Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.8 KB, 19 trang )

Contents
Contents 1
LỜI MỞ ĐẦU 3
1.Cơ sở khách quan của cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc 3
2.Quá trình cải cách DNNN ở Trung Quốc 6
3.Kết luận 14
3.1.Kết quả và những vấn đề đặt ra :ếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc 14
3.2.Một số gợi ý về cải cách doanh nghiệp nhà nước đối với Việt Nam 17
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BÀI TẬP NHÓM
CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRUNG QUỐC
Nhóm: K20KTDN - VI
Thành viên: Phạm Huy Trung
Nguyễn Minh Tuấn
Trần Văn Sơn
Hà Nội, tháng 12 năm 2012

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình cải cách, mở cửa nền kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) ở Trung Quốc được coi là một khâu trọng tâm của cải cách thể chế nền
kinh tế. Cải cách DNNN đã trải qua quá trình khó khăn, phức tạp qua nhiều thăm
dò và thử nghiệm từ những bài học và kinh nghiệm thu lượm được. Không có một
mô hình sẵn có nào áp đặt cho những quốc gia như Trung Quốc và Việt Nam. Đây
là những nước đang trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường. Chúng ta phải tìm con đường cải cách riêng, dựa trên
điều kiện thực tiễn của chính mình.
Sau gần 3 thập kỷ, tiến trình cải cách DNNN Trung Quốc đã đạt được những thành
tựu đáng khích lệ. Các DNNN Trung Quốc đã chuyển hẳn từ những đơn vị sản
xuất đơn thuần sang những thực thể kinh tế độc lập thích ứng với sự phát triển của
kinh tế thị trường. Đặc biệt những năm gần đây, việc không ngừng xây dựng và


hoàn thiện môi trường kinh tế thị trường XHCN và cải cách đồng bộ thể chế kinh
tế vĩ mô của Nhà nước Trung Quốc đã tạo cơ sở cho các DNNN đi sâu cải cách.
Đến nay, hầu hết các DNNN đã có sự lớn mạnh trong cạnh tranh thị trường, thực
lực tổng thể của kinh tế nhà nước tăng cường mạnh mẽ, giữ được tốc độ phát triển
tương đối nhanh, phát huy tính chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Bên cạnh những thành tựu to lớn, cũng còn nhiều khó khăn, thách thức cả về mặt
lý luận và thực tiễn cải cách DNNN nảy sinh trong quá trình thực hiện nền kinh tế
thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc. Do vậy, cải cách DNNN vẫn
là khâu trọng tâm trong cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc trong thời gian tới.
1. Cơ sở khách quan của cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc
Thứ nhất, Trung Quốc trước đổi mới trong điều kiện điểm xuất phát thấp, nền
kinh tế lạc hậu, và là những nước nông nghiệp với trình độ kĩ thuật lạc hậu, còn
phụ thuộc vào “nền văn minh đòn gánh”, đời sống của nhân dân thuộc loại thấp,
những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như ăn, ở… vẫn chưa được giải quyết đầy
đủ; cơ sở công nghiệp yếu mỏng, mất cân đối, công nghiệp lạc hậu gây khó khăn
cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nơi sản sinh và nuôi dưỡng yếu tố bất
lợi cho việc hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Trong khi đó nông nghiệp
được coi là nghành chủ yếu nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng lạc hâu, trì trệ,
công cụ canh tác còn thô sơ, lạc hậu, năng suất thấp kém, sản lượng ít không đủ
đáp ứng nhu cầu trong nước. Mặt khác cơ chế kinh tế khi chưa đổi mới kìm hãm
nền kinh tế, nhiệt tình lao động, năng lực sáng tạo và nguồn lực tài nguyên chưa
được khai thác, huy động đầy đủ, thậm chí còn bị xói mòn. Cơ chế kinh tế vận
động thiếu năng lực, kém hiệu quả mất cân đối, nguy cơ bất ổn định tiềm tàng
trong đời sống. Kinh tế xã hội tích nén lại, tình trạng thiếu hụt kinh niên đang gia
tăng nhanh trong đời sống xã hội…
Thứ hai, Trung Quốc có ý thức hệ mong muốn thực hiện, xây dựng Chủ nghĩa xã
hội trên cơ sở kinh tế nghèo nàn lạc hậu, muốn bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa,
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian dài Trung Quốc theo đuổi mô hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung mà có nguồn gốc là mô hình kinh tế kế hoạch hoá
Xô Viết, mô hình đó đã lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng biểu hiện ở năng suất

sút kém ở mọi nghành, kinh tế lạc hậu về khoa học, kĩ thuật, đời sống nhân dân
thiếu thốn, nhưng vẫn luôn hi vọng, tin tưởng vào sự thắng lợi của Chủ nghĩa xã
hội. Trung Quốc cũng chịu tác động của văn hoá, lịch sử truyền thống dài hàng
nghìn năm phong kiến. Di sản nặng nề của tư tưởng phong kiến, quan liêu vẫn phát
huy và ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống xã hội ở Trung Quốc, đó chính là
nguyên nhân kìm hãm nước này trong tình trạng trì trệ, kém phát triển lâu dài.
Thứ ba, Trước cải cách 1978, theo quan niệm truyền thống, chủ nghĩa xã hội là
chế độ xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (dưới hai hình thức nhà
nước và tập thể; trong đó kinh tế nhà nước là hình thức cao, kinh tế tập thể là hình
thức thấp của chế độ công hữu, hình thức thấp phải quá độ sang hình thức cao).
Cũng theo quan niệm này, chế độ công hữu không chỉ xem xét là đồng nhất với
chủ nghĩa xã hội, mà còn không dung hợp với cơ chế thị trường; bỏi vậy chế độ
công hữu càng lớn, càng thuần nhất thị càng có nhiều chủ nghĩa xã hội, còn tư hữu
bị đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Những nhận thức sai lầm trên đã đẩy nền kinh
tế ở Trung Quốc đi đến trì trệ, tụt hậu
Thứ tư, là sự yếu kém về năng lực lãnh đạo, tổ chức và sự trì trệ trong phát triển
kinh tế xã hội đã làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, vào nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, bối cảnh quốc tế suốt thời kì đó có nhiếu yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh
tế Trung Quốc. Đáng kể nhất là việc Liên Xô và các nước Đông Âu đang trong quá
trình từ bỏ mô hình Chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết và chuyển sang nền kinh tế thị
trường. Đặc biệt lúc này kinh tế Nhật Bản và nền kinh tế công nghiệp mới NIEs
trong khu vực đã đạt được những thành tựu nổi bật và kinh nghiệm quý báu. Điều
đó thúc đẩy Trung Quốc phải đổi mới để theo kịp các nước. Đây cũng là lúc thế
giới đang đi đến đòi hỏi sự hợp tác phân công lao động của tất cả các nước, xu
hướng hợp tác hoá, quốc tế hoá ngày càng cao bất kể sự khác nhau về chính trị,
văn hoá. Đồng thời nguy cơ các thế lực Tư bản chủ nghĩa và phản động đang tìm
mọi cách phá hoại cách mạng, thực hiện âm mưu diến biến hoà bình để thay đổi,
xoá bỏ chế độ Chủ nghĩa xã hội.
2. Quá trình cải cách DNNN ở Trung Quốc

2.1. Quan điểm, mục tiêu và các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà
nước của Trung Quốc
Quan điểm cải cách doanh nghiệp nhà nước
Quan điểm của Trung Quốc về cải cách DNNN là hình thành được cơ chế kinh
doanh và thể chế quản lý phù hợp với nền kinh tế thị trường XHCN. Nhấn mạnh
tầm quan trọng của quá trình cải cách DNNN, Cựu Chủ tịch Trung Quốc Giang
Trạch Dân đã nói: “Chuyển đổi cơ chế kinh doanh của DNNN, đưa DN ra thị
trường, tăng sức sống của chúng, nâng cao tố chất của chúng là khâu trung tâm xây
dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN, là mấu chốt củng cố chế độ XHCN và phát
huy tính ưu việt của CNXH”
(1)
. Ở thời kỳ đầu thực hiện cải cách (từ 1978 - 1992),
DNNN đã có bước chuyển biến rõ rệt, nâng cao hiệu quả sản xuất, có sự lớn mạnh
trong cạnh tranh thị trường, góp phần làm cho thực lực tổng thể kinh tế nhà nước
tăng cường mạnh mẽ, có tác động lớn vào cải cách đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường XHCN ở Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc có bước đột phá về lý luận trong cải cách
DNNN. Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm đã thu được từ thực tiễn cải cách,
đặc biệt xuất phát từ những khó khăn mà cải cách gặp phải, Trung Quốc nêu lên
nhiều lý luận mới. Những đột phá mà Trung Quốc tạo dựng về mặt lý luận chủ yếu
gồm: Thứ nhất, lý luận về xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN mang màu sắc
Trung Quốc; Thứ hai, lý luận về chế độ sở hữu; Thứ ba, lý luận về chế độ DN hiện
đại. Nội dung cơ bản của lý luận cải cách DNNN Trung Quốc là tạo ra một hướng
đi thông suốt cho tiến trình cải cách DNNN ở Trung Quốc, trong đó lấy xây dựng
chế độ DN hiện đại làm trọng tâm, tăng cường sức sống và khả năng cạnh tranh
của khu vực kinh tế nhà nước làm mục đích cao nhất.
Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu: “kinh tế quốc hữu khống chế huyết
mạch của kinh tế quốc dân, có vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế”
(2)
.

Đồng thời, Đại hội cũng đưa ra chủ trương phát triển và cải cách DNNN là nắm
chắc những xí nghiệp lớn, nới lỏng những xí nghiệp nhỏ, thực hiện cải tổ mang
tính chiến lược đối với các xí nghiệp quốc hữu.
Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 11- 2002) tiếp tục khẳng định việc
củng cố và phát triển kinh tế quốc hữu. Trong văn kiện đã nêu rõ: “Phải kiên trì
không lay chuyển việc củng cố và phát triển kinh tế quốc hữu. Phát triển và làm
lớn mạnh kinh tế quốc hữu, kinh tế quốc hữu khống chế mạch máu của nền kinh tế
quốc dân, có vai trò then chốt trong việc phát huy tính ưu việt của chế độ XHCN,
tăng cường thực lực kinh tế, thực lực quốc phòng và sự gắn bó dân tộc của nước
ta”
(3)
. Như vậy, quan điểm của nhà nước Trung Quốc về cải cách DNNN là tập
trung điều chỉnh sự phân bố và kết cấu của kinh tế quốc hữu, cải cách thể chế quản
lý tài sản quốc hữu. Kiên trì lấy chế độ công hữu làm chủ thể, thúc đẩy kinh tế phi
công hữu phát triển. Xúc tiến cải cách các ngành độc quyền nhà nước, đưa vào cơ
chế cạnh tranh nhằm phát triển các công ty lớn, tập đoàn lớn có sức cạnh tranh
quốc tế.
Mục tiêu cải cách doanh nghiệp nhà nước
Mục tiêu cải cách DNNN của Trung Quốc là rất rõ ràng, yêu cầu xác định DN là
thực thể pháp nhân và chủ thể cạnh tranh thị trường có quyền kinh doanh độc lập,
tự chịu lỗ lãi, tự tích lũy, tự phát triển.
Trong thời kỳ đầu Trung Quốc triển khai thực hiện cải cách DNNN theo tinh thần
đó đã tạo ra giới hạn mới, tạo điều kiện cho DNNN phát huy vai trò của DN trong
điều kiện kinh tế thị trường XHCN. Đến hội nghị trung ương 3 Khóa XIV Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã đánh giá tổng kết quá trình cải cách DNNN và chỉ ra:
“tiếp tục đi sâu cải cách DN cần phải giải quyết mâu thuẫn nhiều tầng, tập trung
tiến hành đổi mới chế độ, từng bước xây dựng chế độ DN hiện đại với quyền tài
sản minh bạch, quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng, tách chính quyền với DN”
(4)
. Đại

hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc yêu cầu thực hiện sắp xếp toàn diện đối với
việc phát triển và cải cách DNNN. Đại hội chỉ ra “phải tuân theo yêu cầu cơ bản
của xây dựng chế độ DN hiện đại, thi hành cải cách chế độ công ty chuẩn mực đối
với DNNN loại hình vừa và lớn, khiến DN trở thành thực thể pháp nhân và chủ thể
cạnh tranh phù hợp với thị trường”
(5)
. Xây dựng DN hiện đại là mục tiêu, phương
hướng của cải cách DNNN Trung Quốc đáp ứng yêu cầu vận hành của thị trường,
lấy quan hệ quyền tài sản minh bạch, chế độ pháp nhân hoàn thiện, chức năng
chính quyền và DN tách bạch, cơ chế kinh doanh linh hoạt.
Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “ra sức đẩy mạnh sáng tạo
về thể chế, kỹ thuật và quản lý của DN. Căn cứ vào yêu cầu của chế độ DN hiện
đại, các DNNN quy mô lớn và vừa tiếp tục cải cách theo chế độ công ty chính quy,
hoàn thiện kết cấu do pháp nhân quản lý”
(6)
. Để cụ thể hoá tinh thần của Đại hội
XVI, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới, tại kỳ
họp thứ tư, Quốc hội Trung Quốc khoá X, tháng 3 - 2006, đã xác định nhiệm vụ
cải cách DNNN là: “Đẩy nhanh cải cách theo chế độ cổ phần đối với các DNNN
quy mô lớn. Tập trung hoàn thiện kết cấu quyền sở hữu tài sản, hoàn thiện bộ máy
quản lý và cơ chế điều hành công ty, nhanh chóng hình thành những tập đoàn kinh
tế, những công ty lớn có sức cạnh tranh quốc tế”
(7)
. Đặc biệt trong hệ thống tài
chính - ngân hàng, Trung Quốc chủ trương trong thời gian tới sẽ “kiên quyết đẩy
mạnh cải cách ngân hàng thương nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hoá. Nhà
nước phải tuyệt đối chi phối cổ phần, cải cách kết cấu quyền sở hữu tài sản, thu
nhận và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, đưa kết cấu quản lý
công ty vào quy củ, hoàn thiện cơ chế điều hành nội bộ và chế độ quản lý”
(8)

.
2.2. Tóm lược quá trình cải cách DNNN ở Trung Quốc
Cải cách DNNN ở Trung Quốc bắt đầu từ năm 1978, được chia làm 3 giai
đoạn.
Giai đoạn đầu tiên của cải cách là nỗ lực nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các
doanh nghiệp về cơ bản vẫn dựa trên khung thể chế của cơ chế kế hoạch hoá tập
chung. Mục tiêu chính của cải cách trong giai đoạn này là nhằm điều chỉnh mối
quan hệ Chính phủ doanh nghiệp theo hướng quản lí doanh nghiệp và các hoạt
động kinh doanh tự do hơn và nhằm lại động lực cho các nhà quản lí và người lãnh
đạo trong doanh nghiệp. Tháng 10 năm 1978, có 6 DNNN đầu tiên ở Tứ xuyên,
trong đó có Công ty Gang thép Trùng khánh được chọn để thực hiện thí điểm cải
cách. Ngay sau khi có việc thí điểm này, chính quyền và Thành uỷ tỉnh Tứ Xuyên
đã đưa ra 14 biện pháp chính sách nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các DNNN.
Các kinh nghiệm của tỉnh Tứ Xuyên về mở rộng quyền tự chủ cho các DNNN
được Uỷ ban Kinh tế Nhà nước, Bộ Tài chính và các cơ quan nhà nước khác áp
dụng thí điểm đối với 8 DNNN ở Bắc kinh, Thiên tân và Thượng hải vào tháng
5/1979, trong đó có Công ty Gang thép Thủ đô, nhằm tiếp tục thực hiện thí điểm
cải cách DNNN. Tháng 7/1979, Hội đồng Nhà nước ban hành “Một số quy định về
mở rộng quyền tự chủ trong quản lí ở các DNNN” nhằm mở rộng thí điểm trên
phạm vi toàn quốc. Cho đến tháng 6/1980, việc thí điểm mở rộng quyền tự chủ cho
các DNNN được áp dụng đối với 6600 DNNN quy mô lớn và vừa, các doanh
nghiệp này chiếm 14% tổng “ngân sách” trong các DNNN, 60% tổng giá trị sản
lượng công nghiệp và 70% tổng lợi nhuận công nghiệp[3].
Việc mở rộng quyền tự chủ cho các DNNN đã có một số tác động nhằm khuyến
khích các DNNN gia tăng sản lượng và lợi nhuận. Tuy nhiên do những hạn chế về
ngân sách mềm nên đầu vào cho các doanh nghiệp này cũng tăng rất nhanh, điều
này dẫn tới sự thâm hụt ngân sách và lạm phát. Để giải quyết vấn đề này, việc tiếp
tục thí điểm cơ chế phân chia lợi nhuận giữa nhà nước và doanh nghiệp (được gọi
là hệ thống trách nhiệm kinh tế) đã được thực hiện đối với một số DNNN trong
ngành công nghiệp. Tháng 11/1981 Hội đồng nhà nước đã phê chuẩn “Đề xuất

một số vấn đề trong việc thực hiện hệ thống trách nhiệm kinh tế”. Đến cuối năm
1981, hầu hết các DNNN công nghiệp đã áp dụng hệ thống này. Việc áp dụng cơ
chế này đã đưa đến tác động tức thời cho việc cải thiện tổng thu ngân sách. Và
cũng đến cuối năm 1981, tổng thu ngân sách đã vượt quá 2,8% so với kế hoạch đề
ra.
Tuy nhiên, cơ chế phân chia lợi nhuận dẫn đến định hướng lợi nhuận cục bộ ngắn
hạn ở các DNNN và điều đó dẫn tới sự gia tăng nhanh chóng sự mất kiểm soát về
mức lương trong các DNNN và tiếp theo là vấn đề lạm phát. Vào đầu năm 1983
Hội đồng nhà nước quyết định bãi bỏ cơ chế phân chia lợi nhuận và thực hiện cải
cách mới nhằm thay đổi toàn bộ cơ chế kiểm soát lợi nhuận cùa các DNNN sang
cơ chế thuế định mức. Tháng 4/1983, Hội đồng nhà nước đã thông qua báo cáo của
Bộ Tài chính về biện pháp cải cách này. Giai đoạn đầu của cải cách bắt đầu từ
6/1983 cho phép việc cùng tồn tại cả hai cơ chế cũ và mới. Giai đoạn tiếp theo của
cải cách bắt đầu từ 10/1984 đã hoàn chỉnh cơ chế thuế định mức mới.
Văn bản ”Các quy định tạm thời về việc mở rộng hơn nữa quyền tự chủ cho các
doanh nghiệp nhà nước” do Hội đồng Nhà nước ban hành tháng 5/1984 đã khẳng
định việc cho phép các DNNN có quyền tự chủ hơn. Theo văn bản này, quyền tự
chủ của các DNNN được thực hiện trong một số lĩnh vực sau: sản xuất và kế hoạch
hoá hoạt động của các doanh nghiệp, tiếp thị, định giá, mua các nguyên liệu đầu
vào, sử dụng các quỹ, bán tài sản, quyết định cơ cấu quản lí, tuyển dụng và sa thải
lao động, sử dụng quỹ lương và vấn đề hợp tác kinh doanh.
Theo cơ chế thuế mới bắt đầu được áp dụng từ năm 1983, Các DNNN phải trả thuế
lợi tức cao bằng 55% lợi nhuận chịu thuế. Cơ chế này tốt hơn so với cơ chế cũ, cơ
chế bắt buộc các DNNN nộp toàn bộ hoặc thường là một phần rất lớn lợi nhuận
của họ. Tuy nhiên, gánh nặng về thuế vẫn rất lớn, và vì vậy, không đủ mang lại
động lực cho các doanh nghiệp. Cũng tại thời điểm đó, do gánh nặng về thuế của
DNNN lớn hơn so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (ví dụ đối với các
doanh nghiệp hợp tác xã tỷ lệ thuế lợi tức là 30%) nên dẫn đến điều kiện cạnh
tranh không bình đẳng giữa DNNN và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(DNNQD). Năm 1986, khi chính sách thắt chặt kinh tế vĩ mô được thực hiện thì cả

lợi nhuận của các DNNN lẫn tổng thu ngân sách nhà nước đều bị giảm sút nghiêm
trọng.
Giai đoạn thứ hai của cải cách DNNN đó là thực hiện Hệ thống trách nhiệm của
doanh nghiệp (hay Hệ thống hợp đồng doanh nghiệp) bắt đầu từ năm 1986. Để
tăng thêm động lực cho các DNNN, tháng 12/1986 Hội đồng Nhà nước đã ban
hành “Một số quy định về việc đưa cải cách doanh nghiệp đi vào chiều sâu và việc
tăng thêm sức mạnh của các DNNN” nhằm khuyến khích việc chấp nhận nhiều
mức trong hệ thống trách nhiệm của doanh nghiệp (ERS) đối với các DNNN. Cho
đến tận cuối năm 1987, hệ thống ERS đã được áp dụng tại 78% số DNNN có
100% vốn ngân sách. Đến tháng 2/1988, Hội đồng Nhà nước ban hành “pháp lệnh
tạm thời về việc thực hiện hợp đồng hệ thống trách nhiệm trong các DNNN công
nghiệp” tổng kết hệ thống ERS có hai nội dung: nội dung thứ nhất là đưa quyền tự
chủ trong hoạt động của các doanh nghiệp có hiệu quả và bảo vệ các quyền hợp
pháp của các doanh nghiệp; thứ hai là đặt ra mục tiêu đóng thuế tối thiểu cho các
DNNN và đặt ra tỷ lệ cho việc phân chia mục tiêu lợi nhuận giữa nhà nước và
doanh nghiệp. Đối với các DNNN không thực hiện đủ mục tiêu lợi nhuận thì phải
trang trải các khoản thuế bằng chính các quỹ của mình. Đến cuối năm 1998, trên
90% các DNNN trong ngành thương mại và công nghiệp có 100% vốn nhà nước
đã áp dụng hệ thống ERS. Đối với các DNNN có quy mô vừa và lớn, tỷ lệ áp dụng
hệ thống này đạt trên 95%.
Hệ thống ERS là bước thay đổi thụt lùi so với hệ thống thuế định mức. Có tình
trạng đó là do trên thực tế mức thuế có thể thương lượng được, vì vậy nên không
ổn định và rõ ràng. Tuy nhiên trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, khi không có sự thay
đổi về cơ cấu sở hữu của các DNNN và ngân sách nhà nước phụ thuộc rất lớn vào
thuế lợi tức của các DNNN thì điều đó là không tránh khỏi. Chỉ sau một thời gian
ngắn áp dụng hệ thống ERS, xu hướng lợi nhuận của các DNNN giảm liên tục
trong 20 tháng trước đây đã chấm dứt, cả lợi nhuận lẫn ngân sách nhà nước đều
tăng. Tuy nhiên cùng với quá trình thị trường hoá và phát triển nhanh chóng của
khu vực ngoài quốc doanh thì những hạn chế của hệ thống ERS ngày càng thể hiện
rõ hơn:

Thứ nhất, các DNNN vẫn còn phụ thuộc vào nhà nước, chưa thực sự là doanh
nghiệp độc lập. Thứ hai, điều kiện hợp đồng phụ thuộc vào những thoả thuận giữa
từng doanh nghiệp và Chính phủ, điều đó dẫn tới điều kiện không bình đẳng trong
cạnh tranh trên thị trường giữa các doanh nghiệp. Thứ ba, thời hạn của hợp đồng
thường là 3-5 năm, trong thời gian này tình hình thực tế trong cung cầu thị trường
có thể có nhiều thay đổi làm cho mục tiêu ban đầu của hợp đồng trở nên không thể
thực hiện được. Vì vậy điều này đã khuyến khích việc thoả thuận lại hợp đồng và
tạo ra sự mềm dẻo về vấn đề hạn chế ngân sách. Thứ tư, để thực hiện hợp đồng
trong vài năm, các nhà quản lí doanh nghiệp thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận
trước mắt và bỏ qua đầu tư và phát triển dài hạn và họ có xu hướng khai thác quá
mức và làm hư hỏng các trang thiết bị của doanh nghiệp. Cuối cùng là các hợp
đồng cố định hạn chế việc hợp nhất, thôn tính và các hình thức khác trong cải cách
DNNN.
Trong khi phần lớn các DNNN được áp dụng hệ thống ERE vào cuối những năm
80 và đầu những năm 90, thì một số thí điểm với doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn
cũng được thực hiện ở một số vùng, ví dụ như việc áp dụng cơ chế bán cổ phần và
cho thuê hoặc bán các DNNN có quy mô nhỏ.
Giai đoạn thứ ba của Cải cách DNNN bắt đầu vào năm 1992, sau bài phát biểu
của Đặng Tiểu Bình trong chuyến đi ở các tỉnh phái nam Trung Quốc. Vào tháng
10/1992, Đại hội lần thứ 14 Đảng cộng sản Trung Quốc đã đưa ra mục tiêu mới đối
với cải cách kinh tế là nhằm thiết lập cơ chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu này chỉ ra thời hạn cuối cùng mà cơ chế mới và cơ chế cũ phải đoạn tuyệt
với nhau và việc bắt đầu giai đoạn mới cho việc hình thành cơ chế kinh tế thị
trường. Cải cách DNNN đi đến giai đoạn phân cấp quyền kiểm soát hành chính đối
với các DNNN và bắt đầu giai đoạn mới trong cải cách sở hữu trong các DNNN
quy mô nhỏ và việc thành lập hệ thống doanh nghiệp hiện đại đối với các DNNN
quy mô vừa và lớn.
Cải cách sở hữu đối với các DNNN quy mô nhỏ tạo ra một sự cải cách nhanh
chóng từ năm 1992. Theo một cuộc điều tra các doanh nghiệp tại 19 tỉnh vào cuối
năm 1999, có 75% các DNNN có quy mô nhỏ vừa áp dụng nhiều cơ chế mới bao

gồm cả việc bán cho tư nhân. Người ta hy vọng rằng hầu hết các DNNN quy mô
nhỏ sẽ được chuyển thành công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư
nhân,… trong một vài năm tới. Cùng thời gian đó, những cải cách đối với DNNN
quy mô vừa và lớn sẽ bị chậm lại. Trọng tâm vẫn là việc thay đổi cơ chế quản lí và
xa hơn nữa là đưa cơ chế tự chủ của DNNN vào thực tiễn.
Tháng 11/1993, Uỷ ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc thông qua “Quyết
định của Uỷ ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốcvề một số vấn đề thiết lập
cơ chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” đặt ra mục tiêu nhằm “thiết lập hệ
thống doanh nghiệp hiện đại với quyền và trách nhiệm về tài sản được xác định rõ
ràng; tách bạch DNNN khỏi quản lí nhà nước với cơ cấu quản lí hiện đại để phù
hợp với nền kinh tế thị trường” Tháng 12/1993 “Luật Công ty của nước Cộng hoà
nhân dân Trung hoa” được quốc hội thông qua.
Vào tháng 11/1994, 100 DNNN vừa và lớn được lựa chọn để thí điểm thành lập hệ
thống doanh nghiệp hiện đại. Những ý tưởng chính của việc thí điểm nhằm: cơ cấu
lại quyền tài sản và xác định rõ cơ quan đầu tư cho doanh nghiệp; chuyển đổi các
DNNN sang công ty TNHH; đánh giá lại và cung cấp đầy đủ tài sản cho DN; và
giảm bớt gánh nặng các khoản nợ không xác định được nguyên nhân trong quá khứ
của doanh nghiệp. Thí điểm này kết thúc vào cuối năm 1997 đã đưa lại những kinh
nghiệm mới cho quá trình cải cách DNNN. Trong khi đó việc thí điểm chuyển
DNNN thành công ty cổ phần cũng được mở rộng một cách nhanh chóng. Những
thử nghiệm này cơ bản đã tái xác định quyền tài sản của doanh nghiệp; tách doanh
nghiệp ra khỏi cơ quan quản lí nhà nước; hình thành đại hội cổ đông, Hội đồng
quản trị, và thiết lập cơ chế quản lí công ty được chuẩn hoá. Cơ chế bán cổ phần
nhằm tăng cường cơ chế giám sát của chủ sở hữu. Sự thay đổi về giá cổ phần trên
thị trường, việc giám sát của các cổ đông và cơ chế kiểm toán độc lập cùng nhau
làm cho những hành vi của doanh nghiệp được hợp lý hoá.
Trong quá trình thí điểm đã phát hiện ra một số vấn đề chung. Ở nhiều doanh
nghiệp việc áp dụng cơ chế mới bị tụt lùi; sự vận hành của các cơ chế mới chưa
được chuẩn hoá, hoạt động của các doanh nghiệp dưới mức mong muốn, phương
thức quản lí hành chính nhà nước thay đổi không đáng kể, vì vậy nó làm chậm lại

hoạt động bình thường của các công ty mới. Một số biện pháp cải cách không được
thực hiện một cách đồng bộ và những gánh nặng tài chính đối với doanh nghiệp
vẫn còn lớn.
Tháng 7/1997, Đại hội Đảng lần thứ 15 đặt ra mục tiêu 3 năm sẽ đưa phần lớn các
DNNN quy mô vừa và lớn thoát khỏi tình trạng thua lỗ qua các công cụ cải cách
như cơ cấu lại, xây dựng lại và cải thiện quản lí doanh nghiệp và cơ bản hình thành
hệ thống doanh nghiệp hiện đại ở hầu hết các DNNN quy mô vừa và lớn. Để đạt
được những mục tiêu này, các biện pháp sau đây cần được tập trung thực hiện. Thứ
nhất là hoàn thiện quản lí của các DNNN lớn và giải phóng những DNNN nhỏ, thứ
hai, khuyến khích sát nhập các DNNN, chuẩn hoá thủ tục phá sản doanh nghiệp, sa
thải lao động dôi thừa trong các DNNN và khuyến khích việc tuyển dụng lại lao
động; thứ ba, khuyến khích việc đổi mới công nghệ và phát triển các sản phẩm
mới; thứ tư, thiết lập lại quản lí tốt DNNN, và thứ 5 phối hợp tốt hơn các chính
sách cải cách doanh nghiệp.
3. Kết luận
3.1. Kết quả và những vấn đề đặt ra tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà
nước Trung Quốc
Cải cách doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc những năm qua được biểu hiện cụ
thể kết quả như sau:
- Khắc phục được tình trạng nợ xấu và chấm dứt thua lỗ kinh doanh ở một số DN.
Cuối năm 1999, trong tất cả 30 tỉnh thành, khu vực của Trung Quốc có gần 90% số
DN thực hiện cải cách đã tăng lợi nhuận hoặc giảm lỗ ở các mức độ khác nhau.
Các DN có truyền thống thua lỗ như: DN ngành dệt, nguyên vật liệu xây dựng,
đường sắt hầu hết đã xoay chuyển được tình cảnh thua lỗ triền miên. Năm 2000,
các DN công nghiệp nhà nước đạt mức lợi nhuận 24,7 tỷ USD, tăng 2,9 lần so với
năm 1997; năm 2001, lợi nhuận thực hiện tăng khoảng 14% so với năm 2000.
- Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế-xã hội. Với sự điều chỉnh chính sách phát triển các thành phần kinh tế, kết cấu
sở hữu nhà nước và tập thể đã được thu hẹp; tỷ trọng DNNN trong GDP tuy có
giảm, nhưng hiệu quả của nó lại được nâng cao. Lợi nhuận thu được từ các DNNN

tăng từ 74,3 tỷ NDT năm 1989 lên 238,8 tỷ NDT vào năm 2001. Các DNNN vẫn là
đơn vị kinh tế đóng góp nhiều nhất cho ngân sách nhà nước. Năm 2000, mức đóng
thuế của các DNNN đã chiếm 67% mức thuế của toàn bộ các DN công nghiệp.
Đồng thời, DNNN cũng là nơi giải quyết việc làm cho xã hội nhiều hơn so với các
DN tư nhân hay các DN hương trấn. Đặc biệt, tỷ trọng đầu tư vào tài sản cố định
của các DNNN luôn tỏ rõ tính vượt trội so với DN thuộc các thành phần kinh tế
khác. Năm 2000, tỷ trọng đầu tư về tài sản cố định của các DNNN chiếm trên 50%,
còn các DN thuộc thành phần khác là 21%.
Theo số liệu thống kê của Hội đồng Nhà nước công bố vào đầu năm 2006, Trung
Quốc còn khoảng 138.000 DNNN công nghiệp và thương mại, với khoảng 43 triệu
người đang làm việc. Doanh thu của các DNNN công nghiệp và DN có cổ phần
nhà nước chiếm tới 40,5% tổng doanh thu và 46% lợi nhuận của các DN công
nghiệp trong cả nước. Số liệu này đã phản ánh thực trạng của các DNNN trong lĩnh
vực công nghiệp và thương mại vẫn đang nắm vai trò kiểm soát trong nền kinh tế.
- Chuyển đổi và hoàn thiện cơ chế kinh doanh của các DN. Thông qua cải cách,
các DNNN đã thực hiện một sự chuyển đổi cơ chế kinh doanh mạnh mẽ bằng việc
chuyển sang thành các công ty, tập đoàn kinh tế, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, xí nghiệp liên doanh, công ty 100% vốn nhà nước hoạt động theo
“Luật công ty”. Theo đó, các DN đã có được quyền tự chủ nhiều hơn trong sử dụng
vốn và tài sản nhà nước. Trung Quốc đã từng bước hình thành được khung cơ bản
về quản lý, giám sát việc sử dụng tài sản nhà nước trong các DN, làm rõ quyền
hạn, trách nhiệm dân sự trước pháp luật của DN đối với việc bảo toàn và tăng giá
trị tài sản nhà nước của DN.
- Thông qua cải cách chế độ sở hữu, nhiều tập đoàn kinh tế mạnh của Trung Quốc
đã ra đời và có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời,
hình thành trong các DN ý thức cạnh tranh, mạnh thắng yếu thua, đào thải lẫn
nhau.
Những vấn đề đặt ra
Trung Quốc gia nhập WTO tháng 12 - 2001. Đây là mốc quan trọng đánh dấu công
cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc bước vào thời kỳ mới, nền kinh tế hội nhập

sâu rộng với kinh tế thế giới. Vì vậy, quá trình cải cách DNNN ở Trung Quốc đang
đặt ra những vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong thời gian tới như sau:
- Năng lực cạnh tranh của các DNNN còn yếu, khoảng cách chênh lệch giữa DN
của Trung Quốc với các DN trên thế giới còn quá lớn. Bằng số liệu thống kê sẽ cho
chúng ta thấy, từ năm 1993-1995, Trung Quốc có 7.950 DNNN quy mô lớn với số
vốn bình quân là 0,186 tỷ NDT, trong đó chỉ có 450 DNNN quy mô cực lớn với số
vốn đầu tư trung bình 1,039 tỷ NDT (tương đương 100 triệu USD). Nếu so với số
vốn đầu tư của DN quy mô nhỏ nhất trong số 500 DN hàng đầu của thế giới thì số
vốn của các DNNN quy mô cực lớn của Trung Quốc mới chỉ bằng 1/10. Đến năm
1998, giá trị bình quân tổng tài sản của 500 DN hàng đầu Trung Quốc đạt 700,11
triệu USD, nhưng con số này cũng chỉ bằng 0,88% tổng giá trị tài sản của 500 DN
mạnh của thế giới.
Về trình độ khoa học kỹ thuật ứng dụng trong sản xuất, 4 ngành kinh tế quan trọng
như: cơ khí, hoá dầu, điện tử và chế tạo ô tô của Trung Quốc hiện nay bị đánh giá
là đi sau trình độ của các nước phát triển trên thế giới chừng 15-20 năm. Khoản
đầu tư cho nghiên cứu cải tiến kỹ thuật hoặc phát triển sản phẩm mới của các
DNNN còn rất nhiều hạn chế.
- Sự can thiệp hành chính của nhà nước vẫn còn chi phối mạnh mẽ nhiều hoạt động
của DN. Một tình trạng khá phổ biến hiện nay là các DN thường tìm cách quan hệ
với cơ quan nhà nước để trông đợi những khoản lợi ích cục bộ cho riêng DN mình.
Theo con số thống kê cho thấy, ở các DNNN, người đứng đầu đơn vị thường bỏ ra
15,4% tổng số thời gian và sức lực để đi xây dựng quan hệ với các cơ quan hành
chính
(9)
. Ngoài ra, sự tác động của chính phủ tới các DN được biểu hiện rõ ở chỗ
trực tiếp can thiệp vào việc bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo DN.
- Hiệu quả kinh doanh của các DNNN chưa thật sự được cải thiện. Sau khi thực
hiện hàng loạt các biện pháp cải cách, số DNNN có chuyển biến tích cực về hiệu
quả sản xuất kinh doanh chỉ có 2/5. Như vậy là, tình trạng các DNNN làm ăn thua
lỗ vẫn là một vấn đề nan giải cần được giải đáp.

Đầu năm 2005, để xoá bỏ tình trạng DNNN làm ăn thua lỗ, Quốc vụ viện Trung
Quốc đã phê chuẩn quy hoạch công tác 4 năm về đóng cửa, phá sản các DNNN.
Đây là bước quá độ để từ sau năm 2008, Chính phủ Trung Quốc sẽ cho ra luật phá
sản DN. Hiện nay, Trung Quốc đã đẩy mạnh việc chuyển các DNNN có khả năng
niêm yết trên thị trường chứng khoán thành những công ty cổ phần. Đồng thời, đưa
ra nhiều chính sách về phá sản, trong đó quy định quyền của người lao động, về
quản lý tài sản và các khoản vay khó đòi. Ở một số tỉnh thành như: Bắc Kinh,
Thượng Hải, Triết Giang, Phúc Kiến, Giang Tô đã ngưng cấp các khoản tài trợ
chính cho các DNNN có nguy cơ phá sản
(10)
. Theo số liệu thống kê cho thấy, tính
đến tháng 5 - 2005 có đến hơn 1.800 DNNN làm ăn thua lỗ, đang chờ phá sản, gây
thất thoát lên đến 317,8 tỷ NDT.
- Tình trạng thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản DN không đúng quy định làm
tài sản nhà nước chảy vào túi tư nhân ở Trung Quốc đang trở thành vấn nạn của
nền kinh tế. Trong khi đó, Chính phủ chưa có những giải pháp hữu hiệu để chấm
dứt tình trạng này. Theo Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao Trung Quốc Giả Xuân
Vượng, năm 2004, có 10.407 cán bộ, nhân viên thuộc các DNNN bị khởi tố và bắt
giam vì đã chiếm đoạt, lạm dụng công quỹ, tự chia chác tài sản nhà nước. Điển
hình là các vụ khởi tố bắt giam Chủ tịch Hội đồng quản trị các tập đoàn Y Lợi,
Xuân Đô, Kỹ thuật số Kim Chính, Cao tốc Trung Nguyên.
Hiện nay, để tránh thất thoát tài sản khi tiến hành cải cách DNNN, Uỷ ban quản lý
tài sản quốc gia Trung Quốc đưa ra, đối với các DN lớn không cho phép giới lãnh
đạo mua DN. Với DN vừa và nhỏ, nếu giới lãnh đạo mua DN, cần làm rõ tình hình
thực tế và có sự phụ trách, giám sát của Uỷ ban quản lý tài sản quốc gia, hoặc cơ
quan có trách nhiệm tương đương. Nguồn gốc tài chính, lai lịch của người mua DN
cũng cần được làm rõ.
3.2. Một số gợi ý về cải cách doanh nghiệp nhà nước đối với Việt Nam
Theo các nhà nghiên cứu, cải cách doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc được đánh
giá là thành công hơn trong số những nước tiến hành chuyển đổi nền kinh tế. Dưới

đây là một số gợi ý về cải cách doanh nghiệp nhà nước đối với Việt Nam như sau:
Một là, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân nhằm giảm gánh nặng cho kinh tế
nhà nước. Từ khi mở cửa, cải cách, Trung Quốc đã nhìn nhận ngày một đầy đủ và
khoa học hơn về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế. Sự thừa nhận
vị trí hợp pháp đó làm cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, tạo ra cơ
cấu của nền kinh tế thị trường cân đối, có hiệu quả. Nhà nước bớt đi những gánh
nặng phải đầu tư ngân sách cho các DNNN. Trong lĩnh vực cạnh tranh thì DNNN
có thể rút lui hoàn toàn để nhường chỗ cho DN tư nhân.
Những năm gần đây, Trung Quốc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân hoạt
động trong các ngành kinh tế mũi nhọn nhằm phá bỏ độc quyền của các DNNN
trong những ngành này. Năm 2005, công ty Okay Airways là công ty tư nhân đầu
tiên được Chính phủ Trung Quốc cho phép hoạt động kinh doanh trong ngành hàng
không. Tiếp theo đó, các công ty tư nhân United Eagle Airlines và Spring -
Autumn Airlines lần lượt được phép kinh doanh các chuyến bay thương mại.
Trong lĩnh vực viễn thông, vận tải đường sắt, từ năm 2006 đã có sự tham gia của tư
nhân.
Vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước, việc khuyến khích, coi trọng
phát triển kinh tế tư nhân, cần có những chính sách để khu vực này được đối xử
bình đẳng với khu vực kinh tế nhà nước.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa cải cách với quản lý DNNN; giữa cải cách DNNN
với điều chỉnh kết cấu của kinh tế nhà nước. Kinh nghiệm cải cách DNNN ở Trung
Quốc cho thấy, để thực hiện thành công cải cách DNNN là phải kết hợp cải cách
với việc không ngừng điều chỉnh kết cấu kinh tế nhà nước. Mục đích của sự điều
chỉnh này là nhằm tối ưu hoá kết cấu ngành nghề, thúc đẩy sự phát triển hài hoà
của các khu vực kinh tế, nâng cao sức mạnh tiềm tàng cho các DNNN. Điều chỉnh
kết cấu là quá trình cấu trúc lại hệ thống DNNN, nhằm loại bỏ các DN làm ăn kém
hiệu quả, giữ lại những DN quan trọng. Nhà nước chỉ cần duy trì các DNNN ở
những lĩnh vực then chốt, nắm huyết mạch nền kinh tế.
Ba là, xây dựng và phát triển đồng bộ thị trường tài chính, hệ thống kiểm toán và
hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo cho quá trình cải cách DNNN thành công. Cùng

với tiến trình cải cách DNNN, chính phủ cần phải xây dựng và kiện toàn một hệ
thống hỗ trợ cho cải cách. Hệ thống đó bao gồm một hệ thống văn bản pháp luật rõ
ràng, nghiêm minh; một thị trường tài chính vận hành lành mạnh và một hệ thống
kiểm toán minh bạch, chính xác. Các công ty kiểm toán có trách nhiệm đánh giá
một cách chính xác và trung thực tình hình kinh doanh của DN có niêm yết trên thị
trường chứng khoán để cung cấp thông tin, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa nhà đầu
tư, người lao động, doanh nghiệp và chính phủ. Hệ thống pháp luật cần được xử lý
nghiêm minh những trường hợp nhà quản lý DN hoặc công ty kiểm toán gian lận
trong khi tiến hành cổ phần hoá.
Ở Việt Nam, vào tháng 4 - 2007, một ví dụ điển hình của việc đánh giá chưa đúng
giá trị DN và thiếu minh bạch khi tiến hành Cổ phần hoá là công ty Intimex thuộc
Bộ Thương mại. Khi công ty đưa lên sàn giao dịch Hà Nội đấu giá thì có 10 nhà
đầu tư (hầu hết là cán bộ quản lý DN và người thân của họ) trả giá cao nhất là
160.000đ/CP và họ mua gọn. Hậu quả là, nhiều người công nhân có nhiều năm gắn
bó với công ty đã trở thành người làm thuê, mất hết quyền lợi, nhà nước bị thất
thoát tài sản. Tình trạng này cần được khắc phục ngay đối với các DN đang và sẽ
tiến hành Cổ phần hoá trong thời gian tới.
Bốn là, đa dạng hoá sở hữu các DNNN quy mô lớn. Hiện nay, Trung quốc đang
đẩy nhanh cải cách theo cơ chế đa dạng hoá sở hữu các DNNN lớn. Bởi lẽ, các DN
này chủ yếu đang hoạt động trong các ngành, lĩnh vực độc quyền, nên việc cải cách
sẽ phá bỏ độc quyền các DN. Đồng thời, các DNNN quy mô lớn thường có quan
hệ rất chặt với chính phủ. Thực hiện cải cách theo cơ chế đa dạng hoá sở hữu
DNNN sẽ cải thiện được 2 cấu trúc và 1 cơ chế, đó là, cải thiện cấu trúc quyền tài
sản DN và cấu trúc quản lý công ty, chuyển đổi và hoàn thiện cơ chế hoạt động
DN. Tuy nhiên, thực tiễn quá trình cải cách DNNN của Trung Quốc đang gặp phải
khâu nhạy cảm và cơ bản nhất đó là “cải cách quyền sở hữu tài sản DNNN”. Theo
đó, đã nảy sinh việc thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản DN không đúng quy
định, làm thất thoát tài sản nhà nước. Tình trạng tham ô, tham nhũng, làm tài sản
nhà nước chảy vào túi tư nhân ở Trung Quốc đang trở thành vấn nạn của nền kinh
tế. Trong khi đó, chính phủ chưa có những giải pháp hữu hiệu để chấm dứt tình

trạng này. Vấn đề đặt ra là, đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN phải đồng thời coi trọng
làm tốt vấn đề phân cấp, phân định rạch ròi, quản lý vốn tài sản DN giữa trung
ương và địa phương. Đồng thời, phải luật hoá toàn bộ việc sử dụng vốn, tài sản
trong các DN; xây dựng hệ thống định giá tài sản chính xác, hợp lý; thiết kế hệ
thống ngăn chặn tệ tham nhũng chiếm dụng tài sản, biến công thành tư. Kết hợp
đồng bộ việc quản lý tài sản vốn nhà nước với các mặt quản lý khác như: thuế,
ngân hàng, tiền tệ, thị trường chứng khoán.
Kết luận, cải cách DNNN là biện pháp tốt nhất để cơ cấu lại và giải quyết sự giảm
sút hiệu quả kinh tế của các DNNN Trung Quốc hiện nay. Đồng thời, cũng là một
trong những mục tiêu cuối cùng của cải cách nền kinh tế sang thể chế kinh tế thị
trường XHCN màu sắc Trung Quốc. Trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay, cải
cách DNNN có thành công hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự lựa chọn
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc.
Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng, cả trong quá khứ, hiện tại và
tương lai xây dựng mô hình kinh tế. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu, trao đổi những
kinh nghiệm về cải cách DNNN giữa hai nước có ý nghĩa thiết thực và bổ ích cho
quá trình cải cách của Việt Nam. Việc nắm bắt và thích ứng những vấn đề mới về
cải cách kinh tế nói chung và trong lĩnh vực cải cách DNNN nói riêng sẽ đáp ứng
tốt nhu cầu đổi mới, phát triển thành công của Việt Nam trong thời gian tới.

×