Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội trong vấn đề đào tạo nghề cho thanh niên thừa thiên huế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.16 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LÊ VIẾT HIẾU
QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
TRONG VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO THANH NIÊN
THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NHÂN VĂN KHÁC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN TIẾN DŨNG
Huế, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Lê Viết Hiếu
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu,
Phòng Đào tạo Sau đại học, Ban chủ nhiệm, quý
thầy cô giáo Khoa Lý luận chính trị trường Đại
học Khoa học Huế và quý Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt thời gian học
tập, nghiên cứu và làm luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng, người
trực tiếp hướng dẫn và đã tận tình giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.


Huế, ngày 20 tháng 9 năm 2014
Tác giả
Lê Viết Hiếu
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục bảng biểu
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
- Làm rõ quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng gia đình và xã hội
và vai trò của việc đào tạo nghề cho thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước 6
- Làm rõ thực trạng của công tác đào tạo nghề cho thanh niên Thừa Thiên Huế hiện nay, từ
đó đề xuất những giải pháp khoa học để nâng cao chất lượng và vị thế của vấn đề đào tạo
nghề cho thanh niên Thừa Thiên Huế hiện nay 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 7
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các trường đào tạo nghề ở Thừa Thiên Huế hiện nay 7
- Luận văn có thể gợi ý khoa học cho việc hoạch định và giải quyết tình trạng thiếu việc
làm của thanh niên Thừa Thiên Huế hiện nay 7
7. Cấu trúc của luận văn 7
Chương 1 8
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 8
1.1. Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội 8

1.1.1. Khái niệm gia đình 8
1.1.2. Khái niệm xã hội 12
1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội 13
1.2. Vai trò của đào tạo nghề trong việc phát triển nguồn lực con người phục vụ quá trình
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước 22
1.2.1. Khái niệm đào tạo và đào tạo nghề 22
1.2.2. Đào tạo nghề là một khâu then chốt trong việc kiến thiết nguồn lực của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá 24
1.2.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đào tạo nghề và vai trò của nó
27
1.2.2.2. Ý nghĩa triết học của vấn đề 39
Kết luận chương 1 40
Chương 2 41
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO NGHỀ CHO THANH NIÊN THỪA THIÊN
HUẾ HIỆN NAY TỪ QUAN HỆ 41
BIỆN CHỨNG GIỮA GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI 41
2.1. Vai trò của gia đình - xã hội trong việc xác định đối tượng và phương pháp đào tạo
nghề 41
2.1.1. Vai trò gia đình - xã hội trong việc quy hoạch đối tượng đào tạo nghề 41
Con người là yếu tố quyết định, do vậy đào tạo đội ngũ lao động qua đào tạo nghề phải
được coi là điều kiện quan trọng để đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật phục vụ trực tiếp
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần đưa đất nước ta chuyển
dịch từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020 41
2.1.2. Gia đình - xã hội, mắt xích quan trọng của phương pháp đào tạo nghề 45
2.2. Thực trạng của đào tạo nghề cho thanh niên Thừa Thiên Huế hiện nay 47
2.2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Thừa Thiên Huế 47
2.2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 47
2.2.1.2. Kinh tế - xã hội 48
2.2.2. Những khía cạnh của thực trạng đào tạo nghề cho thanh niên Thừa Thiên Huế hiện

nay 50
2.2.2.1. Nhận thức của xã hội và thanh niên về học nghề 51
2.2.2.2. Về mạng lưới cơ sở dạy nghề, quy mô đào tạo nghề 53
2.2.2.3. Về đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề 57
2.2.2.4. Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho đào tạo nghề 59
2.2.2.5. Hợp tác quốc tế về đào tạo nghề 59
2.3. Giải pháp đào tạo nghề cho thanh niên Thừa Thiên Huế hiện nay từ quan hệ biện
chứng gia đình và xã hội 61
2.3.1. Nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, xã hội và thanh niên về học nghề và
phân luồng học sinh 62
Thực tế cho thấy, nơi nào, lúc nào làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục thì ở đó
làm tốt công tác tuyển sinh, số lượng thanh niên đăng ký vào học nghề ngày càng
đông. Cùng với việc tuyên truyền nâng cao nhận thức, các tổ chức chính trị - xã hội
trong mỗi cộng đồng phải coi việc chăm lo cho sự nghiệp đào tạo nghề là trách
nhiệm hàng đầu và thường xuyên của mình. Chính quyền địa phương phối hợp với
các tổ chức như Đoàn Thanh niên, hội Phụ nữ huy động mỗi nguồn lực cộng
đồng để thực hiện tốt nhất các mục tiêu đào tạo nghề. Để làm được điều đó, theo tôi
tỉnh cần: 62
2.3.2. Tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng và hiệu quả dạy nghề 64
Để tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng và hiệu quả dạy nghề, theo tôi cần
tiến hành đồng bộ các giải pháp như: 64
2.3.3. Hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý nhà nước về dạy nghề 64
2.3.4. Đẩy mạnh xã hội hoá, hợp tác quốc tế về đào tạo nghề 65
2.3.5. Đào tạo nghề gắn với việc làm cho thanh niên 68
Theo quan điểm duy vậy biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác.
Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng vào thực tiễn ta thấy, giữa đào tạo nghề và
việc làm có mối quan hệ với nhau, tương tác nhau và làm biến đổi lẫn nhau 68
2.3.6. Phát huy vai trò của gia đình trong việc chọn nghề cho thanh niên 70
2.3.7. Phát huy các giá trị nghề truyền thống trong việc đào tạo nghề 72

Kết luận chương 2 73
KẾT LUẬN 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
Bảng 2.1
Mạng lưới các trường nghề, trung tâm dạy nghề tỉnh
Thừa Thiên Huế
54
Bảng 2.2 Quy mô đào tạo nghề giao đoạn 2008 - 2014 56
Bảng 2.3 Thống kê đội ngũ giáo viên dạy nghề 58
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo nghề là một trong những nội dung quan trọng, không thể thiếu
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đảng và Nhà
nước ta coi công tác đào tạo nghề cho thanh niên là nhiệm vụ quan trọng
nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đáp ứng nguyện vọng về học nghề cho thanh niên, gia đình và toàn xã hội.
Theo dự báo, từ này đến năm 2020, sẽ tiếp tục có nhu cầu lớn về đào
tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông nghiệp và nông
thôn trong quá trình công nghiệp, hiện đại hóa, đô thị hóa. Nếu không chuyển
dịch cơ cấu lao động kịp thời theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, và tình trạng kém phát triển,
nghèo đói, bất bình đẳng vẫn không được giải quyết. Mặt khác, nếu không có
được nguồn nhân lực chất lượng cao thì trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế,
mở cửa thị trường, trong đó có thị trường lao động, lao động các nước sẽ đến
Việt Nam làm việc, trong khi đó lao động Việt Nam không tìm được việc làm.
Đó là nghịch lý và thách thức lớn đối với sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực

nói chung và dạy nghề nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đó, Đảng và Nhà nước ta
coi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố có
tính chất quyết định để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Nghị
quyết Đại hội X của Đảng xác định: Tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng
nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực
và cho xuất khẩu lao động; tạo chuyển biến căn bản về chất lượng dạy nghề
tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh đào tạo
1
nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Xây dựng môi trường giáo
dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội;
xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được
học tập suốt đời [13, tr.41].
Việc phát triển giáo dục - đào tạo nói chung và đào nghề nói riêng,
trong những năm vừa qua đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích
cực, được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân hết sức quan tâm. Nghị quyết hội nghị
lần thứ bảy Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế khoá XIV nêu ra
nhiệm vụ và giải pháp: “Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nhất là những nghề
thuộc lĩnh vực công nghệ cao. Mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề để đáp ứng
nhu cầu của xã hội, nhất là đào tạo nghề cho học sinh dân tộc thiểu số, vùng
khó khăn. Kết hợp chặt chẽ việc đào tạo nghề với việc bồi dưỡng, phổ biến
kiến thức kỹ thuật cho nông dân” [29].
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, tỉnh Thừa Thiên Huế đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhiều mặt. An
ninh chính trị ổn định, kinh tế phát triển nhanh, đời sống nhân dân từng bước
được nâng lên. Đầu tư kinh phí cho các cơ sở dạy nghề ngày càng tăng, mạng
lưới các cơ sở dạy nghề phân bố đều ở các địa phương cấp huyện, một số cơ
sở dạy nghề có chất lượng cao, có nhiều nghề sau khi học xong thị trường lao
động rất cần và trả lương cao nhưng rất ít đối tượng tham gia học nghề; bên

cạnh đó có một số cơ sở dạy nghề tuyển sinh thiếu chỉ tiêu, thậm chí không có
học viên. Chính điều này dẫn đến tình trạng mất cân đối trong cơ cấu đào tạo
nguồn nhân lực đã đào tạo và cơ cấu ngành nghề ở Thừa Thiên Huế.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do cơ cấu ngành nghề đào tạo
chưa phù hợp với thị trường lao động, chương trình, giáo trình chưa phù
hợp với nhu cầu thực tiễn; công tác tuyên truyền, công tác giáo dục hướng
nghiệp cho thanh niên hiện nay chưa có sự quan tâm đúng mức dẫn đến
2
hiện tượng “thừa thầy thiếu thợ” tồn tại nhiều năm qua vẫn chưa giải quyết
một cách thấu đáo, một bộ phận thanh niên chưa nhận thức đúng về học
nghề, chấp nhận chờ kỳ thi đại học, cao đẳng năm sau; tâm lý gia đình chỉ
muốn con em mình được học ở bậc đại học Những vấn đề đó đã gây lãng
phí cho gia đình và xã hội.
Để giải quyết tốt những vấn đề trên cần có sự kết hợp của nhà nước,
các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể và gia đình. Đây là nhân tố quan
trọng thúc đẩy phát triển đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, qua thực tế
công tác nhiều năm ở đơn vị, tác giả nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết, nên
chọn đề tài: “Quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội trong vấn đề đào
tạo nghề cho thanh niên Thừa Thiên Huế hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát
triển dạy nghề là một nội dung quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm,
đã ban hành Luật Dạy nghề năm 2006, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
liên quan đến hỗ trợ thanh niên học nghề, chiến lược phát triển dạy nghề
Bên cạnh đó, đã có một số công trình khoa học, tạp chí, luận án nghiên cứu về
đào tạo nghề dưới nhiều góc độ khác nhau. Đó là:
1. Quyết định số 103 ngày 21 tháng 7 năm 2008 của Thủ tưởng Chính
phủ về phê duyệt đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn

2008 – 2015, trong đó giao cho Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chủ
trì, tổ chức tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức, ý thức về học nghề,
lập nghiệp bằng học nghề cho thanh niên và toàn xã hội.
2. Quyết định số 630 ngày 29 tháng 5 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011 - 2002 với quan
3
điểm chỉ đạo phát triển dạy nghề là sự nghiệp và trách nhiệm của toàn xã hội;
là nội dung quan trọng của chiến lược, quy hoạch phát triển chiến lược quốc
gia, đòi hỏi phải có sự tham gia của chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, các
cơ sở dạy nghề, cơ sở sử dụng lao động và người lao động; ngoài ra Chiến
lược phát triển Dạy nghề đưa ra 9 giải pháp, trong đó giải pháp “Đổi mới
quản lý nhà nước về dạy nghề” và giải pháp “Phát triển đội ngũ giảng viên,
giáo viên và cán bộ quản lý về dạy nghề” là hai giải pháp đột phá; giải pháp
“Xây dựng khung trình độ nghề quốc gia” là giải pháp trọng tâm.
3. Quyết định về việc phê duyệt Đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và
tạo việc làm giai đoạn 2008 - 2015 của Thủ tướng Chính phủ.
4. Kế hoạch số 94/KH-UBND ngày 31/12/2011 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh về việc triển khai thực hiện Chương trình trọng điểm phương trình trọng
điểm phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực năm 2012. Kế hoạch đã
đưa ra một số nhiệm vụ và giải pháp, trong đó nhấn mạnh tiếp tục thực hiện
quy hoạch mạng lưới và đẩy mạnh phát triển công tác đào tạo nghề; đẩy mạnh
công tác xã hội hóa giáo dục, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đóng góp xây dựng đất nước.
5. Cuốn sách: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt
Nam” của Ban Tuyên giáo Trung ương - Tổng Cục Dạy nghề - Viện nghiên
cứu phát triển phương Đông (Nxb Chính trị quốc gia, 2012), Tiến sỹ Nguyễn
Tiến Dũng, Tổng Cục trưởng Tổng cục Dạy nghề với bài: Đổi mới và phát
triển dạy nghề ở Việt Nam đã nêu lên thực trạng dạy nghề - thành tựu và hạn
chế, chỉ ra những tồn tại như các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề còn
bất cập, giáo viên dạy nghề còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng;

chưa thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với cơ sở dạy nghề;
chưa có chính sách tạo động lực mạnh mẽ để thu hút người học nghề và người
dạy nghề và nêu ra định hướng đổi mới và phát triển dạy nghề.
4
Một số sách, báo và bài viết trên tạp chí có đề cập đến vấn đề này như:
1. Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam
Hướng tới tương lai, vấn đề và giải pháp, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Hữu Dũng (T10/2009), “Tuyển sinh học nghề: Thực trạng và
giải pháp”, Nghề nghiệp và cuộc sống - Tạp chí của Hội Dạy nghề Việt Nam.
3. Nguyễn Tiến Dũng, Tổng cục trưởng tổng cục dạy nghề (2012),
“Đổi mới và phát triển dạy nghề đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”, www.tapchicongsan.org.vn. Tác giả
đã nêu lên thực trạng dạy nghề - thành tựu và hạn chế; định hướng và phát
triển dạy nghề.
4. Đàm Hữu Đắc (2009), “Phương hướng giải quyết việc làm cho
thanh niên đến năm 2015”, Tạp chí Học nghề lập nghiệp, Xuân kỷ sửu 2009.
5. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục - Phát triển con người
phục vụ phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Ngô Công Hoàn (1993), Tâm lý học gia đình, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
7. Lê Ngọc Hùng (2009), Xã hội hóa giáo dục, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
8. Nguyễn Đức Trí (T12/2004), “Vấn đề xã hội hoá trong đào tạo
nghề”, Bản tin khoa học đào tạo nghề số 4.
9. Thái Duy Tuyên (2007), Triết học giáo dục Việt Nam, Nxb Đại học
Sư phạm.
10. Hồ Văn Thống (2009), Nhu cầu nhân lực và công tác giáo dục
hướng nghiệp trong trường trung học phổ thông khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, Tạp chí Giáo dục số 209. Tác giả cho rằng hệ thống đào tạo nhân
lực hiện nay còn nhiều mặt hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tình trạng nhân lực hiện nay ở nước ta vừa
5
thừa, vừa thiếu. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp trong khi còn một tỉ lệ
không nhỏ học sinh, sinh viên ra trường không có việc làm. Tác giả khẳng
định công tác hướng nghiệp là rất quan trọng, tuy nhiên công tác tư vấn, giáo
dục nghề nghiệp cho học sinh phổ thông ở nước ta hiện nay chưa được quan
tâm đúng mức
12. Nguyễn Trọng Xuân (2013), Thất nghiệp và công tác dạy nghề, tạo
việc làm ở nước ta hiện nay, Tạp chí giáo dục lý luận (192).
13. www.tapchicongsan.org.vn – Đổi mới và phát triển dạy nghề đáp
ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
14. www.thuathienhue.gov.vn
Vấn đề nghiên cứu đào tạo nghề đã được Đảng và Nhà nước hết sức
quan tâm. Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu, một số
đề tài, báo chí, sách đã đề cập đến vấn đề dạy nghề, song chưa thấy công
trình nghiên cứu vấn đề đào tạo nghề cho thanh niên ở cấp tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện
chứng gia đình và xã hội và vai trò của việc đào tạo nghề cho thanh niên trong
sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
- Làm rõ thực trạng của công tác đào tạo nghề cho thanh niên Thừa Thiên
Huế hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp khoa học để nâng cao chất lượng và
vị thế của vấn đề đào tạo nghề cho thanh niên Thừa Thiên Huế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác đào tạo nghề cho thanh niên tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thanh niên tỉnh Thừa Thiên Huế và để đảm bảo tính khoa học, khi cần
thiết có thể đối chiếu so sánh các tỉnh lân cận.
6

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp vận dụng các phương pháp phân
tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các trường đào tạo nghề ở Thừa
Thiên Huế hiện nay.
- Luận văn có thể gợi ý khoa học cho việc hoạch định và giải quyết
tình trạng thiếu việc làm của thanh niên Thừa Thiên Huế hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục bảng biểu, Tài
liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm có 2 chương (5 tiết):
Chương 1: Cơ sở lý luận chung
Chương 2: Thực trạng và giải pháp đào tạo nghề cho thanh niên Thừa
Thiên Huế hiện nay từ quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa gia đình và xã hội
1.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một thể chế mang tính toàn cầu, nó tồn tại khắp mọi nơi
trên thế giới, với nhiều hình thức, cấu trúc khác nhau. Gia đình là cái gốc của
con người, nơi con người sinh ra, bắt đầu cuộc sống. Trong suốt cuộc đời, gia
đình luôn là điểm tựa, là cội nguồn của tình cảm, là cái nôi của sự bình yên, là
yếu tố vô cùng cần thiết cho cuộc sống của con người và cho xã hội. Vì vậy,
dưới các góc độ nghiên cứu khoa học khác nhau về gia đình thì tất yếu sẽ có
những định nghĩa khác nhau.
Với quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác và Ph. Ăngghen đã xem xét,
nghiên cứu sự phát triển của gia đình trong sự phát triển của sản xuất vật chất.

Hai ông quan niệm gia đình là một xã hội thu nhỏ - gia đình tham gia ngay từ
đầu vào các quá trình xã hội, tạo ra sự vận động, biến đổi của xã hội, đến lượt
nó, xã hội tác động đến gia đình, ghi lại dấu ấn trong kết cấu, trong thuần
phong mỹ tục của gia đình.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845), khi luận chứng về những
điều kiện tiền đề cho sự tồn tại của con người, C.Mác và Ph. Ăngghen đưa ra
nhận xét: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn
tái tạo ra những người khác sinh sôi, nảy nở. Đó là quan hệ giữa chồng và
vợ, cha mẹ con cái, đó là gia đình” [19, tr.41]. Với quan điểm này, khái niệm
gia đình được nhìn nhận với một số khía cạnh sau:
8
Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của
xã hội loài người; con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình
thì đồng thời cũng tạo ra gia đình.
Thứ hai, chức năng của gia đình là tái tạo ra, sinh sôi nảy nở con người.
Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn
nhân (vợ - chồng), quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái).
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà
nước” (1884), Ph. Ăngghen đã chỉ ra vị trí quy định của gia đình đối với các
thiết chế xã hội:
Với quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy
cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp.
Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo và nhà ở và những công cụ
cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra
bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã hội,
trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của
một nước nhất định đang sống là do hai loại sản xuất đó quyết định:
Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do
trình độ phát triển của gia đình [20, tr.44].

Như vậy, theo Ph.Ăngghen, thứ nhất, quá trình sản xuất và tái sản xuất
ra đời sống trực tiếp là nhân tố suy đến cùng quyết định tiến trình phát triển
của lịch sử; thứ hai, cùng với trình độ phát triển của lao động, trình độ phát
triển của gia đình quyết định trình độ phát triển của xã hội; thứ ba, đến lượt
mình, trình độ phát triển của gia đình cũng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển
của sản xuất, của lao động và của xã hội.
9
Ở Việt Nam, vấn đề gia đình đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều
bộ môn khoa học khác nhau, thuộc nhiều chuyên ngành và vì thế định nghĩa
gia đình cũng rất phong phú và đa dạng.
Theo từ điển Triết học, “Gia đình - đơn vị xã hội (nhóm nhỏ xã hội),
hình thức tổ chức quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và
các quan hệ huyết thống, tức là quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con
cái, giữa anh chị em và những người thân thuộc khác cùng chung sống và có
kinh tế chung. Đặc trưng của sinh hoạt gia đình là các quá trình vật chất (sinh
vật, kinh tế) và tinh thần (đạo đức, pháp lý, tâm lý). Gia đình là một phạm trù
lịch sử” [39, tr.204-205].
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội - 2002,
định nghĩa:
Gia đình thiết chế xã hội dựa trên cơ sở kết hợp những thành
viên khác giới, thông qua hôn nhân, để thực hiện các chức năng sinh
học, kinh tế, văn hoá, xã hội, tín ngưỡng Khi gia đình có con cái,
thì các thành viên trong gia đình được liên kết với nhau vừa bằng
quan hệ hôn nhân (không cùng huyết thống) vừa bằng quan hệ huyết
thống (theo dòng mẹ hoặc dòng bố). Gia đình là một phạm trù lịch
sử, thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội [40].
Tác giả Ngô Công Hoàn quan niệm: “Gia đình là một nhóm xã hội nhỏ,
các thành viên trong nhóm có quan hệ gắn bó về hôn nhân, hoặc huyết thống,
tâm sinh lý và cùng các giá trị vật chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm
lịch sử nhất định [16, tr.8].

Dưới góc độ chủ nghĩa xã hội khoa học, giáo trình Chủ nghĩa xã hội
khoa học (2008) định nghĩa:
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được
hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu trên cơ sở hôn nhân và huyết
10
thống – đó là quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia
đình”. Nhưng xét rộng hơn và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một
đơn vị tình cảm - tâm lý, mà còn là một tổ chức kinh tế - tiêu dùng
(sở hữu, sản xuất, thu nhập và chi tiêu ), một môi trường giáo dục -
văn hoá (văn hoá gia đình và cộng đồng), một cơ cấu - thiết chế xã
hội (có cơ chế và cách thức vận động riêng) [17, tr.415].
Tại Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam, khẳng
định: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền
giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” [23, tr.12].
Dĩ nhiên, khi nêu khái niệm gia đình, các nhà nghiên cứu cố gắng đưa
ra một khái niệm bao quát nhất, nhằm phản ánh một cách đầy đủ nội hàm của
một phạm trù tương đối rộng này. Nhưng trong đời sống hàng ngày, khi nói
đến gia đình, thì điều đầu tiên và chủ yếu là nói đến một tập hợp người, cùng
sống chung dưới một mái nhà và giữa họ có mối liên hệ với nhau, bởi: Thứ
nhất, quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng; thứ hai, quan hệ huyết thống giữa
cha mẹ và con cái, giữa anh chị em ruột, giữa ông bà với các cháu; thứ ba,
một số người được gia đình nuôi dưỡng, gắn bó với nhau về trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền lợi, được họ hàng làng xóm ủng hộ, được luật pháp thừa
nhận và bảo vệ.
Như vậy, khi nói đến gia đình, thì điều đầu tiên và chủ yếu là nói đến
một tập hợp người, cùng chung sống dưới một mái nhà và giữa họ có mối liên
hệ với nhau bởi quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng; quan hệ huyết thống giữa
cha mẹ và con cái, giữa anh chị em ruột, giữa ông bà và các cháu; quan hệ nuôi
dưỡng và giáo dục giữa các thành viên.

11
1.1.2. Khái niệm xã hội
Khái niệm xã hội được hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau, cao nhất là xã hội
loài người (toàn thể loài người) thấp nhất là hệ thống xã hội như dân tộc quốc
gia, chủng tộc, giai cấp Theo Mác, xã hội là một phạm trù mang tính tổng thể
có quan hệ bao trùm toàn bộ sinh hoạt xã hội và mối quan hệ của nó. Mác viết:
“Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối
liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau”. Các quan hệ đó bao
gồm: quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ tư tưởng, quan hệ huyết thống
Đây là quan hệ xã hội có sự liên hệ hữu cơ, trong đó các nhân tố đến tổ hợp với
nhau theo một phương thức nào đó và hình thành quan hệ tương đối, biểu hiện
thành một trật tự nhất định làm cho xã hội thành chỉnh thể nhất định.
Theo Mác: “Xã hội - cho dù là hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản
phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”
Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan
hệ biện chứng với nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của một xã hội là cộng
đồng tập thể gia đình, cơ quan, đơn vị và lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc
gia, dân tộc… và rộng lớn nhất là cồng đồng nhân loại.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, nhà xuất bản Từ điển Bách khoa,
Hà Nội, 2005:
Xã hội theo nghĩa hẹp, là khái niệm chỉ một loại hệ thống xã
hội cụ thể trong lịch sử, một hình thức nhất định của những quan hệ
xã hội, là một xã hội ở vào trình độ phát triển lịch sử nhất định, là
một kiểu loại nhất định đã hình thành trong lịch sử. Ví dụ: xã hội nô
lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa, Trong trường hợp
này, xã hội trùng hợp với hình thái kinh tế - xã hội. Theo nghĩa
rộng, là toàn bộ các hình thức hoạt động chung của con người, đã
hình thành trong lịch sử. Người ta thường dùng khái niệm xã hội để
12
chỉ một tập đoàn người được quan niệm như một hiện thực của các

thành viên của nó, hoặc là để chỉ một môi trường của con người mà
cá nhân được hoà nhập vào, môi trường đó được xem như là toàn
bộ các lực lượng có tổ chức và có hệ thống tôn ti trật tự tác động lên
cá nhân. Khái niệm xã hội là khái niệm đối lập với khái niệm cá
nhân, cũng như khái niệm sống của xã hội là đối lập với khái niệm
sống đơn độc [41].
1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội
Từ thời cổ đại, các nhà kinh điển đã coi trọng mối quan hệ giữa gia
đình và xã hội. Khổng Tử coi mối quan hệ giữa Thân – Nhà – Nước – Thiên
hạ là nền tảng của cấu trúc xã hội. “Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại
gia, gia chi bản tại thân” (Gốc của thiên hạ ở nước, gốc của nước là nhà, gốc
của nhà là ở mỗi người), ở đây vai trò của Nhà và Thân mang ý nghĩa quyết
định cho sự tồn tại và phát triển của Nước và Thiên hạ. Lý tưởng của Nho
giáo là thực hiện một xã hội bình trị thống nhất ổn định, trật tự và hoà bình.
Để thực hiện được điều này, theo Nho giáo, con người trước hết phải “Tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” nghĩa là con người trước hết phải học tập
tu dưỡng, sau đó phải xây dựng và quản lý nhà mình cho thật tốt rồi vươn lên
quản lý đất nước và cai trị nước khác. Theo khuynh hướng đó, người đàn ông
sẽ có trách nhiệm với gia đình, tổ tiên, dòng họ để cũng từ đó có điều kiện
xây dựng tổ quốc, ổn định và phát triển xã hội.
Platon (427 - 347 TCN - Nhà triết học cổ đại Hy Lạp) cho rằng gia
đình mà người đàn ông làm chủ là tế bào của xã hội, xã hội và nhà nước là kết
quả của sự liên kết của các gia đình.
Arixtốt (384 - 322 TCN - Nhà triết học cổ đại Hy Lạp) cho rằng: Gia
đình mà trong đó người đàn ông giữ vị trí thống trị đối với người vợ của
mình, như là một tế bào nguyên sơ khởi thuỷ của xã hội. Ông rút ra kiểu gia
13
đình này từ bản chất của con người và nhìn nhận nó như là một hình thức
quan hệ đầu tiên. Sự liên kết các gia đình lại thành “làng xóm” nhiều làng
xóm kết lại thành “quốc gia”. Arixtốt coi gia đình là một phạm trù biến đổi

mang tính lịch sử trong quá trình chuyển tiếp của lịch sử. Ông cho rằng bản
chất của nhà nước là một hình thức giao tiếp cao nhất của con người. Có
nhiều hình thức giao tiếp như giao tiếp trong gia đình, giao tiếp trong sinh
hoạt kinh tế, trong trao đổi của cải. Nhà nước chỉ xuất hiện khi có sự giao tiếp
về lợi ích của cuộc sống giữa nhiều gia đình và họ hàng về một cuộc sống đầy
đủ và hoàn thiện. Ông cho rằng, gia đình là thiên chất tự nhiên của nhà nước,
vì vậy con người về bản chất thuộc về nhà nước, vượt ra ngoài khuôn khổ nhà
nước thì con người không phải là con người phát triển về đạo đức hoặc đó là
động vật hoặc đó là thượng đế. Tuy nhiên, những nghiên cứu của ông còn
mang tính tự phát, dựa vào những nhận thức rất nhạy cảm, thông minh nhưng
có phần rất chủ quan, thành kiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến vấn đề gia đình. Theo
Người, gia đình là một tập hợp rộng rãi hơn, có thể là một tập thể, một cộng
đồng xã hội. Người viết: “Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và
nghĩa rộng. “Gia” là nhà, “Đình” là sân. Theo nghĩa cũ thì gia đình chỉ có giới
hạn hẹp trong một cái nhà, cái sân. Nghĩa là chỉ có cho cha mẹ, vợ con trong
nhà Theo nghĩa mới thì gia đình rộng rãi hơn tốt đẹp hơn”. Ví dụ, những
người cùng lao động trong cùng một nhà máy, trong một cơ quan, trong một
hợp tác xã Rộng hơn nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại
gia đình” [27, tr.257-258].
Trong mối quan hệ biện chứng giữa gia đình - xã hội, gia đình Việt
Nam truyền thống chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo. Nho giáo là học
thuyết căn cứ vào gia đình để hình dung thế giới theo mô hình gia đình êm
ấm, từ đó xây dựng một xã hội lý tưởng tổ chức nhà nước và xã hội theo mẫu
14
gia đình. Do đó, con người nhìn chung là con người của gia đình. Từ Thiên tử
cho tới dân thường ai cũng lấy “Tu thân” làm gốc. Việc tu dưỡng đạo đức của
mỗi người căn bản là rèn luyện phẩm chất của con người gia đình đó.
Mạnh Tử đã giải thích về gia đình như sau:
Nhân hữu hằng ngôn giai viết: Thiên hạ gốc gia, thiên hạ chi

bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân”. Nghĩa là
người ta thường nói rằng thiên hạ là quốc gia, gốc của quốc gia
chính là gia đình, gốc của gia đình chính là bản thân của mỗi cá
nhân. Cách giải thích của Mạnh Tử thật ngắn gọn nhưng cũng thật
sự đầy đủ về một cấu trúc cơ bản của xã hội xoay quanh mối quan
hệ cơ cấu chức năng: Cá nhân - gia đình - xã hội, trong đó nền tảng
cơ bản là gia đình [6, tr.23].
Gia đình truyền thống Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn bởi tư tưởng về
tính tôn ti trật tự trong Nho giáo. Điều này được thể hiện thông qua phong tục
tập quán, cách giáo dục và thông qua pháp luật. Như trong xã hội truyền
thống mối quan hệ giữa con người với con người được quy định hết sức chặt
chẽ. Mối quan hệ này được thừa nhận và tồn tại hàng ngàn năm. Trong xã hội
phong kiến, quyền uy cao nhất là vua bởi vua là “Thiên tử” (con trời), là “Thế
thiên hành đạo” (thay trời trị dân). Dưới vua là hệ thống quan lại đẳng cấp từ
trung ương đến địa phương với những ranh giới rất rõ ràng. Dưới cùng là thứ
dân, những người thấp cổ bé họng. Trong gia đình, được phân chia thành hai
hạng người, hạng trên hay còn gọi là sư, hạng dưới hay còn gọi là sự. Hạng
trên là những người có quyền uy sai khiến người khác như ông, cha, anh, con
trai còn hạng dưới là những người phụ thuộc hạng trên, phải phục vụ và bị
sai khiến. Đó là cháu, con, em, phụ nữ.
Gia đình truyền thống Việt Nam còn ảnh hưởng tam cương (Vua tôi
-Cha con – Chồng vợ), năm luân (Vua tôi - Cha con - Chồng vợ - Anh em -
15
Bạn bè). Những quy định trên cho thấy rằng tính tôn ti trật tự trong gia đình
truyền thống rất rõ ràng. Trên cơ sở những quy tắc xây dựng gia đình, Nho
giáo cho rằng một nước cần kỷ cương và trật tự ấy không thể có nếu không
sớm xây dựng nó từ trong gia đình. Để sớm xây dựng những trật tự kỷ cương
trong gia đình, các bật cha mẹ cần quan tâm lớn đến quá trình xã hội hoá cho
các thành viên của mình. Những quy định này có tác dụng lớn trong việc điều
chỉnh, làm ổn định, phát triển gia đình và xã hội.

Ở nước ta, sự phát triển và kế thừa tư tưởng Nho giáo về gia đình phù
hợp với bản sắc văn hoá riêng của dân tộc đã tạo ra nền văn hoá gia đình với
những nét độc đáo. Nền tảng cơ bản của các mối quan hệ gia đình được xây
dựng trên cơ sở tình yêu và ý thức trách nhiệm. Nó cũng là nguyên tắc chỉ đạo
mọi suy nghĩa hành động của mỗi cá nhân. Tình yêu gia đình vun đắp, tình
yêu cộng đồng, xã hội, tổ quốc và chính tình yêu đó là động lực cho sự tồn
tại, phát triển của đất nước trong những biến động thăng trầm của lịch sử.
Qua việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội,
chúng ta có thể thấy rõ vị trị, vai trò của gia đình trong xã hội truyền thống.
Chính việc xử lý tốt các mối quan hệ này, sẽ là nhân tốt làm cho xã hội ổn
định và là động lực to lớn cho sự phát triển bền vững.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa gia đình - xã hội, gia đình hiện đại
chịu ảnh hưởng bởi sự biến đổi của kinh tế - xã hội. Khi đất nước ta chuyển
đổi từ nền kinh tế tập trung quan, liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những biến đổi sâu sắc cho cả gia đình
và xã hội. Kinh tế hộ gia đình phát triển khá nhanh làm thay đổi hẳn bộ mặt
của đất nước, chất lượng cuộc sống của gia đình được nâng cao. Tuy nhiên,
chính sự biến đổi này làm cho gia đình truyền thống không còn phù hợp nữa,
các chuẩn mực giá trị đã có sự biến đổi. Điều này thể hiện rõ nét trong nền
kinh tế thị trường, sự du nhập của các nền văn hoá nước ngoài đã làm cho xã
16
hội thay đổi từng ngày. Sự thay đổi ấy diễn ra cả trong quan niệm con người,
chẳng hạn, ngày nay sự bình đẳng được đề cao hơn, những chuẩn mực lạc hậu
được loại bỏ nhằm tiến tới một xã hội tốt đẹp hơn. Hay vấn đề hội nhập kinh
tế làm cho mức sống con người được nâng cao, chất lượng cuộc sống được
cải thiện, từ đó làm cho nhu cầu hưởng thụ của họ tăng lên và mang những
nét cá nhân hơn. Mỗi thành viên trong gia đình đều muốn có khoảng không
gian riêng, thoải mái để làm những gì mình thích, không phải bận tâm đến sự
nhận xét của người khác. Do công ăn việc làm ổn định, con cái đến tuổi kết
hôn cũng không phải phụ thuộc kinh tế nhiều vào cha mẹ, từ đó nảy sinh ra

nhu cầu ở riêng cho thuận tiện về sinh hoạt Những thay đổi này đã có tác
động lớn đến mối quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Mối quan hệ biện
chứng gia đình và xã hội là một phạm trù rộng lớn được thể hiện rất đa dạng
trong đời sống xã hội, như thực hiện các chức năng của gia đình và trong các
hoạt động thực tế của con người.
Các chức năng của gia đình đều chịu ảnh hưởng theo những biến động
thăng trầm của lịch sử. Trong mỗi giai đoạn khác nhau thì vị trí, vai trò của
từng chức năng được xác định theo các mức độ khác nhau. Có những chức
năng ở giai đoạn lịch sử này có thể bị mất đi hay thay đổi nhưng ở giai đoạn
lịch sử khác thì được khôi phục, bổ sung và phát triển.
Chức năng của gia đình được thể hiện ở các chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất: Chức năng tái sản xuất ra con người. Đây là chức năng đặc
thù của gia đình. Chức năng này bao gồm tái sản xuất, duy trì nòi giống, nuôi
dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức
lao động cho xã hội.
Đối với gia đình Việt Nam truyền thống, chức năng này được đặc biệt
đề cao bởi tính quy định của nền văn minh nông nghiệp. Trong quá trình sản
xuất nông nghiệp đòi hỏi có nhiều lao động, nhất lao động của người đàn ông.
17
Gia đình càng đông con, nhất là đông con trai thì lực lượng lao động càng lớn
và có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, đến các mối quan hệ trong dòng họ.
Ngoài ra xét về văn hoá truyền thống, con trai luôn được đề cao. Bởi gia đình
truyền thống Việt Nam có phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà.
Ở nước ta hiện nay dân số đông, thu nhập bình quân đầu người thấp,
chất lượng cuộc sống chưa đảm bảo, nếu chức năng sinh sản phát triển
mạnh sẽ ảnh hưởng lớn tới sự phát triển kinh tế, xã hội Vì vậy, nhờ sự
nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong công tác giáo dục, tuyên truyền đã
làm thay đổi nhận thức của xã hội về vấn đề gia đình, dân số và phát triển.
Tỉ lệ sinh đã giảm xuống. Việc sinh con trai hay con gái không còn là sức
ép tâm lý với các cặp vợ chồng. Do vậy đời sống vật chất và tinh thần của

nhiều gia đình được nâng lên rõ rệt. Qua đó cho thấy, chiến lược về dân
số hợp lý sẽ tạo ra một cách có kế hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, là mục tiêu, động lực quan trọng nhất
của phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội.
Thứ hai: Chức năng kinh tế của gia đình
Theo quan điểm duy vật lịch sử, xã hội loài người tồn tại và phát triển
là do hai loại sản xuất quyết định đó là sản xuất ra con người và sản xuất ra
của cải vật chất. Bởi vậy, hoạt động kinh tế là chức năng tự nhiên của mọi gia
đình, mọi thời đại.
Như vậy, việc thực hiện chức năng kinh tế của gia đình nhằm tạo điều
kiện vật chất, đảm bảo sự tồn tại và nâng cao chất lượng sống cho các thành
viên trong gia đình, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, các triều đại phong kiến chủ
trương "trọng nông, ức thương", nên hầu như toàn bộ cư dân là nông dân (trên
90%) sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, với phương thức tự cung, tự
cấp là chủ yếu. Có thể nói, kinh tế của gia đình truyền thống lấy nông nghiệp
18

×