], [45], [48], [68].
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, thách thức: Tại Chỉ thị 05/2003/BYT-CT,
Bộ Y tế đã yêu cầu các bệnh viện xoá bỏ mô hình phân công chăm sóc theo công
việc, nhưng cho tới thời điểm khảo sát (7/2009) vẫn còn 16% bệnh viện đang thực
hiện mô hình chăm sóc theo công việc với lý do là thiếu nhân lực [13].
1.4. Năng lực quản lý điều dưỡng:
1.4.1 Các kỹ năng đánh giá năng lực quản lý Điều dưỡng:
Dựa vào kiến thức hiểu biết và thực hành các kỹ năng QLĐD, gồm 16 kỹ
năng sau [16], [14], [20], [30], [40], [95]:
1.4.1.1 Tổ chức chăm sóc người bệnh toàn diện: Năng lực ĐDT được thể hiện thông
qua các công việc mà họ phải thực hiện hoặc tổ chức thực hiện hàng ngày. Đó là tổ
chức tiếp đón, sắp xếp người bệnh mới vào viện; xây dựng và duy trì mô hình
CSNB, kiểm tra thực hiện y lệnh điều trị và kế hoạch chăm sóc; theo dõi bệnh nhân
nặng; thực hiện một số kỹ thuật ĐD cơ bản theo đúng quy trình; kiểm tra việc chuẩn
bị bệnh nhân trước khi đi phẫu thuật, chuyển khoa, chuyển viện, đi buồng cùng bác
sĩ trưởng khoa để nhận và tổ chức thực hiện các y lệnh về điều trị, chăm sóc, chủ
động đi buồng hàng ngày để thăm hỏi nắm tình hình và giải quyết các yêu cầu của
người bệnh; chủ động báo cáo những diễn biến bất thường của người bệnh cho bác
sĩ điều trị và bác sĩ trưởng khoa để kịp xử lý; chủ động tham gia trao đổi, thảo luận
với bác sĩ điều trị trong các trường hợp chăm sóc đặc biệt, tổ chức cuộc họp với gia
đình người bệnh, tham gia thường trực khi cần thiết. Với những nội dung công việc

trên người ĐDT thực sự điều hành toàn bộ công tác CSNB trong khoa, bệnh viện.
1.4.1.2 Chỉ đạo công tác vệ sinh: Hàng ngày, người ĐDT kiểm tra, đôn đốc điều
dưỡng, hộ lý và bệnh nhân thực hiện tốt y lệnh của bác sĩ điều trị, qui chế, qui định
kỹ thuật bệnh viện, trong đó cả công tác vệ sinh phòng chống nhiễm khuẩn, báo cáo
kịp thời với trưởng khoa các việc đột xuất, những diễn biến bất thường của người
bệnh để kịp thời xử lý; kiểm tra việc cọ rửa, khử tiệt khuẩn theo qui định, giám sát

22
việc thu gom phân loại và xử lý chất thải, các biện pháp phòng hộ với nhân viên
trong quá trình làm việc.
1.4.1.3 Quản lý nhân lực: Là thực hiện các khâu tuyển dụng nhân lực theo tiêu
chuẩn và nội dung công việc, sắp xếp và giao nhiệm vụ, theo dõi, kiểm tra, đánh giá
hiệu quả công việc của họ, đồng thời phải thực hiện tốt những yêu cầu của người
lao động theo đúng chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nội dung quản lý
nhân lực: Xác định khối lượng công việc chăm sóc; Xác định biên chế ĐD cần thiết;
Tuyển chọn; Xác định mô hình phân công chăm sóc; Mô tả công việc cho các vị trí
nhân viên; Đào tạo, huấn luyện nhân viên; Xây dựng lịch phân công lao động; Theo
dõi và phân công; Nhận xét và đánh giá nhân viên.
1.4.1.4 Quản lý tài sản - Vật tư: Bao gồm quản lý tài sản, máy móc, hàng vật tư tiêu
hao. Trên thực tế công việc này quản lý chưa khoa học, còn phụ thuộc, không chủ
động dẫn tới tình trạng thiếu thừa, vừa lãng phí, vừa kém hiệu quả.
1.4.1.5 Tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học: Đào tạo lại cho cán bộ trong quá
trình công tác là việc làm không thể thiếu được trong quá trình sử dụng nhân lực,
đặc biệt là công tác CSNB. Trong quá trình điều hành phân công công việc cho
nhân viên, ĐDT sẽ hiểu và đánh giá được thực trạng năng lực công tác, khả năng
hoàn thành nhiệm vụ của ĐDV. ĐDT phải lập kế hoạch, xây dựng nội dung đào tạo,
tham gia hướng dẫn, học sinh, sinh viên điều dưỡng trong quá trình thực tập tại
khoa, tham gia NCKH và tổ chức các buổi sinh hoạt khoa học tại khoa, tổ chức thi
tay nghề cho ĐDV.
1.4.1.6 Lập kế hoạch: Lập kế hoạch là xác định một kế hoạch hoạt động, hoặc xác

định phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất, nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Lập kế hoạch
là chức năng cơ bản đầu tiên và là công cụ quản lý của các nhà quản lý. ĐDTK chịu
trách nhiệm xây dựng kế hoạch về phân công công việc, kế hoạch nhận và sử dụng
các dụng cụ, kế hoạch nghỉ phép, kế hoạch hội họp, kế hoạch đào tạo lại. Các kế
hoạch này phải được Trưởng khoa và Trưởng phòng ĐD bệnh viện thông qua.

23
1.4.1.7 Tổ chức thực hiện kế hoạch: ĐDTK là người chịu trách nhiệm trực tiếp
trước Trưởng khoa trong việc tổ chức các dịch vụ CSNB và phối hợp các hoạt động
chăm sóc với bác sỹ, các tổ chức và cá nhân trong khoa, bệnh viện. Nội dung của
chức năng tổ chức thực hiện bao gồm: Xác định mô hình chăm sóc; Mô tả công việc
cho từng vị trí; Phân công nhân viên đảm nhiệm từng vị trí công tác; Phân bổ nguồn
lực; Xây dựng và cải tiến quy trình công việc; Đào tạo và huấn luyện; Điều phối các
hoạt động.
1.4.1.8 Đánh giá: Xây dựng các chuẩn mực, tiêu chuẩn đánh giá: Tiêu chuẩn đánh
giá gồm 3 loại: (1) Tiêu chuẩn cấu trúc là các điều kiện về nguồn lực để thực thi
công việc; (2) Tiêu chuẩn quy trình là thứ tự các bước thực hiện công việc; (3) Tiêu
chuẩn đầu ra là kết quả cuối cùng của công việc. ĐDT cần thực hiện đánh giá
thường xuyên, liên tục và toàn diện để cải thiện chất lượng các dịch vụ ĐD. Phương
pháp đánh giá cần dựa vào báo cáo, hồ sơ chuyên môn, sổ sách hành chính, dựa vào
ý kiến góp ý của bệnh nhân, dựa vào quan sát thực tế trực tiếp đi buồng của ĐDTK.
1.4.1.9 Giám sát hỗ trợ: Là một khâu quan trọng của chu trình quản lý, giám sát là
tìm ra các vấn đề tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện kế hoạch
hành động, để có thể giải quyết kịp thời và điều chỉnh kế hoạch các hoạt động.
1.4.1.10 Ứng dụng công nghệ thông tin: Hiện nay, việc áp dụng các phần mềm vào
quản lý bệnh viện đang còn tản mạn, chưa đồng bộ. Kỹ năng ứng dụng CNTT của
các ĐDTK rất hạn chế. Việc đưa CNTT vào bệnh viện và tin học hoá đội ngũ cán
bộ nói chung, cán bộ quản lý nói riêng là chủ trương đúng đắn nhằm không ngừng
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức
khoẻ nhân dân.

1.4.1.11 Ra quyết định: Căn cứ vào việc xác định vấn đề trong quá trình chăm sóc,
nhu cầu nguồn lực, người ĐDTK đưa ra quyết định kịp thời, đúng đắn và hiệu quả.
Đây là một trong những kỹ năng cần thiết giúp cho người quản lý điều dưỡng giải
quyết các vấn đề quản lý nhanh, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng CSNB.

24
1.4.1.12 Giải quyết vấn đề: Vấn đề là sự khác biệt giữa mong muốn và hiện tại. Chỉ
được coi là vấn đề khi có 3 nội dung cơ bản: nhận thức được sự khác biệt; có áp lực
đòi hỏi giải quyết vấn đề; có nguồn lực cần thiết để giải quyết vấn đề.
Người ĐDTK cần phải có kỹ năng này để xác định các vần đề, lựa chọn ưu
tiên giải quyết hiệu quả.
1.4.1.13 Tổ chức cuộc họp: Trong công tác quản lý người ĐDT phải tổ chức và chủ
trì cuộc họp để điều hành công tác CSNB. Nếu họp không thường xuyên sẽ dẫn đến
thiếu thông tin, làm cho công tác quản lý không hiệu quả hoặc thất bại. Nếu tổ chức
cuộc họp tốt, đều đặn nhưng không chuẩn bị nội dung kỹ lưỡng sẽ làm lãng phí thời
gian của người tham dự. Vì vậy, ĐDT phải rèn luyện kỹ năng tổ chức và điều hành
cuộc họp.
1.4.1.14 Quản lý thời gian: Người ĐDTK phải trực tiếp quản lý nhiều nguồn lực
khác nhau trong đó có cả quản lý thời gian, muốn trở thành người quản lý điều
dưỡng giỏi phải biết quản lý thời gian giỏi. Để đạt được điều đó, người ĐDT phải
biết sử dụng thời gian của bản thân mình một cách có hiệu quả, điều hành, sắp xếp
các công việc một cách hợp lý, khuyên bảo cấp dưới sử dụng thời gian của họ một
cách hữu hiệu. Muốn như vậy phải có kế hoạch làm việc và nghiêm túc thực hiện kế
hoạch đề ra, biết tận dụng, phát huy tiết kiệm thời gian, loại trừ yếu tố làm lãng phí
thời gian.
1.4.1.15 Văn bản hành chính và cách soạn thảo công văn: Trong quá trình hoạt
động lãnh đạo, quản lý, điều hành, để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, các
cơ quan nhà nước ngoài sử dụng các bản quy phạm pháp luật, còn dùng các văn bản
hành chính thông thường để báo cáo, thông báo, chỉ đạo, giao dịch, liên hệ công
việc. ĐDT là một trong số cán bộ quản lý và lãnh đạo điều dưỡng nên phải có kiến

thức trong soạn thảo văn bản và quản lý văn bản, biểu mẫu, ghi chép thông tin, báo
cáo tại đơn vị mình.
1.4.1.16 Quản lý hồ sơ: Thực hiện theo Thông tư 07/2011/TT-BYT ngày
26/01/2011 về hướng dẫn công tác ĐD về CSNB trong bệnh viện và Quyết định
số 4069/QĐ-BYT ngày 28/9/2001 về việc ban hành "Mẫu hồ sơ - bệnh án". Tài

25
liệu CSNB trong hồ sơ bệnh án gồm: phiếu theo dõi chức năng sống, phiếu ĐD và
một số biểu mẫu khác theo Quyết định số 4069/QĐ-BYT ngày 28/9/2001 về việc
ban hành mẫu hồ sơ bệnh án của Bộ Y tế và theo tính chất chuyên khoa do bệnh
viện quy định. Tài liệu CSNB trong hồ sơ bệnh án phải bảo đảm yêu cầu sau [23]:
- Ghi các thông tin về người bệnh chính xác và khách quan.
- Thống nhất thông tin về công tác chăm sóc người bệnh của ĐDV, hộ sinh
viên và của bác sĩ điều trị. Những khác biệt trong nhận định, theo dõi và đánh giá
tình trạng người bệnh phải được kịp thời trao đổi và thống nhất giữa những người
trực tiếp chăm sóc, điều trị người bệnh;
- Ghi đầy đủ, kịp thời diễn biến bệnh và các can thiệp điều dưỡng.
Hồ sơ bệnh án phải được lưu trữ theo quy định tại Khoản 3 Điều 59 của Luật
Khám bệnh, chữa bệnh.
Quản lý hồ sơ bệnh nhân là việc làm hết sức quan trọng của người làm công
tác y tế nói chung và người ĐDT nói riêng. Từ khâu tiếp nhận hồ sơ nhập viện đến
việc điều hành việc ghi chép, lưu trữ, bảo quản và tổng kết hồ sơ. Người ĐDT phải
quán xuyến đảm bảo hồ sơ rõ ràng, chính xác, đầy đủ thông tin, hợp pháp.
1.4.2 Phương thức đánh giá năng lực quản lý Điều dưỡng:
- Đánh giá định kỳ, thường xuyên: Là sự đánh giá thường kỳ của người quản
lý. Hình thức đánh giá này thường được các nhà quản lý sử dụng hàng ngày, hàng
tuần, hàng tháng nhằm mục đích đôn đốc, giám sát nhân viên dưới quyền thực hiện
tốt nhiệm vụ cá nhân và đơn vị. Các nhà quản lý cấp trên thường áp dụng hình thức
đánh giá theo quí, nửa năm, một năm. Các tiêu chuẩn đánh giá thường xuyên được
ban hành và thông báo trước cho đơn vị tự rà soát, tự đánh giá. Cấp trên đến đánh

giá cấp dưới có thể sử dụng những kết quả đánh giá của đơn vị và chỉ phúc tra một
số điểm cần thiết hoặc tổ chức đánh giá lại toàn bộ theo tiêu chuẩn đánh giá đã
thông báo trước.
- Đánh giá đột xuất: Là sự đánh giá không được thông báo trước. Hình thức
đánh giá này thường tập trung sâu theo chuyên đề, mang tính khách quan và hiệu
quả, nhưng không bao trùm được hết các nội dung công tác đơn vị, cá nhân. Hình

×