Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Quản lý Đầu tư quốc tế của nước chủ nhà . Chính sách điều tiết dòng vốn tư nhân gián tiếp nước ngoài của một số nước đang phát triển.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.44 KB, 77 trang )

Đề tài
Quản lý Đầu tư quốc tế của nước chủ nhà . Chính sách
điều tiết dòng vốn tư nhân gián tiếp nước ngoài của một
số nước đang phát triển.
Nhóm 3:
Hỏa Hạnh Nhân
Phan Thị Hồng Trang
Cao Thị Kim Dung
Chương 1. Tổng quan về đầu tư quốc tế và các hình thức đầu tư quốc tế.
1
I. Tổng quan về đầu tư quốc tế:
1. Khái niệm:
Đầu tư quốc tế là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý,…
từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận cao trên
phạm vi toàn cầu.
Vốn di chuyển giữa các quốc gia có thể là tiền mặt, các dạng tài sản (nguyên
vật liệu, máy móc thiết bị, mặt bằng sản xuất, nhà xưởng) giá trị của bản quyền sở
hữu trí tuệ, bí quyết, bản quyền thương hiệu…
Các dự án đầu tư thường là dự án công nghiệp, dịch vụ, kinh doanh thương
mại
Các bên tham gia vào đầu tư quốc tế gồm ít nhất là hai bên có quốc tịch khác
nhau. Các bên tham gia có thể thu được lợi ích về kinh tế, chính trị, xã hội trong đó
đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại lợi ích kinh tế lớn nhất.
2. Tác động của đầu tư quốc tế tới các Bên liên quan:
a) Đối với nước nhận đầu tư:
- Tác động tích cực:
 Nước nhận đầu tư sẽ được tiếp thu vốn và công nghệ, kinh nghiệm từ nhà
đầu tư.
 Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước.
 Có cơ hội đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, hoàn thiện hệ thống luật
pháp và chính sách.


 Giải quyết được những khó khăn do bội chi ngân sách, thâm hụt cán cân
thanh toán, giải quyết được các vấn đề xã hội như việc làm, mức sống người dân.
 Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
 Tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách chính phủ đặc biệt là nguồn thu từ
thuế.
- Tác động tiêu cực:
 Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các nước tiếp nhận đầu tư do không chọn
lọc dự án đầu tư, trình độ và chính sách quản lý dự án kém sẽ dẫn đến tình hình
nghiêm trọng.
2
 Các nhà đầu tư trong nước sẽ phải chịu thua thiệt cả về quyền lợi do hạn chế
về chuyên môn và vốn lẫn khả năng quản lý, do đó dự án đạt được hiệu quả xã hội
không cao.
 Gia tăng gánh nặng nợ nước ngoài cho chính phủ trong trường hợp là vốn
vay ODA, nhất là khi hiệu quả sử dụng vốn thấp.
 Tình trạng chảy máu chất xám diễn ra ngày càng nghiêm trọng nếu không có
chính sách cụ thể do nguồn nhân lực trình độ cao trong nước sẽ hoạt động trong các
dự án có vốn đầu tư nước ngoài nên việc đào tạo để phát triển doanh nghiệp trong
nước gặp khó khăn.
b) Đối với nước đi đầu tư:
- Tác động tích cực:
 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và công nghệ khi có thể khai thác tối đa
nguồn vốn và công nghệ này tại các nước nhận đầu tư, khi đầu tư, nước đầu tư có thể
giảm chi phí xuất khẩu tới thị trường nước đầu tư, tận dụng được lợi thế của nước
nhận đầu tư.
 Mở rộng thị trường do khi xuất khẩu có thể gặp những rào cản của nước tiếp
nhận đầu tư nhưng khi xuất khẩu thông qua đầu tư trực tiếp lại không gặp phải trở
ngại này ngoài ra còn được hưởng những ưu đãi từ nước tiếp nhận đầu tư.
 Nước đầu tư có cơ hội quảng bá thương hiệu cũng như sản phẩm của nước
mình tại nước nhận đầu tư.

 Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh
tại thị trường nước nhận đầu tư do có được ưu đãi từ phía nước này.
 Ngoài những lợi ích trên, đầu tư nước ngoài còn tạo nguồn thu cho ngân
sách nhà nước thông qua thuế thu nhập, thuế đầu tư…
- Tác động tiêu cực:
 Đầu tư ra nước ngoài làm giảm nguồn vốn đầu tư trong nước, tăng tỷ lệ thất
nghiệp nội địa, không đạt mục đích hiệu quả xã hội.
 Việc chảy máu chất xám cũng xảy ra do nguồn nhân lực chất lượng cao di
chuyển sang nước nhận đầu tư.
 Các doanh nghiệp đầu tư sẽ đối mặt với rủi ro lớn tại nước tiếp nhận đầu tư
do hệ thống luật pháp chính sách khác nhau và các rủi ro về đạo đức…
3
II. Các hình thức đầu tư quốc tế.
Đầu tư quốc tế bao gồm hai hình thức cơ bản: đầu tư nước ngoài gián tiếp và
đầu tư trực tiếp.
1. Đầu tư trực tiếp (FDI)
Hình thức FDI không chỉ có sự lưu chuyển vốn mà còn thường đi kèm theo
công nghệ, kiến thức kinh doanh và gắn với mạng lưới phân phối rộng lớn trên phạm
vi toàn cầu. Vì thế, đối với các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển thì
hình thức đầu tư này tỏ ra có nhiều ưu thế hơn.
- FDI được thực hiện theo hai kênh chủ yếu: đầu tư mới (Greenfield
investment – GI) và mua lại và sáp nhập ( M&A).
+ Đầu tư mới: các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài thông qua việc xây
dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và cũng là
kênh chủ yếu để các nhà đầu tư ở các nước phát triển vào đầu tư vào vào các nước
đang phát triển
+ M&A: các chủ đầu tư tiến hành đầu tư thông qua việc mua lại và sát nhập các
doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Kênh đầu tư này chủ yếu được thực hiện ở các
nước phát triển, các nước mới công nghiệp hóa và rất phổ biến trong những năm gần
đây.

- Xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân làm các loại: đầu tư theo chiều
ngang (horizontal integration – HI) và đầu tư theo chiều dọc (vertical integration-VI).
+ Hình thức đầu tư HI: chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh (công nghệ, kỹ năng
quản lý…) trong sản xuất một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này, họ có thế kiếm
lợi nhuận cao khi chuyển sản xuất sản phẩm ra nước ngoài. Mục đích của hình thức
này là mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài đối với cùng loại sản phẩm có lợi
thế cạnh tranh ở nước ngoài, do đó thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền. Hình thức
này được thực hiện chủ yếu ở các nước phát triển.
+ Hình thức đầu tư VI là hình thức đầu tư nước ngoài với mục đích khai thác
nguồn nguyên liệu tự nhiên và các yếu tố sản xuất đầu vào rẻ (lao động, đất đai…).
4
Khi đầu tư ra nước ngoài, các chủ đầu tư thường chú ý đến khai thác các lợi thế cạnh
tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân
công lao động quốc tế. Hình thức này được thực hiện khá phổ biến ở các nước đang
phát triển.
- Xét về tính chất sở hữu, hình thức FDI bao gồm:
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý
và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Hình thức này có các đặc trưng: dạng
công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà;
sở hữu hoàn toàn của nước ngoài; chủ đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh.
+ Doanh nghiệp liên doanh là hình thức các xí nghiệp hay công ty liên doanh
được thành lập giữa một bên là một thành viên của nước nhận đầu tư và một bên là
các chủ đầu tư ở nước khác tham gia. Một doanh nghiệp liên doanh có thể gồm hai
hoặc nhiều bên tham gia liên doanh.
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh là một văn bản được ký kết giữa một chủ đầu
tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước (nước nhận đầu tư) để tiến hành một hay
nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách
nhiệm và phân phối kết quả hoạt động kinh doanh mà không thành lập công ty, xí

nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp nhân mới nào. Hình thức này có đặc điểm:
Cả hai bên cùng hợp tác kinh doanh trên cơ sở văn bản hợp đồng đã ký kết giữa các
bên về sự phân định trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ; Không thành lập một pháp
nhân mới, tức không cho ra đời một công ty mới; Thời hạn của hợp đồng hợp tác
kinh doanh do hai bên thỏa thuận, phù hợp với tính chất hoạt động kinh doanh và sự
cần thiết để hoàn thành mục tiêu của hợp đồng.
Ngoài ra còn có các hình thức khác như: Đầu tư vào các khu chế xuất, khu
phát triển kinh tế, thực hiện những hợp đồng xây dựng- vận hành- chuyển giao
(BOT). Những dự án BOT thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi
điều kiện thuận lợi để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng.
2. Đầu tư nước ngoài gián tiếp:
5
+ Quỹ vốn đầu tư mạo hiểm: cung cấp vốn cho các nhà đầu tư để đầu tư vào
những nơi thị trường mới nổi hoặc sản phẩm mới có độ mạo hiểm cao nhưng hữa hẹn
thu lợi nhuận lơn
+ Quỹ đầu tư cổ phần quốc tế: cung cấp vốn cho các nhà đầu tư vừa và nhỏ
đầu tư ra nước ngoài
+ Biên lai người gửi của Mỹ hoặc quốc tế: ngân hàng thương mại của Mỹ phát
hành giấy chứng nhận quyền sở hữu cho các công ty chứng khoán không phải của
Mỹ với các ngân hàng có nghiệp vụ vãng lai ở nước ngoài.
+ Trái khoán chuyển đổi hoặc có bảo đảm bằng cổ phiếu: cho phép người cầm
trái khoán có thể đổi ra cổ phiếu của công ty phát hành bất kỳ lúc nào. Loại có bảo
đảm là cho phép người cần trái khoán có quyền mua cổ phiếu của công ty phát hành
với mức giá cụ thể cố định trong khoản thời gian nhất định.
Chương 2: Quản lý đầu tư nước ngoài của nước chủ nhà.
Quyền kiểm soát của nước chủ nhà
6
Nước chủ nhà có quyền kiểm soát không giới hạn đối với dầu tư nước ngoài,
để bảo vệ chủ quyền. Nhà nước có thể loại trừ quyền đầu tư của bất cứ quốc gia nào.
Một số điều ước quốc tế và song phương đem lại quyền lợi cho nước đầu tư – ví dụ

như việc nước chủ nhà từ chối nhập cảnh cho nhà đầu tư từ các quốc gia khác sẽ dẫn
đến hành vi vi phạm về điều ước quốc tế, trừ khi sự đầu tư đó là đầu tư không được
bảo hiểm.
Điều ước quốc tế cho phép quyền nhập cảnh và quyền đối xử quốc gia sau khi
nhập cảnh cho công dân của các quốc gia ký kết hợp đồng với nhau. Vậy, cần giả
định rằng các quốc gia không bị ảnh hưởng bởi luật pháp và điều ước quốc tế, thì
thực tế nước chủ nhà có quyền tuyệt đối với việc kiểm soát nhập cảnh, và có thể
thành lập và điều tiết toàn bộ quá trình đầu tư nước ngoài. Khi một nhà đầu tư nước
ngoài vào đầu tư tại nước khác – thì cả anh ta và tải sản của anh ta đều sẽ phải tuân
theo luật pháp của nước chủ nhà, điều này bắt buộc từ thực tế rằng các nhà đầu tư
nước ngoài ‘tự nguyện giao mình’ cho chế độ của nhà nước chủ nhà, kể từ khi tham
gia nhập cảnh vào nước họ. Quyền của nhà nước chủ nhà không giới hạn trong việc
kiểm soát nhập cảnh đối với người nước ngoài được quy định theo luật như sau:
- Một trong các quyền thuộc quyền lực tối cao ở mỗi tiểu bang là quyền từ chối cho
người nước ngoài xâm nhập vào khu vực vùng lãnh thổ; nhà nước hoàn toàn được
cho phép nhập cảnh hoặc trục xuất – trong khi xem xét sự hiện diện của nhà đầu tư
trái với trật tự, hòa bình, hoặc lợi ích xã hội hoặc tài nguyên thiên nhiên dự thảo Bộ
luật ứng xử Tổng công ty xuyên quốc gia nêu một đề xuất tương tự trong các điều
khoản sau: Quốc gia có quyền điều chỉnh sự thành lập của các tập đoàn xuyên quốc
gia – bao gồm: xác định vai trò của các tập đoàn đó, vị trí của họ trong phát triển
kinh tế xã hội, và cấm hoặc hạn chế về mức độ hiện diện của họ trong các lĩnh vực cụ
thể:
Người nước ngoài có thể bị hạn chế về quyền lợi nhưng có thể hưởng lợi bằng
cách thông qua các công ty địa phương. Quy tắc dựa trên ý tưởng rằng không nên có
hạn chế dòng chẩy của vốn đầu tư ra nước ngoài theo luật Thương mại và Luật cạnh
tranh năm 1988, trong đó cho phép Tổng thống ngăn chặn dòng vốn đầu tư đe dọa an
ninh quốc gia.
Trên cơ sở kiểm soát nhập cảnh - nước chủ nhà kiểm soát vốn đầu tư vào bằng bộ
máy pháp luật, kiểm soát dòng vốn chẩy vào từ đâu, quy hoạch và kiểm soát về môi
7

trường đầu tư và các vẫn đề khác, cũng có thể điều chỉnh các mục nhập của đầu tư
nước ngoài. Ngược lại để hấp dẫn đầu tư, nhà nước có thể đưa ra các ưu đãi hoặc các
lời hứa đơn phương hay cam kết danh dự về nghĩa vụ .Luật kiểm soát đầu tư nước
ngoài ngày càng gia tăng, khi Hoa kỳ từ một nước xuất khẩu vốn thành nơi dòng vốn
đầu tư đổ vào. Việc di chuyển vốn đầu tư nhanh cũng có thể coi là một phong trào
phá hoại nên kinh tế các quốc gia khác; đi sau sự di chuyển đột ngột của dòng vốn là
khủng hoảng kinh tế và mất ổn định. Sự mâu thuẫn ở đây là các quốc gia muốn thu
hút đầu tư từ nước ngoài, mặt khác lại có nhu cầu kiểm soát cao dòng vốn này – điều
này chỉ có thể được cân bằng thông qua luật về đầu tư. Ví dụ Đạo luật Exon-Florio
tại Hoa Kỳ đã coi sự phát triển của các quỹ đầu tư quốc tế là các mục đích chính trị
đằng sau – và có thể ảnh hưởng mạnh đến mục tiêu chiến lược và an ninh quốc gia.
Hiện luật chống độc quyền, chứng khoán, pháp luật và các cơ chế quản lý chính là
công cụ chính để kiểm soát dòng vốn. Tại Cộng đồng châu Âu – đã thông qua việc sử
dụng luật cạnh tranh để đảm bảo rằng các tập đoàn lớn nước ngoài đa quốc gia không
xé nhỏ hay sáp nhập để tìm cách kiếm tiền đầu tư.Trong các quốc gia phát triển, cũng
có một cơ thể tương tự của pháp luật để kiểm soát dòng vốn vào đầu tư.Các quốc gia
Xã hội chủ nghĩa, như Trung Quốc, Việt Nam và Cuba, cũng bắt hoàn thiện luật để
tăng của đầu tư nước ngoài – với hi vọng thu hút nhiều vốn và công nghệ cần thiết –
nhưng vẫn đảm bảo chống lại các rủi ro tiềm tăng.Nước chủ nhà tăng quyền của
mình bằng các đưa ra các quy định - ví dụ như chỉ chấp nhận đầu tư khi thành lập
liên doanh - thành công ty cổ phần với tỷ trọng cổ phẩn, hoặc liên doanh với đơn vị
do nhà nước chỉ định. Đi kèm với đó là việc nước chủ nhà muốn nội địa hóa quá
trình dầu tư nước ngoài – sử dụng các chính sách để đánh bại khả năng của nhà đầu
tư.
Có 3 nội dung quan trọng nhất là các quy tắc của nhà nước chịu trách nhiệm trước
tổn thất của nhà đầu tư, quyền về tiêu chuẩn tối thiểu của đầu tư quốc tế, và các hình
thức gắn với phát triển quyền con người, ví dụ như việc nhà nước tuyên bố bảo vệ
doanh nhân nước ngoài và tài sản của họ trong tình trạng bất ổn dân sự.
Việc thực hiện quản lý sẽ theo một số chuẩn tối thiểu nhất định được luật pháp quốc
tế chấp nhận – bảo vệ việc chống lại sử dụng quyền lực một cách tùy tiền của các cơ

quan hành chính trong thương mại và đầu tư. Các phán quyết tòa án và trọng tài phải
được công nhận như biểu trưng của việc minh bạch và công bằng.
8
Thực ra các quy tắc về tỷ lệ nội địa hóa có thể vi phạm nguyên tắc tự do thương mại
– Trims. Mặc khác, một số biện pháp nghiên cứu tác hại của đầu tư lên môi trường
cần phải kiểm soát tốt.
Trên thực tế là không có một nền kinh tế nào hoàn toàn mở về cấu trúc thị
trường. Trong bối cảnh kinh tế mới, các định luật về kinh tế cần liên tục bổ sung và
xem xét lại, ví như cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Á và Mỹ Latinh giai đoạn 2008
đã làm sứt mẻ tương đối nền tảng của tự do đầu tư. Việc đầu tư nước ngoài không
còn được thực hiện chỉ trên cơ sở một hợp đồng đầu tư như trong quá khứ, mà đã
phải có cả một chết độ hành chính để bảo vệ quyền lợi nước chủ nhà khi nhận đầu
tư: pháp luật công cộng, các quy trình cần được phân tích, giấy phép đầu tư, các biện
pháp vô hiệu hóa các mục tiêu đầu tư nước ngoài, hủy bỏ giấy phép. Điều quan trọng
là để hiểu được bản chất của các điều luật nào đã được xác lập lập thì các thay đổi đã
được đưa về như là một kết quả của sự tổ chức lại các biện pháp hành chính, ảnh
hưởng đến khiếu nại và tranh luận đã được thực hiện về các quy tắc của pháp luật
nước ngoài về đầu tư trong quá khứ.
Các nhà đầu tư nước ngoài phải có ý thức tuân theo các yêu cầu pháp lý theo quy
định của các quy định và chấp nhận các điều kiện đầu tư . Trong những trường hợp
này, sự can thiệp hành chính nhà nước trên cơ sở đó nhà đầu tư nước ngoài phải tuân
thủ các điều kiện nhập cảnh, và các thỏa thuận đã được thực hiện. Tương tự, nhà
nước có thể không tùy tiện can thiệp vào đầu tư bằng cách hủy bỏ một giấy phép mà
nhà nước đã ban hành mà không cần cung cấp đầy đủ lý do.
1.Quy định về sự gia nhập
Quản lý đầu tư nước ngoài bị ảnh hưởng thông qua luật nhập cư. Không có
các quy định cụ thể kiểm soát dòng vào của đầu tư nước ngoài. Trong thời gian chiến
tranh, có sự quản lý kinh doanh của kẻ địch và hạn chế thông qua đánh thuế khi buôn
bán với kẻ thù và dịch chuyển kinh doanh của người nước ngoài trong phạm vi quốc
gia. Nhưng những biện pháp này ít khi được tiếp tục trong thời gian hòa bình.

Trong thời gian gần đây, có sự dịch chuyển nhanh chóng với quy định của luật
đầu tư quốc tế trên phạm vi toàn cầu. Tại các nước phát triển, chủ nghĩa dân tộc và
chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng hạn chế đầu tư nước ngoài. Các chính sách được duy
trì không giống nhau. Kinh nghiệm của Canada là một bài học. Báo cáo về hoạt
động đầu tư nước ngoài được ban hành đã chỉ ra sự thống trị của các tập đoàn đa
9
quốc gia tại nền kinh tế Canada. Tuy nhiên hiệp định thương mại tự do giữa Canada
và Mỹ đã vô hiệu hóa giả thiết rằng Luật pháp dựa trên cơ sở tự do hóa dòng vốn đầu
tư nước ngoài giữa hai quốc gia. Canada đã ban hành đạo luật mới trên cơ sở hiệp
ước nhưng việc quản lý đầu tư của Mỹ vẫn giữ nguyên. Hiệp định thương mại tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) dựa trên quá trình đó. Tuy nhiên Canada là một trong những nước
rút lui sớm nhất thỏa thuận về hiệp định đa phương về bảo trợ đầu tư của OECD
trong dân chúng trong khi các nước khác mở cửa cho đầu tư.
Chủ nghĩa dân tộc cảm tính đóng vai trò quan trọng trong luật đầu tư nước
ngoài của Úc. Tại châu Âu, những lo ngại về sự thống trị nền kinh tế của các tập
đoàn đa quốc gia bố trí sự đối phó với pháp luật gián tiếp. Mặc dù Mỹ ủng hộ quan
điểm thị trường tự do nhưng cũng không cho phép một số hình thức đầu tư vào lãnh
thổ nước Mỹ. Các bộ luật chống độc quyền được áp dụng để ngăn chặn sự thống trị
của các doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập vào thị trường Mỹ. Mỹ đã thông qua
luật pháp để cấm đầu tư nước ngoài không nhất quán đối với an ninh quốc gia của
Mỹ. Tuy nhiên các biện pháp này cũng có tác động giống nhau tại các nước đang
phát triển.
Một số nước đang phát triển và các nước Đông Âu trước đây đi theo chủ
nghĩa cộng sản đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các nước này
đang xây dựng quy định về đầu tư nước ngoài. Tư tưởng thịnh hành trong những năm
80 cho rằng đầu tư nước ngoài của các tập đoàn đa quốc gia có lợi cho sự phát triển
kinh tế của nước chủ nhà. Nhưng đến những năm 90, khi thế giới đuổi kịp xu hướng
tự do hóa kinh tế. Tư tưởng thịnh hành là một trong những lý do của tự do hóa và tư
hữu hóa.
Các bộ luật được ban hành từ những năm 1980 đã bắt đầu được sửa đổi nhưng

không phải là toàn bộ ủng hộ quan điểm tự do hóa do còn tồn tại một số mâu thuẫn
trong luật đầu tư nước ngoài mới. Một mặt, các bộ luật đó được ban hành có cam kết
liên quan đến vấn đề chuyển lợi nhuận về nước và chống lại việc quốc hữu hóa tài
sản của nhà đầu tư mà không thanh toán về bồi thường. Các bộ luật đó còn bao gồm
thuế và các khoản khuyến khích khác với mục đích thu hút nhà đầu tư. Mặt khác,
những bộ luật đó còn bao gồm các chính sách để bảo vệ dòng vào của đầu tư nước
ngoài và cho phép đầu tư được xem là hấp dẫn. Chúng còn có các quy định khác để
tối đa hóa lợi ích mà đầu tư nước ngoài có thể mang lại cho sự phát triển của nền
10
kinh tế nước chủ nhà nhưng vẫn hạn chế hoạt động của nhà đầu tư tại nước chủ nhà.
Các phương pháp kỹ thuật được sử dụng cần phải được tách ra và được kiểm tra. Do
cuộc khủng hoảng liên tiếp nhau nên luật đầu tư cần thiết phải được sửa đổi. Điều đó
dẫn đến sự biến động của chính sách, Luật đầu tư của các quốc gia thay đổi theo từng
thời kỳ với các chính sách được ưu tiên khác nhau.
I.1. Cam kết chống lại sự tước đoạt quyền sở hữu
Luật đầu tư nước ngoài luôn bao gồm các cam kết chống lại sự tước đoạt
quyền sở hữu của đầu tư nước ngoài mà không thanh toán bồi thường. Các quốc gia
với lịch sử về tước đoạt quyền sở hữu có ý định đưa ra các cam kết như di chuyển bất
kỳ lo ngại về sự tước đoạt về quyền sở hữu mà nhà đầu tư có thể có dựa trên cơ sở
lịch sử. Các nước cộng sản trước đây và đang tồn tại bây giờ đã đặt ra các cam kết để
xua đi bất kỳ quan điểm nào về vấn đề các nước đó vẫn giữ khuynh hương tư tưởng
thiên về sự tước đoạt quyền sở hữu
Ví dụ Điiều 5 của Luật doanh nghiệp nước ngoài của Trung Quốc cung cấp
những cam kết rõ ràng: trong trường hợp tước đoạt quyền sở hữu, bồi thường thiệt
hại sẽ được trả đầy đủ. Những cam kết này nhằm xóa bỏ những lo ngại đe dọa đến
đầu tư. Những cam kết này được đưa ra tại các nước có rủi ro cao với hy vọng nhận
thức về rủi ro xuất hiện từ thời kỳ quốc hữu hóa trước đó sẽ bị mất tác dụng . Đối với
các nước có ít rủi ro này thì các cam kết được ban hành ít hơn.
Giá trị của các hiệp định đầu tư đơn phương đang được tranh luận trong một
số tài liệu.Theo đó có hai quan điểm đối lập nhau. Một mặt vấn đề thiết lập luật nội

bộ xuất hiện vấn đề cam kết được chính phủ đưa ra không thể thấy được trong thành
công của chính phủ đặc biệt nếu có một cuộc cách mạng thay đổi chính phủ. Sự
thay đổi chế độ đe dọa nghiêm trọng đến đầu tư nước ngoài. Nếu chính phủ mới đươc
thiết lập có hệ tư tưởng khác so với chính phủ cũ sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ bản tại
một quốc gia. Do đó những lời hứa của chính quyền cũ có thể không được thực hiện
với chính quyền mới. Những cam kết được lập ra sẽ không có giá trị và ý nghĩa đối
với việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Mặt khác, có quan điểm cho rằng mặc dù có sự thay đổi chế độ, các cam kết
không được nhượng bộ đối với nhà đầu tư nước ngoài được vận dụng hợp pháp.
Những cam kết liên quan đến các tranh chấp đang tăng nhanh từ thu hút đầu tư nước
ngoài bởi các cam kết đến tòa án giải quyết tranh chấp quốc tế hơn là tại các tòa án
11
giải quuyết tranh chấp tại quốc gia. Điều đó càng đặc biệt nếu các cam kết chống sự
tước đoạt tài sản tài sản kết hợp với lời hứa giải quyết tranh chấp tại tòa án nước
ngoài. Theo quan điểm đó, các cam kết đơn phương chống lại sự sung công ủng hộ
việc chuyển các tranh chấp về sự sung công của nhà đầu tư nước ngoài ra phạm vi
quốc tế. Điều đó bảo đảm thực tế rằng các cam kết được thiết lập tính đến cả hai vấn
đề xác định tính hợp pháp và định lượng được sự thiệt hại.
Tuy nhiên, đôi với bộ luật chặt chẽ, cam kết đơn phương chống lại sự sung
công mà không bồi thường đầy đủ không có tác động trừ khi cam kết về hiệp định
được ủng hộ và việc thi hành được thành lập bởi tòa án xét xử nước ngoài để đảm
bảo các cam kết. Hành động đơn phương của một quốc gia có những động cơ không
thấy được. Trường hợp động cơ không nhận thấy rõ bị đổ lỗi do hoạt động đơn
phương liên quan đến vấn đề quốc tế và thúc đẩy mong ước quản lý của nhà nước
trong khi đưa ra các tuyến bố đối với các quốc gia khác. Các cam kết đó hướng đến
các cá nhân hoặc doanh nghiệp như tập đoàn đa quốc gia không có tư cách pháp nhân
tại luật quốc tế, do đó các hiệp định không được thiết lập nếu thiếu tư cách pháp nhân
tại quốc tế. Các cam kết hoạt động dựa trên luật quốc gia chứ không phải luật quốc
tế.
Tuy nhiên hiện nay việc xuất khẩu tư bản của một quốc gia đã tham gia kế

hoạch bảo hiểm cho việc đầu tư nước ngoài của quốc gia và các hoạt động khác liên
quan đến đầu tư nước ngoài. Các cam kết hướng đến nước đi đầu tư và nhà đầu tư,
đặc biệt nếu kế hoạch được lập ra để phí bảo hiểm phải nộp tại nước chủ nhà bị giảm
đi bởi nước đi đầu tư do cam kết. Do vậy, nơi nào có các hiệp ước về đầu tư để bảo
vệ đầu tư , các cam kết đơn phương có thể có ý nghĩa quan trọng tại đó vi phạm có
thể dẫn đến vi phạm tiêu chuẩn hiệp định về bảo hộ. Nếu lập luận này là hợp lệ,
trường hợp này được tạo ra là nghĩa vụ của nước xuất xứ đầu tư của nhà đầu tư trong
trường hợp các cam kết không được thực hiện.
Cam kết đơn phương đã tạo ra kỳ vọng cho nhà đầu tư nước ngoài. Cam kết
tác động đến định giá của bồi thường mà nhà đầu tư bị thiệt hại do hành động trái
nược của chính phủ trong cam kết. Đó có thể là tranh luận về ủng hộ thanh toán toàn
bộ bồi thương thiệt hại cho nhà đầu tư bị dụ dỗ đầu tư vào quốc gia thông qua các
cam kết.
I.2. Cam kết liên quan đến giải quyết tranh chấp
12
Bảo đảm đơn phương liên quan đến giải quyết các tranh chấp tăng từ đầu tư
nước ngoài bởi tòa án trọng tài trung lập của nước ngoài có thể thấy được trong luật
pháp về đầu tư nước ngoài tại một số nước. Những bảo đảm này được đưa ra với hy
vọng rằng nó có thể thu hút nhiều hơn dòng vốn đầu tư nước ngoài nếu các phương
pháp tìm kiếm biện pháp cứu chữa mà sự can thiệp của chính phủ được thiết lập cho
các nhà đầu tư nước ngoài. Tranh chấp giữa quốc gia đưa ra cam kết và nhà đầu tư
nước ngoài có thể được đưa ra để xem xét bởi trọng tài phân xử tại toàn án trọng tài
nước ngoài theo đúng quy định. Lý thuyết về tòa án trọng tài được chấp nhận quyền
xét xử là cam kết về pháp luật bao gồm đề nghị làm trọng tài phân xử nơi mà các
nhà đầu tư nước ngoài chuyển đổi hiệp định đến trọng tài xét xử bởi các viện tố tụng
trước khi đưa ra tòa án.
Tuy nhiên hiến pháp nội bộ gặp nhiều khó khăn bởi các cam kết. Trong hệ
thống hiến pháp có đặc điểm phân chia quyền lực vẫn có nhiều vấn đề tranh cãi như
quyền quyết định tòa án qua tranh chấp tăng nhanh trong lãnh thổ của một quốc gia
có thể được chuyển giao đến tòa án quốc tế bởi cơ quan lập pháp trong tuyệt đối một

phiên tòa đặc biệt trong các tranh chấp tương lai. Thực tế cho thấy hệ thống tòa án
địa phương bị bỏ qua trong việc liên quan đến vấn đề quốc gia cũng sẽ gây ra vấn đề
chính trị. Nếu pháp luật bao gồm cam kết bảo đảm là vô hiệu trong luật pháp quốc
gia, nó sẽ khó nhận định rằng nó sẽ có ảnh hưởng đến mức độ quốc gia. Tuy nhiên,
các hiệp định hoạt động trên các mặt phẳng khác nhau và giao ước các hiệp định vẫn
tồn tại ở mức độ quốc tế thậm chí các bộ luật quốc gia mâu thuẫn với chúng.
1.3. Thuế và phi thuế khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Nhiều quốc gia cung cấp thời gian ưu đãi về thuế và nhiều khuyến khích đầu
tư nước ngoài để thu hút đầu tư vào lãnh thổ nước đó. Những khích lệ này luôn sẵn
có không chỉ đối với nhà đầu tư đồng ý với các danh mục cụ thể như những nhà đầu
tư mang công nghệ hoặc người đặt trụ sở chính của họ tại nước nhận đầu tư. Tất
nhiên luật quốc tế không ngăn cản cung cấp ưu đãi và các khuyến khích về thuế . Có
nhiều cuộc tranh luận lớn vì sự cần thiết của những khuyến khích trong việc thu hút
đầu tư nước ngoài.
13
Khuyến khích về thuế là một phương thức hữu ích bảo đảm rằng các nhà đầu
tư nước ngoài theo ước muốn của nước chủ nhà. Ví dụ khuyến khích về thuế có thể
được chấp thuận tại nơi được mua trang thiết bị mới để hiện đại hóa máy móc thiết
bị hoặc trong điều kiện một vài cổ phần đầu tư được chuyển giao đến kiều bào tại
nước chủ nhà. Theo cách đó, quốc gia có thể đạt được mục tiêu gián tiếp nhưng
ngược lại yêu cầu trực tiếp có thể mang lại ấn tượng của sự chống đối về đầu tư
nước ngoài.
Trợ cấp đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư nhưng không phải các nhà đầu tư đưa
ra vấn đề về phân biệt đối xử. Có thể không có phản đối về phân biệt dựa vào các yếu
tố kinh tế. Có thể có phản đối về đãi ngộ quốc gia cũng như đãi ngộ với các nước
được yêu thích. Nhưng cung cấp các yếu tố thỏa đáng cho sự đãi ngộ khác nhau như
sự cần thiết để thu hút các loại công nghệ hoặc hướng các nhà đầu tư nước ngoài vào
trong các kênh sản xuất có thể được đưa ra và sự phân biệt là hợp pháp.
Sự phân biệt giữa các nhà đầu tư nước ngoài có thể bị phản đối trong dân
chúng và nó bóp méo thương mại quốc tế. Một trong những mục đích của khuyến

khích về thuế và những sự nhượng bộ khác một phần từ thu hút mong muốn đầu tư,
nó che giấu thực tế rằng có những yêu cầu đánh thuế vào nhà đầu tư nước ngoài.
Những yêu cầu hoạt động cũng có thể bị phản đối trên cơ sở chúng có thể gây ra bóp
méo thương mại quốc tế. Khuyến khích về thuế bị phản đối do một số lý do kinh tế.
Nó vi phạm các điều khoản của hiếp định TRIMS và WTO. Giả sử rằng các khuyến
khích không kết hợp với các yếu cầu hoạt động, khuyến khích về thuế được chấp
nhận trong luật.
1.4. Kiểm tra sự gia nhập của đầu tư nước ngoài.
Ý tưởng về tự do gia nhập với mục đích thương mại được ủng hộ bởi các tác
giả thuộc thể chế cũ như Victoria và Vattel. Hiện nay ý tưởng về tự do hóa thương
mại giống với tổ chức WTO. Tự do hóa các dòng vốn đầu tư nước ngoài cũng có
chung mục tiêu. Trong thời gian gần đây, nhiều hiệp định đa phương và khu vực
được thiết lập cung cấp quyền của sự gia nhập và thiết lập đầu tư nước ngoài. Những
hiệp định mở rộng đãi ngộ quốc gia đến giai đoạn trước khi gia nhập nhưng các
quyền đó không được nhìn nhận như quyền lợi hoàn toàn, khi các bên tham gia hiệp
định tiếp tục thiết lập nhiều biện pháp hạn chế rộng rãi sự gia nhập của các khu vực.
14
Chúng còn miễn một vài đạo luật từ phạm vi hiệp định đầu tư thông qua việc sử dụng
công thức thích hợp.
Tuy nhiên, điều đầu tiên của cuộc thảo luận là vị trí của luật quốc tế mà quốc
gia trong việc thực hiện luật chủ quyền, có quyền từ chối sự gia nhập của bất kỳ nước
nào. Một quốc gia có thể thiết lập các tiêu chuẩn để cấm đầu tư nước ngoài vào vì nó
ảnh hưởng đến lợi ích của nước đó. Chức năng của việc thẩm tra sự gia nhập được
thực hiện thông qua các cơ quan hành chính. Các cơ quan hành chính có thể yêu cầu
thực hiện các nghiên cứu khả thi để đề xuất đầu tư nước ngoài và chỉ ra lợi ích tiền
năng của đầu tư đến nội tại nền kinh tế. Vì nhiều quốc gia cho phép dòng vào chỉ
thông qua liên doanh, và thành lập các nghiên cứu khả thi là lựa chọn ban đầu giữa
các bên liên doanh, yêu cầu dường như không nặng nề lắm. Tuy nhiên trong trường
hợp các giao dịch tư nhân, tranh chấp có thể gia tăng do thông tin chính xác được
cung cấp trong điều tra ban đầu. Không giống như các giao dịch tư nhân, thực tế rằng

tuyên bố về nghiên cứu khả thi có thể trình bày sai do nhiều nguyên nhân, ít nhất là
theo sự đánh giá của thẩm quyền chung được công bố cho phép đầu tư vào. Do lợi
ích của đầu tư nước ngoài được thiết lập để bảo vệ luồng vào có thể giảm xuống do
ngôn ngữ hợp pháp trình bày sai, khai báo sai bóp méo và gian lận. Trong luật nội bộ
sự bóp méo có thể biện hộ cho trở ngại với hiệp định đầu tư nước ngoài. Nó cũng
đánh giá sự kết thúc của đầu tư quốc tế dưới luật quốc tế có thể là câu hỏi thảo luận.
Tuy nhiên có sự gian lận có tính toán của một số của nhà đầu tư nước ngoài, sẽ
không có hành động sai nếu có sự kết thúc của đặc quyền mà bảo vệ không hợp pháp.
……
Nhiệm vụ đầu tiên của cơ quan hành chính là bảo đảm nhà đầu tư mang những
lợi ích hữu hình đến nước chủ nhà. Các cơ quan đã xem xét tác động của đầu tư nước
ngoài đến nước chủ nhà. Nó có nhiệm vụ đảm bảo rằng các doanh nghiệp trong nước
sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự gia nhập của các công ty có quyền lực vào trong lĩnh
vực công nghiệp. Một lần nữa câu hỏi về sự phân biệt chống lại doanh nghiệp nước
ngoài gia tăng nếu các biện pháp được đưa ra trước hoặc sau khi gia nhập. Tuy nhiên,
sự phân biệt có thể được xem xét xem có hợp pháp trừ khi có một hiệp định cam kết
cung cấp đãi ngộ quốc gia trong tưng trương hợp.
Có một vài lý do kinh tế cho việc loại trừ người nước ngoài từ các ngành công
nghiệp cụ thể. Tại các nước đang phát triển, loại trừ như vậy là hợp lý do việc đó sẽ
15
là tốt hơn nếu các ngành công nghiệp chủ chốt được nắm giữ bởi các doanh nhân
trong nước. Một lý do khác là sự gia nhập của một doanh nghiệp nước ngoài khổng
lồ có thể kiềm chế sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước hoặc tiêu diệt các
ngành công nghiệp non trẻ. Do đó, cần bảo đảm rằng, trong các ngành công nghiệp
công nghệ cao, doanh nghiệp địa phương không thể xử lý mà không có sự giúp đỡ
của các công ty đa quốc gia. Các quốc gia phát triển cũng có thể áp dụng một chính
sách cấm các nhà đầu tư nước ngoài trong một số ngành công nghiệp nhất định.
Ngành công nghiệp liên quan với việc sản xuất các thiết bị quân sự hiếm khi mở cửa
cho nước ngoài để đảm bảo an ninh quốc gia.
Một quốc gia có thể đặt ra các điều kiện với bất kỳ sự đi vào của bất kỳ nước

nào cũng như đưa ra các quy định đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nước phát
triển không được thiên về khuynh hướng ủng hộ quy tắc cho phép nước ngoài tiếp
cận không hạn chế và vô điều kiện đến lãnh thổ các nước đó. Tuy nhiên điều ước đầu
tư quốc tế song phương và khu vực và văn kiện WTO hoặc GATS sẽ thúc đẩy việc
thành lập sự gia nhập tự do của dòng vốn đầu tư nước ngoài trong một vài lĩnh vực.
GATS sẽ cho phép sự hiện diện thương mại trong phạm vi lãnh thổ của những thành
viên được phép có mặt trong những lĩnh vực đã được chỉ định bởi các nước thành
viên. Nguyên tắc chung mà các quốc gia có quyền loại trừ sự đi vào vẫn không bị ảnh
hưởng. Tuy nhiên, khi một nhà cung cấp dịch vụ có được sự gia nhập thông qua yêu
cầu thiết lập theo GATS, nó sẽ được bảo vệ bởi các điều ước đầu tư quốc tế nếu đủ
điều kiện như là một nhà đầu tư nước ngoài.
Quy tắc không phân biệt đối xử trên cơ sở chủng tộc được áp dụng sau nhà
đầu tư nước ngoài xâm nhập vào. Ngoại trừ trong trường hợp nơi mà sự phân biệt đối
xử rõ ràng là hướng vào một nhóm dân tộc thiểu số, phân biệt đối xử giữa các nhà
đầu tư hoặc các loại đầu tư không thể sai cam kết quốc tế. Trường hợp một quốc gia
lo ngại sự thống trị kinh tế của một quyền lực cụ thể và giới hạn sự nhập cảnh của
công dân của nước ngoài, câu hỏi có thể phát sinh cho dù đây là phân biệt chủng tộc.
Vấn đề đó sẽ gây ra các vi phạm quy tắc cơ bản, các quy định chống phân biệt chủng
tộc, nhưng quan điểm tốt hơn là phân biệt đối xử không có nghĩa là phân biệt chủng
tộc. Một điều khoản phân biệt đối xử dựa vào các yếu tố khách quan hoặc một
nguyên nhân hợp lý không thể được coi là vi phạm của các quy tắc phân biệt chủng
tộc.
16
1.5. Quy định về cộng tác với nước được đầu tư.
Mô hình các nước Đông Âu trước sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và tại một
số nước đang phát triển cho phép chỉ đầu tư nước ngoài nếu cộng tác, liên kết với các
doanh nghiệp của nước chủ nhà. Điều đó cho phép các nước chủ nghĩa xã hội nhìn
nhận lợi ích của đầu tư nước ngoài để kết hợp ý thực hệ về chủ nghĩa cộng sản với
sự cho phép đầu tư nước ngoài vào trong dân chúng mà kiểm soát cuối cùng thông
qua giữ nguyên đầu tư với nước đó. Sự hợp lý hóa về chính sách của quốc gia được

áp dụng thông qua sự có mặt của các doanh nghiệp trong nước được chỉ định để liên
doanh với nước ngoài. Chính sách cố chấp tại các nước đông Âu sau sự sụp đổ của
chủ nghĩa cộng sản và tiến tới nền kinh tế thị trường tự do. Mô hình trải rộng của
chủ nghĩa cộng sản tại một số nước châu Á tại đó vẫn giữ phương thức cơ bản thông
qua đầu tư nước ngoài được thành lập tại các nước đó. Tại các nước đang phát triển,
đầu tư nước ngoài thông qua hình thức liên doanh được ưa thích hơn. Chủ nghĩa dân
tộc đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tái cấu trúc được yêu thích hơn. Tại
Malaysia họ yêu cầu các công ty được cấu tạo theo đúng phương thức quy định là cổ
phần. Quy định mà các doanh nghiệp nước ngoài vào thông qua cổ phần hóa các
công ty đang hoạt động hoặc các công ty mới thành lập. Các chính sách quốc gia thay
vì chính sách kinh tế, đồng thời các vấn đề chính trị cũng được xem xét đóng vai trò
quan trọng trong việc xác định liên kết cấu trúc mà các doanh nghiệp được thiết lập
tại nhiều quốc gia. Tại một số nước phát triển, hình thức liên doanh giữa doanh
nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài không được quy định. Tuy nhiên,
hình thức liên doanh có thể được sử dụng do một số nguyên nhân như: sự cần thiết
do ít nguồn tài nguyên và công nghệ hoặc cần thiết phân tán rủi ro do thất bại của sự
liên doanh.
Các nhà đầu tư nước ngoài thích hình thức liên doanh tại các nước đang phát
triển do nó có thể phân tán rủi ro và mang lại cho nhà đầu tư tính minh bạch thấp hơn
và cung cấp cho các nhà đầu tư với các doanh nghiệp trong nước người sẽ là người
hòa giải hiệu quả tại chính phủ nước chủ nhà. Từ góc nhìn của sự bảo vệ đầu tư, yêu
cầu đầu tư vào được thiết lập thông qua liên doanh làm nổi bật vấn đề này. Vì các
công ty liên doanh được thành lập tại nước chủ nhà nên vấn đề về quốc tịch của công
ty và bảo vệ các cổ đông tăng mạnh. Vấn đề đó đứng trước tòa án xét xử quốc tế sẽ
tăng nhanh khi nước chủ nhà xem xét hình thức liên doanh là công ty của nước đó.
17
Một số nước chủ nhà cho phép đầu tư vào trong nước thông qua các doanh
nghiệp trong nước trong một số trường hợp: các tập đoàn đa quốc gia bắt đầu chuẩn
bị thiết lập các cam kết xuất khẩu toàn bộ hoặc phần lớn sản phẩm của công ty do đó
thu được lợi nhuận cho nước chủ nhà và tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động

trong nước. Hoặc trong trường hợp nhà đầu tư được chuẩn bị nằm tại các khu công
nghiệp lạc hậu và có thể giúp phát triển những vùng này. Trong những tình huống
trước, những khó khăn có thể tăng nhanh khi các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu
tư nhưng không thực hiện theo đúng cam kết. Trong những trường hợp đó, nước chủ
nhà có thể chấm dứt đầu tư nước ngoài. Khi đó, nước chủ nhà sẽ không sẵn lòng cho
phép doanh nghiệp bán sản phẩm tại thị trường nội địa mà nó có thể phục vụ các
ngành công nghiệp nội địa. Một lần nữa, câu hỏi về phân biệt giữa nước chủ nhà và
các nhà đầu tư lại được đưa ra. Với câu hỏi đó, sự phân biệt được quyết định dựa vào
nội bộ nền kinh tế. Việc đó có thể không hợp pháp nếu các hiệp định đầu tư đơn
phương được hoàn toàn xác nhận bởi các hiệp định quốc gia thậm chí là quyết định
trước giai đoạn đầu tư vào giữa nước chủ nhà và nước đi đầu tư hướng dẫn các hiệp
định quốc gia cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nếu thiếu các hiệp định này, sẽ không
có cơ sở về luật quốc tế khi thông báo vi phạm hiệp định quốc gia.
1.6. Quy định về cổ phần hóa
Các quốc gia có thể yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn nước
ngoài hoặc phần trăm nhất định. Khi dòng vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài chảy
vào, lãi suất trong nước được đảm bảo để ngăn chặn tăng vốn tại thị trường nước chủ
nhà. Nếu các nhà đâu tư được phép làm vậy, tiết kiệm trong nước có thể được sử
dụng tối đa cho các dự án phát triển trong nước sẽ bị hấp thụ trong việc đáp ứng lợi
ích của các nhà đầu tư nước ngoài. Thu hút nhà đầu tư trong nước đầu tư để chia sẻ
dự án với các tập đoàn nước ngoài lớn sẽ hướng tới các quỹ đầu tư mà có khả năng
tài chính cho doanh nghiệp trong nước hoặc dự án trong nước. Có nhiều lý do kinh tế
đánh giá sự phân biệt đối xử. Một trong những lý do dễ nhận thấy nhất đó là lợi ích
của đầu tư nước ngoài. Điều đó dẫn đến dòng vốn từ ngoài chảy vào các nước chủ
nhà – sẽ bị vô hiệu nếu nhà đầu tư gia tăng vốn tại các thị trường trong nước.
18
Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đồng ý yêu cầu cổ phần hóa và sau đó
không thực hiện theo quy định, quyền chấm dứt hoặc can thiệp với đầu tư nước ngoài
tại nước chủ nhà. Quyền này phát sinh như là một vấn đề của pháp luật nội bộ của
nhà nước chủ nhà. Việc thực hiện quyền này không thể theo tiêu chuẩn quốc tế. Các

tranh chấp kéo dài trong Amco và Indonesia liên quan đến vấn đề này. Trong trường
hợp đó, một trong những điều kiện mà các nhà đầu tư nước ngoài được phép tham
gia dự án tại Indonesia để xây dựng một khu du lịch khi liên doanh với một đối tác
Indonesia. Họ sẽ chuyển tiền vốn theo thỏa thuận từ nước ngoài vào nước này để cấp
vốn cho liên doanh. Theo luật, họ sẽ có được giấy chứng nhận từ Ngân hàng
Inđônêsia để cho thấy rằng đó vốn đã thực sự được chuyển vào trong nước. Ông ta đã
bị cáo buộc rằng ông ta đã không đưa vào vốn. Mặc dù nhà đầu tư nước ngoài tuyên
bố rằng ông đã làm như vậy, không có chứng nhận này có hiệu lực từ Ngân hàng In-
đô-nê-xi-a. Điều này đã được sử dụng như là một trong những căn cứ cho việc hủy
bỏ các thỏa thuận của cơ quan hành chính. Ban đầu tòa án ICSID phán quyết cho các
nhà đầu tư nước ngoài, nhưng sau phán quyết đã được vô hiệu hóa. Tòa án đã không
xem xét đầy đủ đến các vấn đề liên quan đến cổ phần hóa.
Một tòa án sau đó chỉ ra cho các nhà đầu tư nước ngoài là một thủ tục thích
hợp đã không được tuân thủ trong việc hủy bỏ các đặc quyền của nhà đầu tư nước
ngoài hoạt động trong nước khi quyết định hủy bỏ không dựa theo các tiêu chuẩn
theo đúng thủ tục. Các Tòa án phán quyết rằng đã có một sự từ chối công lý mà trách
nhiệm phát sinh. Các phán quyết đưa đến kết luận rằng, nếu các tiêu chuẩn tối thiểu
của thủ tục các biện pháp bảo vệ đã được trao cho các nhà đầu tư nước ngoài trước
khi quyết định đã được thực hiện, việc huỷ bỏ các đặc quyền sẽ hợp lý. Các vị trí của
Indonesia trong thách thức ban đầu của phán quyết đã được giải thích bởi Reisman
trong các điều khoản sau đây:
Indonesia dường như cảm thấy rằng nó đã thách thức các phán quyết bởi vì nếu một
quốc gia thiết lập một chương trình để kích thích đầu tư nước ngoài và các khoản trợ
cấp giấy phép trên cơ sở của chương trình đó, nhưng sự khác biệt nhiều như 16%
của các cam kết nước ngoài đầu tư quốc tế xác định là không thích hợp như chính
phủ nước chủ nhà chấm dứt giấy phép, quốc gia đó sẽ nhận thấy rằng nó là không thể
thực thi pháp luật riêng của mình.
19
Tình trạng này rõ ràng có ý nghĩa khi xem xét liệu một sự can thiệp quản lý có
thể dẫn đến tước đoạt quyền sở hữu. Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài không phù

hợp với điều kiện đã được áp đặt tại thời điểm gia nhập và đầu tư được chấm dứt như
là một mức xử phạt cho những thất bại, một lập luận rằng sự can thiệp để tước đoạt
quyền sở hữu có thể được duy trì. Sự thận trọng sẽ yêu cầu sự can thiệp đó được bởi
thủ tục biện pháp bảo vệ.
1.7. Quy định về bảo vệ môi trường
Nước chủ nhà và các cơ quan sẽ xem xét tác động của đầu tư nước ngoài đến
môi trường. Các tập đoàn đa quốc gia thường xuất khẩu công nghệ lỗi thời, lạc hậu
và không được sử dụng tại nước đi đầu tư và họ có thể cắt giảm chi phí tại các nước
đang phát triển do không cần các biện pháp bảo vệ môi trường, mà họ bắt buộc phải
sử dụng tại nước đi đầu tư.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của môi trường được yêu cầu trước khi cho phép
đầu tư nước ngoài vào. Sự cho phép đó sẽ bị từ chối nếu đầu tư có tác động xấu đến
môi trường. Tuy nhiên, tiêu chuẩn về môi trường tại các nước đang phát triển chưa
cao.
Tại các nước phát triển, ảnh hưởng do hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài
được chú trọng hơn. Các dự án đầu tư hoặc các cam kết sẽ bị từ chối, thậm chí sau
khi nó được bắt đầu nếu tác động xấu đến môi trường là không thể thay đổi được và
nó quan trọng hơn cả lợi nhuận của dự án đó. Ví dụ trong tranh chấp liên quan đến
khai thác cát tại đảo Fraser, chính phủ Ôstraylia chấm dứt nhượng bộ với tập đoàn
Mỹ khai thác cát trên hòn đảo này. Cát bao gồm bạch ngọc và rutile. Không có thị
trường cho nhưng khoáng chất này tại Úc. Nghiên cứu tác động đến môi trường đã
chỉ ra rằng khai thác cát ảnh hưởng to lớn đến môi trường. Chính phủ Úc đã từ chối
thông quan khi xuất khẩu các khoáng sản, do đó có hiệu lực chấm dứt các ưu đãi.
Tập đoàn Mỹ đã dành một khoản tiền lớn trong việc thiết lập các dự án. Mặc dù Hoa
Kỳ có sự nhượng bộ, can thiệp ngoại giao để phản đối việc hủy bỏ các nhượng bộ,
chính phủ Úc vẫn đứng trên lập trường của mình . Đó là sẵn sàng chấp nhận có tranh
chấp đệ trình lên Tòa án Công lý Quốc tế. Tòa án Tối cao của Úc đã giữ nguyên hiệu
lực của việc thực hiện của của chính phủ Úc.
Nhà nước có quyền hủy bỏ thỏa thuận đầu tư dự án gây ra ảnh hưởng
đáng kể môi trường. Đặc quyền này không những xuất phát từ chủ quyền của quốc

20
gia cho phép nhà nước để bảo vệ lãnh thổ của mình trước tác hại đến môi trường mà
còn từ thực tế rằng, trong luật pháp quốc tế hiện đại, nhà nước có trách nhiệm bảo vệ
môi trường vì lợi ích của nhân loại.
Sự phát triển tiến bộ của quyền có một môi trường trong sạch được coi là một
quyền con người và như là một tiêu chí kết hợp các giá trị cao hơn có thể dẫn đến sự
không linh hoạt trong quyền của nhà nước can thiệp để bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, quyền này phải được thực hiện trên cơ sở khách quan. Tuy nhiên, khi có một
cuộc tranh chấp giữa việc bảo vệ môi trường và bảo vệ đầu tư nước ngoài. Tòa án
trọng tài, thường nhấn mạnh các lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài hơn là vấn đề về
môi trường, có xu hướng quyết ủng hộ bảo vệ đầu tư.
Dựa vào các yếu tố khách quan, quyền của nhà nước để loại trừ đầu tư có thể
gây hại cho môi trường của nó là chính đáng. Tuy nhiên, đôi khi rất khó để xác định
liệu động cơ đằng sau sự can thiệp là quan tâm đến môi trường hay can thiệp là một
biện pháp bảo vệ được thiết lập để cấm người nước ngoài tham gia vào nền kinh tế.
1.8. Quy định về chiến lược xuất khẩu
Chiến lược phát triển của các nước đang phát triển đang chuyển từ sản xuất
trong nước như một cách để giảm nhập khẩu đến chiến lược kiếm thu nhập thông
qua xuất khẩu hàng hóa. Mô hình phát triển này được cung cấp bởi các quốc gia công
nghiệp hóa như Singapo, Hàn Quốc, Thái Lan và Hồng Kông nơi việc xuất khẩu dẫn
đầu tăng trưởng ngoạn mục của nền kinh tế của họ. Sự chuyển dịch trọng tâm từ
thay thế nhập khẩu tăng trưởng xuất khẩu đã làm cho các nước đang phát triển
chuyển sang đầu tư thông qua các tập đoàn đa quốc gia với hy vọng rằng họ sẽ sản
xuất và xuất khẩu các sản phẩm từ của họ quốc gia và do đó kiếm được ngoại hối. Để
thực hiện chiến lược này, chủ nhà đã có các biện pháp để hỗ trợ các tập đoàn đa quốc
gia chú trọng xuất khẩu bằng cách hỗ trợ các đặc quyền hoặc thông qua thuế và các
ưu đãi khác. Tại một số quốc gia, mục tiêu xuất khẩu là một điều kiện bắt buộc khi đi
vào quốc gia.
Hoa Kỳ đã liên tục phản đối hạn ngạch xuất khẩu trên cơ sở họ đưa ra các yêu
cầu thực hiện. Những chương trình của hiệp định đầu tư song phương cũng tìm kiếm

biện pháp để loại bỏ các yêu cầu như vậy. Nước này đã tìm cách loại bỏ các hạn chế
như vậy về đầu tư nước ngoài trong vòng đàm phán Uruguay của các cuộc đàm phán
của GATT. Nhận định về việc áp đặt các yêu cầu xuất khẩu là bóp méo thương mại
21
quốc tế. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS) ra đời cùng với
việc thành lập của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã đề yêu cầu thực hiện
nhưng không ảnh hưởng đến việc áp đặt các yêu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hiệp định
đầu tư của Mỹ, bao gồm các biện biện pháp cấm các yêu cầu thực hiện.
Không giống như các quốc gia có ý định về chính sách xuất khẩu hỗ trợ đầu tư
nước ngoài sẽ đồng ý phân chia với yêu cầu xuất khẩu. Áp dụng các yêu cầu này sẽ
gây ra xung đột giữa nhà nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư
nước ngoài khó có thể đáp các yêu cầu đã được đặt ra trong điều kiện hiện nay. Với
tình trạng suy thoái kinh tế ở các thị trường thế giới trong năm 2008 và các chính
sách bảo hộ chống lại việc nhập khẩu giá rẻ từ các nước đang phát triển đang được
thực hiện bởi các nước phát triển, sẽ gây khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu
xuất khẩu của nước chủ nhà.
Ngoài ra, các tập đoàn đa quốc gia thông qua một chính sách ngăn chặn cạnh
tranh trong số các công ty con của mình bằng cách tạo ra thị trường địa lý và ngăn
chặn xuất khẩu công ty con của họ vào lãnh thổ của nhau. Kết quả là, yêu cầu hạn
ngạch xuất khẩu khó có thể đáp ứng. Sự thất bại khi thực hiện như vậy sẽ thúc đẩy
xung đột giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nước chủ nhà. Xung đột như vậy sẽ
rất khó khăn để giải quyết. Nhà nước tìm các biện pháp để can thiệp hoặc chấm dứt
đầu tư nước ngoài trên cơ sở không thực hiện các điều khoản trên đã cấp cho nhà đầu
tư nước ngoài hoặc tìm cách áp đặt một số hình thức xử phạt khác. Mặt khác, các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ tìm kiếm các biện pháp khắc phục hậu quả theo hợp đồng và tin
tưởng vào trọng tài. Vì hầu hết Toà án dựa trên cơ sở các hợp đồng đã được thực
hiện chứ không phải là các điều kiện của pháp luật nào đối với đầu tư hơn các điều
khoản quy định trọng pháp luật của nước chủ nhà.
1.9.Quy định liên quan đến vốn chủ sở hữu của nước chủ nhà
Một vấn đề đang nổi lên từ pháp luật về đầu tư nước ngoài tại các nước đang

phát triển liên quan đến vốn chủ sở hữu của nước chủ nhà với sự tham gia đầu tư
nước ngoài.
Cơ cấu cổ phần được áp đặt đối với công ty cổ phần vì lý do chủ nghĩa dân
tộc. Vai trò của chủ nghĩa dân tộc trong việc định hình chính sách về đầu tư nước
ngoài được phản ánh trong cấu trúc của công ty được ủy quyền. Đầu tư nước ngoài
phải phù hợp với các cấu trúc này khi đầu tư vào một quốc gia, phù hợp với các
22
chính sách bắt buộc của nhà nước trong các tập đoàn nước ngoài cho đến nay. Thông
thường, pháp luật sẽ xác định tỷ lệ phần trăm cổ phần phải có được và chi tiết các
giai đoạn và các khung thời gian trong đó cắt bỏ được thực hiện.
Hạn chế vốn chủ sở hữu không chỉ được áp dụng trong quan điểm kinh tế mà
còn có các động cơ về chính trị và động cơ khác. Các yêu cầu vốn chủ sở hữu thông
qua công cụ kinh tế như điều ước quốc tế về đầu tư hoặc các công cụ WTO.
Xem xét về kinh tế có thể tạo ra liên hệ dựa trên thỏa thuận mà các nhà đầu tư
nước ngoài có thể không dễ dàng thu hồi, do đó ngăn chặn sự gián đoạn do việc di
dời của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ gây ra. Tuy nhiên, động cơ chính trị là một
nguyên nhân chính cho các yêu cầu như vậy. Những yêu cầu này nhằm đảm bảo rằng
đầu tư nước ngoài thống nhất với các chính sách quốc gia để thúc đẩy sự phát triển
của các quốc gia.
Xem xét về kinh tế cũng tồn tại khi cho rằng nước ngoài tham gia vào ngành
công nghiệp được thực hiện thông qua liên doanh. Điều này cho phép chuyển giao
hiệu quả hơn quản lý công nghệ đến các đối tác liên doanh tại nước chủ nhà và kết
quả là tối đa hóa lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài. Nó cũng sẽ đảm bảo rằng chính
sách của nhà nước được phản ánh tốt hơn khi chính sách được thực hiện.
Các yêu cầu liên quan đến vốn chủ sở hữu của chủ nhà vào các dự án đầu tư
nước ngoài mang lại lợi thế kinh tế cho nước chủ nhà. Nhưng trên thực tế là một tỷ
trọng nhỏ sẽ được chuyển ra nước ngoài, nó đảm bảo rằng nhà nước đã trực tiếp
hoặc gián tiếp kiểm soát các doanh nghiệp liên doanh.
Yêu cầu doanh nghiệp đầu tư phải hợp tác với doanh nghiệp tại nước chủ nhà
chỉ ra hình thức liên doanh được ưa thích. Công ty liên doanh đã trở thành hình thức

quan trọng nhất trong đầu tư nước ngoài trong thời gian gần đây trên toàn thế giới do
một số lý do sau:
- Theo quan điểm về đầu tư tại các nước đang phát triển, các quy định gia
nhập là lý do quan trọng nhất cho sự hình thành công ty liên doanh. Cả hai hình thức
liên doanh trong sản xuất và các lĩnh vực khoáng sản và sự chia sẻ sản xuất trong
lĩnh vực khoáng sản được thỏa thuận với mục đích tối đa hóa sự quản lý đầu tư của
nước chủ nhà. Tuy nhiên, trong tất cả các hợp đồng đầu tư nước ngoài trong thời gian
dài, cân bằng nội bộ giữa quốc tế hóa và nội địa hóa được đề cập trong quá trình
thương lượng trước dự thảo của thỏa thuận. Sự cân bằng tùy thuộc vào các yếu tố
23
khác nhau như biến động trong nhu cầu cho các sản phẩm, thay đổi chính trị trong
quốc gia và sức khỏe của nền kinh tế toàn cầu.
1.10.Các quy định khác
Một số yêu cầu khác mà có thể được tìm thấy trong pháp luật về đầu tư nước
ngoài của các quốc gia. Chúng có thể được giải thích như những nỗ lực tối đa hóa lợi
ích của đầu tư nước ngoài nền kinh tế của nước chủ nhà.
- Yêu cầu liên quan đến việc làm của người dân nước chủ nhà, đảm bảo rằng
nhận thức lợi ích của việc chuyển giao các kỹ năng lực lượng lao động nước chủ nhà.
- Yêu cầu cho phép nước chủ nhà nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sản
phẩm và thích ứng của sản phẩm trong thị trường trong nước.
- Yêu cầu việc chế biến khoáng sản sẽ diễn ra tại nước chủ nhà để nhiều hoạt
động liên quan đến ngành công nghiệp khoáng sản diễn ra trong nước và gia tăng giá
trị của sản phẩm xuất khẩu.
-Các yêu cầu như vậy cũng có thể được biện minh dựa trên các quyền chủ
quyền của nhà nước để điều chỉnh hoạt động kinh tế diễn ra trong phạm vi lãnh thổ
của mình.
Các chính sách được thông qua bởi các nước đang phát triển theo hướng đầu
tư nước ngoài, một số hình thức mới của đầu tư nước ngoài có sự linh hoạt để mang
lại hiệu quả đối với chính sách kinh tế và xã hội.
1.11.Quy định và sự tước đoạt quyền sở hữu

Đầu tư nước ngoài diễn ra trong khuôn khổ quy định của nước chủ nhà. Nếu
nhà đầu tư nước ngoài không đáp ứng được các yêu cầu của nước chủ nhà, nước chủ
nhà có chấm dứt việc đầu tư theo đúng quy định trong luật pháp của nước chủ nhà.
Tuy nhiên, vấn đề là liệu can thiệp như vậy có thể dẫn đến để tước quyền sở
hữu theo quy định của pháp luật quốc tế. Nếu nhà đầu tư nước ngoài được thừa nhận
theo điều kiện tuân theo luật pháp trong nước có thể dẫn đến sự tước đoạt quyền sở
hữu. Luật pháp quốc tế không quy định về vấn đề này ngoại t rừ trường hợp nhấn
mạnh trong quá trình trước khi can thiệp nhưng quy định trong các ràng buộc của
hiệp định
2. Các hình thức mới của đầu tư nước ngoài
Các hình thức mới của đầu tư nước ngoài là liên doanh và thỏa thuận chia sẻ
sản xuất. Các hình thức này được hỗ trợ bởi các thỏa thuận như hợp đồng quản lý
24
(mà là dựa trên phân tách quyền sở hữu và kiểm soát để quản lý kiểm soát một dự án
lại cho một số tiền cố định trong khi lợi nhuận của dự án cho nhà nước), thỏa thuận
chuyển giao công nghệ (nơi mà các công nghệ cần thiết cho dự án được cung cấp bởi
người nước ngoài) và các biện pháp thông qua đó Nhà nước có thể để đảm bảo kiểm
soát các dự án và chia sẻ lợi nhuận.
2.1. Liên doanh
Liên doanh là một thỏa thuận hợp tác giữa hai hoặc nhiều doanh nghiệp để đạt
được một mục tiêu cụ thể hoặc tham gia trong một dự án khác có thể là thành công
hơn
theo đuổi như là một kết quả của tổng hợp các nguồn lực hoặc công nghệ.
Hai hình thức liên doanh là:
+ Liên doanh hợp danh: không khác công ty theo pháp luật thông thường.
+Hợp tác liên doanh: các bên tham gia vào một thỏa thuận để kết hợp một
công ty thông qua đó họ sẽ thực hiện các mục tiêu kinh doanh.
Công ty liên doanh là một đóng góp của Mỹ để thương mại. Việc sử dụng của
nó trong kinh doanh quốc tế bây giờ là phổ biến. Trong các nước phát triển, các hình
thức liên doanh đã được được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp công nghệ

cao, và đặc biệt là trong các ngành công nghiệp như hàng không nơi các phạm vi
hợp tác kinh doanh quốc tế là rất lớn. HÌnh thức này đã trở nên phổ biến do sự xâm
nhập vào thị trường mới thông qua các doanh nghiệp tại nước chủ nhà dễ dàng hơn,
phân tán rủi ro và thông tin thị trường dễ dàng năm bắt được thông qua đối tác nước
chủ nhà.
Tại các nước đang phát triển, ngoài những lý do này, đầu tư nước ngoài chỉ
thực hiện được thông qua hình thức liên doanh với doanh nghiệp trong. Nếu ngành
công nghiệp được nắm giữ bởi doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài đầu
tư vào nước chủ nhà sẽ liên doanh với doanh nghiệp nhà nước. Điều này có lợi thế
cũng như bất lợi từ quan điểm của nhà đầu tư nước ngoài.
- Lợi thế: nhà đầu tư nước ngoài sẽ có thể chia sẻ lợi nhuận độc quyền; nhà
đầu tư sẽ có liên kết với nhà nước trong các vấn đề chẳng hạn như thông quan hải
quan, giấy phép xuất khẩu và các vấn đề hành chính khác tiến hành dễ dàng hơn
- Những khó khăn: nhà nước sẽ tìm thực hiện các mục tiêu của mình thông
qua công ty liên doanh và đảm bảo rằng các chính sách của nó được phản ánh trong
25

×