Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

phân tích những hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại hiện hành và đề xuất hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.66 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ BÀI
B. NỘI DUNG
I.Những vấn đề lý luận chung về pháp luật trọng tài thương mại hiện nay.
II. Những hạn chế của pháp Luật Trọng tài hiện hành.
1. Hạn chế trong những quy định của pháp luật Trọng tài
2. Hạn chế trong áp dụng pháp luật Trọng tài vào thực tế để giải quyết tranh chấp.
III. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trọng tài trong
1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật trọng tài hiện hành
2. Một số biện pháp hỗ trợ khác
C. KẾT BÀI
1
A. MỞ BÀI
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ra đời đã kịp thời khắc phục được những
hạn chế của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. Tuy nhiên nó vẫn còn bộc lộ
nhiều điểm hạn chế và bấp cập trên thực tế. Bài viết sau đây sẽ trình bày : “Phân tích
những hạn chế của pháp luật trọng tài thương mại hiện hành và đề xuất hướng hoàn
thiện”.
B. NỘI DUNG
I.Những vấn đề lý luận chung về pháp luật trọng tài thương mại hiện nay.
Tại khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: “Trọng tài thương mại
là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy
định của Luật này”.
Theo đó Trọng tài thương mại( TTTM) là phương thức mà các bên tranh chấp tự
nguyện thỏa thuận với nhau để giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho
TTTM, trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh chấp, TTTM được quyền đưa ra
quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết định có giá trị bắt buộc đối vói
các bên.
Trọng tài có một số đặc điểm sau đây
Trọng tài là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nên để giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, đặc điểm này thường được gắn với các


Trọng tài thường trực. Mỗi Trọng tài thường trực đều có Điều lệ hoạt động riêng, có trụ
sở, bộ máy giúp việc, danh sách Trọng tài viên và quy tắc tố tụng riêng của mình.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM phát sinh từ chính sự thỏa thuận của
các chủ thể tranh chấp chứ không phải do pháp luật ấn định.
Trọng tài thương mại là một cơ quan giải quyết tranh chấp độc lập với Tòa án, phán
quyết của
TTTM không có tính chất cưỡng chế thi hành như bản án, quyết định của tòa án. Tuy
nhiên để đảm bảo giá trị pháp lý của phán quyết của TTTM, pháp luật nước ta quy định,
2
phán quyết của TTTM nếu không được các bên đương sự tự nguyện thi hành thì có thể
nhờ sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế thi hành.
Luật TTTM 2010 có Nghị định 63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại .Đây có thể coi là những văn bản
pháp luật mới nhất tính đến thời điểm này chứa các quy định pháp lý về trọng tài thương
mại ở Việt Nam. Bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Các quy định chung về phạm vi nguyên tắc giải quyết tranh chấp, hình thức
thẩm quyền của TTTM và sự phân định quyền giữa TTTM và Tòa án, nguyên tắc áp
dụng
pháp luật trong giải quyết tranh chấp.
- Quy định về thỏa thuận trọng tài: từ Điều 16 đến Điều 19, quy định thỏa thuận
trọng tài phải được xác lập bằng văn bản và cụ thể hóa những tình huống ý chí thỏa
thuận của các bên được xem là đã được ghi nhận bằng văn bản. Khoản 2 Điều 16 Luật
này giải thích rõ ý chí trung thực của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài. Đồng thời
Luật cũng quy định giới hạn các trường hợp cụ thể mà thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại
Điều 18 Luật TTTM 2010.
- Về trọng tài viên và trung tâm trọng tài: từ Điều 20-29, quy định điều kiện trở
thành trọng tài viên, quyền và nghĩa vụ. Luật TTTM 2010 không yêu cầu trọng tài viên
phải có quốc tịch Việt Nam. Người nước ngoài cũng có thể được chỉ định trọng tài viên
ở Việt Nam nếu các bên tín nhiệm. Trọng tài thường trực với các nội dung: điều kiện và
thủ tục thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn và việc chấm dứt hoạt động. Những điều này

được Luật TTTM ghi nhận tại các Điều 22- 23. Đặc biệt Luật mới cho phép các tổ chức
trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện hay hoạt động tại Việt Nam
theo các quy định.
- Quy định về tố tụng trọng tài từ việc khởi kiện và thụ lý, thành lập Hội đồng
trọng tài, thẩm quyền của trọng tài việc xác minh, thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, …đến phiên họp giải quyết tranh chấp, phán quyết trọng tài, thi hành
và hủy phán quyết trọng tài.
3
- Và quy định về tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
Luật mới dành hẳn một chương quy định cụ thể về điều kiện, hình thức hoạt động, việc
thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, quyền và nghĩa vụ.
II. Những hạn chế của pháp Luật Trọng tài hiện hành.
1. Hạn chế trong những quy định của pháp luật Trọng tài
Pháp luật Trọng tài năm 2010 đã có nhứng sửa đổi bổ sung so với Pháp lệnh trọng
tài thương mại 2003 đã là một bước tiến dài trong việc quy định của pháp luật về TTTM.
Tuy vậy Luật TTTM 2010 còn có nhiều hạn chế, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp
luật trọng tài trên thực tế để giải quyết tranh chấp. Cụ thể nhưng hạn chế trong quy định
của pháp luật Trọng tài thể hiện ở những điểm sau:
1.1 Về việc quy định thẩm quyền của Trọng tài
Vướng mắc về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Với quy định về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại: “1. Tranh chấp
giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng
tài” . Việc xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại vẫn sẽ gây tranh luận, đó là
tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại được hiểu theo quy định nào? Nhiều ý
kiến tiếp nhận khái niệm hoạt động thương mại theo quy định của Luật thương mại
2005, bao gồm các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động khác có mục đích sinh lời.
Việc tăng thẩm quyền cho trọng tài thương mai trong quá trình giải quyết tranh chấp, cụ

thể là quyền ra quyết định áp dụng khẩn cấp tạm thời là một bước tiến mới, tuy nhiên
không phải cơ quan tài phán công nên pháp luật cần quy định cụ thể để tránh việc lạm
dụng quyền hạn gây thiệt cho các bên tranh chấp. Trước tiên là căn cứ yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, Luật trọng tài thương mại chỉ quy định chung chung là “
kèm theo đon yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, bên yêu cầu phải cung cấp
cho Hội đồng trọng tài chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời”.
4
1.2 Về quy định về tiêu chuẩn của Trọng tài viên
Ở điểm c khoản 1 Điều 20 Luật TTTM 2010 quy định : “ Trong trường hợp đặc
biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy
không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm
Trọng tài viên”. Mục đích mà các nhà làm luật và tất cả các bên liên quan muốn hướng
tới là xây dựng một đội ngũ Trọng tài viên có chuyên môn cao để từ đó đẩy chất lượng
hoạt động Trọng tài tốt hơn. Các nhà làm Luật hiện thực hóa quy định này bằng những
quy định về tiêu chuẩn Trọng tài viên khắt khe. Tuy nhiên, việc này đã vô tình vi phạm
quyền tự do lựa chọn Trọng tài viên của các bên trong tranh chấp ảnh hưởng đến việc
thành lập Hội đồngTrọng tài theo đúng ý chí của các bên.
Trọng tài viên là các cá nhân được các bên tin tưởng giao cho vụ tranh chấp. Với
vai trò đặc biệt quan trọng nay, các bên phải lựa chọn rất kỹ càng người cầm cân nảy
mực đối với vụ việc của mình. Uy tín và chất lượng của Trọng tài viên là do các bên
tranh chấp thẩm định. Việc quy định tiêu chuẩn về chuyên môn đối với Trọng tài viên
như vậy là thừa mà lại hạn chế số cá nhân được trở thành Trọng tài viên – đi ngược lại
với mong muốn của các bên trong tranh chấp.
1.3 Quy định về thời hiệu khởi kiện
Tại Điều 33 về Thời hiệu khỏi kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài : " Trừ
trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng
tài là 2 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích họp pháp bị xâm phạm”
Đối với quy định về thời hiệu khơi kiện, khi luật TTTM năm 2010 đã dùng mốc tính cho
thời hiệu là từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nhưng mức chung cho

thời hiệu vẫn là 2 năm thì đôi khi lại làm khó chính bên có quyền và lợi ích bị xâm hại.
vì mặc dù anh biết là quyền và lợi ích của anh đang bị bên kia xâm hại nhưng anh lai
muốn dàn xếp với bên kia bằng nhưngx cách thân thiện trước như thương lượng hòa
giải. Cho đến khi không thể có được tiếng nói chung, anh mới nghĩ đến quyền kiện ra
Trọng tài thương mại thì không còn thơi hiệu. Ngoài ra, với thời hiệu khởi kiện ngắn
như vật, sẽ tạo ra tiền lệ xấu: khiến cho các bên trong quan hệ thương mại cứ thấy có
quyền và lợi ích của mình bị xâm hại là kiện ngay tới trọng tài mà chả cần bàn bạc với
5
bên kia hướng giải quyết thích hợp. và bên kia có khi chưa nhận thấy sai lầm của mình
hoặc cũng muốn sự việc được giải quyết trên cơ sở thương lượng nhưng vụ việc đã bị
đưa ra trọng tài một cách không mong muốn. vì thế, Văn bản hướng dẫn cần quy định
kéo dài thời hiệu hơn cho một số tranh chấp phức tạp và việc khấu trừ một số thời hạn
do khách quan cho việc tính thời hiệu khởi kiện.
1.4 Về quy định sự hỗ trợ của Tòa án
Dù Luật hiện hành được đánh giá khá cao về việc xây dựng cơ chế Tòa án hỗ trợ
Hội đồng trọng tài trong quá trình làm việc nhưng vẫn còn tồn tại cần được khắc phục.
Đó là việc pháp luật chưa quy định cụ thể các chế tài để xử lý các cá nhân không thực
hiện quyết định của Tòa án về việc thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng. Hai
hoạt động này cho thấy sự hỗ trợ đáng kể của Tòa án với Hội đồng trọng tài vì nếu
không có sự giúp sức của các cơ quan công quyền này, Hội đồng trọng tài khó có thể
thực hiện trôi chảy công việc của mình. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Tòa án lại chỉ dừng lại
ở mức có văn bản gửi các cá nhân, tổ chức có liên quan mà chưa quy định chế tài đối với
cá nhân, tổ chức này nếu không thực hiện yêu cầu của Tòa án. Trong BLTTDS cũng
không có quy định về vấn đề này mà chỉ có quy định về “ thủ tục giải quyết các yêu cầu
liên quan đến hoạt động TTTM Việt Nam”. Đây còn là một mảng để ngỏ của pháp luật,
khiến cho việc giải quyết tranh chấp trong thực tế có thể gặp khó khăn, bị trì hoãn.
1.5 Về biện pháp khẩn cấp tạm thời
Khoản 3 Điều 50 Luật TTTM 2010 quy định: “ Theo quyết định của Hội đồng
trọng tài, bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi một khoản tiền,
kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Hội đồng Trọng tài ấn định tương ứng với

giá trị thiệt hại có thể phát sinh do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng
gây ra để bảo vệ lợi ích của bên bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…”.
Song Luật chưa tiên liệu được trường hợp một doanh nghiệp nhỏ đưa đơn yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn khối tài sản lớn trong hợp đồng. Theo
luật, doanh nghiệp này phải huy động một nguồn tài chính khá lớn tương ứng với giá trị
thiệt hại có thể phát sinh. Trong một thời gian ngắn, việc phải xoay sở khoản tài chính
lớn là quá sức đối với doanh nghiệp này. Do đó có thể họ sẽ không đủ điểu kiện đưa yêu
6
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như Luật định. Phải chăng đây chính là sự mâu
thuẫn trong quy định pháp luật bởi luật đặt ra để bảo vệ quyền lợi của đương sự nhưng
cũng đồng thời hạn chế không cho họ có điều kiện bảo vệ quyền lợi của mình.
Luật TTTM 2010 đã trao quyền được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho
Hội đồng Trọng tài, theo đó hội đồng Trọng tài được áp dụng 6 biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Tuy nhiên, Luật trao quyền nhưng lại không quy định việc thi hành các quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định thay đổi, áp dụng, bổ sung, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời của hội đồng Trọng tài. Luật cũng đã quy định cho Hội đồng
trọng tài được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng do không phải là một cơ
quan quyền lực, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài có thể
gặp nhiều khó khăn trên thực tế
1.6 Quy định về việc hủy phán quyết trọng tài.
Khoản 8 Điều 71 quy định: “ Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định
hủy phán quyết Trọng tài, các bên có thể thỏa thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải
quyết tại Trọng tài hoặc một bên có quyền khởi kiện tại Tòa án. Trường hợp Hội đồng
xét đơn yêu cầu không hủy phán quyết Trọng tài thì phán quyết Trọng tài được thi
hành”. Điều này dẫn đến một thực tế là thông thường các bên sẽ chọn Tòa án để tiếp tục
giải quyết tranh chấp, bởi sau khi phán quyết Trọng tài bị hủy, các bên rất khó cùng
nhau xây dựng lại một thỏa thuận khác. Lúc này, các doanh nghiệp phải xem xét, tính
toán chi phí, thời gian tiếp tục theo kiện. Để tránh tình huống trên xảy ra, các bên quyết
định đưa vụ kiện thẳng đế tòa án ngay từ đầu do phán quyết của tòa án luôn được đảm
bảo thi hành hơn bởi sự cưỡng chế của nhà nước, một trong các bên không thể yêu cầu

tuyên hủy phán quyết của tòa. Như vậy, không khác nào doanh nghiệp phải đi đường
vòng để giải quyết một vụ tranh chấp đưa ra TTTM nhưng cuối cùng vẫn phải đến Tòa
án giải quyết. Sau khi phán quyết Trọng tài bị tuyên hủy, giả sử các bên thỏa thuận đưa
vụ việc giải quyết bằng Trọng tài lần thứ hai thì vẫn không khác gì một vụ tranh chấp
được giải quyết theo trình tự lặp đi lặp lại làm tốn kém thời gian, chi phí gấp hai lần so
với việc đưa vụ việc đến Tòa ngay từ đầu.
1.7 Về quy định lưu trữ hồ sơ Trọng tài
7
Ở Điều 64 có quy định: “ Trung tâm trọng tài có trách nhiệm lưu trữ hồ sơ vụ
tranh chấp đã thụ lý. Hồ sơ vụ tranh chấp do Trọng tài vụ việc giải quyết được các bên
hoặc các Trọng tài viên lưu trữ.
2. Hồ sơ trọng tài được lưu trữ trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra phán quyết trọng
tài hoặc quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.”
Quy định này chỉ mới nêu chung chung, không chỉ rõ đâu là chủ thể nào sẽ thực
hiện nhiệm vụ lưu trữ “các bên” hay là Trọng tài viên”. Ở đây cần chỉ rõ đối tượng lưu
trữ để tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm và tránh việc xảy ra mất mát.
2. Hạn chế trong áp dụng pháp luật Trọng tài vào thực tế để giải quyết tranh chấp.
- Phần lớn các tranh chấp giải quyết bằng Trọng tài ở Việt Nam đều có yếu tố
nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ ra chi phí không nhỏ để thuê Luật sư,
chuyên gia am hiểu về lĩnh vực tranh chấp và pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, kết quả giải
quyết tranh chấp căn cứ pháp luật Việt Nam cũng khó để các bên công nhận dẫn đến hệ
quả họ có thể kiện các cơ quan tài phán quốc tế. Điều này làm ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế Việt Nam nói chung và quan hệ giao thương của các doanh nhân Việt Nam
nói riêng.
- Trên thực tế phán quyết Trọng tài đưa ra không nhân danh Nhà nước, phán quyết
của trọng tài chưa thật sự vô tư, khách quan nên các nhà kinh doanh chưa tin tưởng lựa
chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Trong trường hợp vì lý do nào đó mà Trọng
tài viên xét xử sai, không khách quan thì họ không biết dựa vào cơ chế nào để bảo vệ lợi
ích của mình ngoài việc không thi hành phán quyết đó và khởi kiện vụ án lại từ đầu tại
Tòa kinh tế.

- Nếu như phán quyết Trọng tài trong nước thi hành ngay mà không buộc phải
thông qua thủ tục công nhận tại Tòa án thì phán quyết Trọng tài nước nước ngoài muốn
thi hành tại Việt Nam buộc phải thông qua thủ tục công nhận mới được cơ quan thi hành
án cưỡng chế thi hành tại Việt Nam. Quy định này đã đặt phán quyết của Trọng tài nước
ngoài và Trọng tài trong nước ở hai vị thế bất bình đẳng. Trên thực tế, có những trường
hợp bị đơn phải trả tiền bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn nước ngoài nhưng Tòa án
Việt Nam dựa vào quy định này của Luật để từ chối công nhận phán quyết của Trọng tài
8
nước ngoài nhằm bảo vệ quyền lợi bị đơn nước mình. Điều này khiến các nhà đầu tư
nước ngoài không thiện chí hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam bởi họ lo sợ, nếu tranh
chấp xảy ra, dù phán quyết Trọng tài nước ngoài được tuyên nhưng vẫn khó thực thi tại
Việt Nam khi vấp phải những quy định này.
- Về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Trọng tài nước
ngoài. Luật TTTM 2010 không có quy định về vấn đề này. Điều này có thể gây những
khó khăn cho công dân nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài, khi muốn
tìm hiểu về pháp Luật Trọng tài của Việt Nam.
- Do không phải là một cơ quan nhà nước nên hoạt động của TTTM không có tính
quyền lực nhà nước. Điều này gây không ít khó khăn cho các trọng tài viên khi giải
quyết tranh chấp cũng như khó khăn cho các thương nhân khi yêu cầu thi hành phán
quyết của trọng tài. Hơn nữa, số lượng các trọng tài viên ở nước ta còn quá thưa thớt, cơ
sở vật chất chưa được đầu tư thích đáng, kỹ năng giải quyết tranh chấp chưa thực sự
chuyên nghiệp, công tác tuyên truyền còn hạn chế…Trong khi đó, các doanh nghiệp
nước ta hiện nay còn chưa có hiểu biết đầy đủ về pháp luật trọng tài, chưa thấy được
những ưu việt của phương thức này. Bên cạnh đó, còn tồn tại những nguyên nhân từ
phía các cơ quan tiến hành tố tụng, thay vì một số tòa án nhận thức Trọng tài là một
phương thức hỗ trợ đắc lực giúp giảm tải việc giải quyết các tranh chấp thương mại thì
ngược lại trên thực tế, có Tòa án lại giành cả việc xét xử của Trọng tài, cơ quan thi hành
án chưa giải quyết vấn đề thi hành quyết định trọng tài trên thực tế.
III. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trọng tài trong
1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật trọng tài hiện hành

1.1 Về quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM
Mở rộng thẩm quyền của trọng tài thương mại trong các loại tranh chấp khác một
cách rõ ràng hơn, nên quy định các tranh chấp khác là tranh chấp nào.
Các văn bản pháp luật hướng dẫn Luật TTTM 2010 nên giải thích theo hướng mở rộng
phạm vi thẩm quyền của trọng tài, tôn trọng ý chí tự do thỏa thuận của các bên tranh
chấp. Cụ thể, nên quy định thẩm quyền của trọng tài theo phương pháp loại trừ, mở rộng
9
thẩm quyền của trọng tài ra cả những tranh chấp dân sự, trừ một số tranh chấp liên quan
đến quyền nhân thân, quan hệ hôn nhân, gia đình và thừa kế theo quy định của
1.2 Về quy định của pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Việc thi hành các quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như việc thay đổi,
áp dụng bổ sung, hủy bỏ các biện pháp này nên thực hiện tương tự như áp dụng các biện
pháp của Tòa án.
1.3 Về vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Pháp luật TTTM nên bổ sung quy định về thủ tục yêu cầu Tòa ám xem xét quyết
định của Hội đồng trọng tài về vấn đề vô hiệu của thỏa thuận trọng tài. Cụ thể trong thời
gian Tòa án xem xét để ra quyết định thỏa thuận trọng tài có vô hiệu hay không, Hội
đồng trọng tài nên tạm dừng tố tụng. Bản thân trong thời gian này, dù có tiến hành tố
tụng, các bên cũng khó đạt được một kết quả như mong đợi khi một bên đã không thiết
tha với việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài và yêu cầu Tòa án xem xét tuyên thỏa
thuận trọng tài vô hiệu. Hơn nữa, dù có đạt được kết quả giải quyết tranh chấp trong thời
gian này, mà sau đó, Tòa án tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu, đương nhiên dẫn đến
việc phán quyết của Trọng tài không có giá trị. Sau khi Tòa án có quyết định cụ thể, phụ
thuộc vào quyết định của Tòa án mà tố tụng trọng tài tiếp tục nếu Tòa án xác định thỏa
thuận trọng tài là không vô hiệu; trường hợp tòa án tuyên thỏa thuận vô hiệu thì khi đó
từ việc tạm dừng tố tụng, Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh
chấp. Khi đó, các bên chuẩn bị tâm thế cho việc vụ tranh chấp có thể được đưa ra tòa án
để giải quyết.
1.4 Thời hạn trong Tố tụng Trọng tài
Đối với hầu hết thời hạn trong Tố tụng Trọng tài, Luật TTTM 2010 cần có

hướng dẫn quy định về vấn đề bất khả kháng để khấu trừ cho hợp lý vì điều này sẽ phù
hợp hơn với các văn bản luật hiện hành của nước ta như LTM 2005, BLTTDS 2004,
BLDS 2005. đồng thời các thời hạn được luật TTTM 2010 quy định cũng không thấy đề
cập là có tính các ngày nghỉ, ngày lễ vào các thời hạn này hay không. Theo kiến nghị
thì văn bản nên quy định là “ ngày làm việc” như Pháp lệnh để chặt chẽ hơn
1.5 Đối với quy định về phán quyết
10
Để đảm bảo tính khách quan và giá trị chung thẩm của phán quyết thì cần quy
định cụ thể việc ra phán quyết bổ sung chỉ được thực hiện trong một chừng mực nào đó
còn nếu làm thay đổi phần lớn nội dung của phán quyết ban đầu thì không được chấp
nhận
1.6 Hoàn thiện một số quy định về trọng tài viên
Cần có những biện pháp nâng cao chât lượng của trọng tài viên chứ không chỉ
dừng lại ở nêu tiêu chuẩn của trọng tài viên
thực hiện các biện pháp khác.
1.7 Các bên có thể gia hạn đối với thời hạn nộp bản tự bảo vệ
Đối với bản tự bảo vệ của bị đơn, Luật cho phép một bên hoặc các bên có thể gia
hạn đối với thời hạn nộp bản tự bảo vệ nhưng không ấn định thời hạn này như quy định
cũ” trước khi HĐTT mở phiên họp” và luật quy đinh rằng” nếu bị đơn không nộp bản tự
bảo vệ thì quá trình giải quyết tranh chấp vẫn được tiến hành. Tuy nhiên nếu trường hợp
HĐTT đã mở phiên họp mà bên bị đơn mới gửi bản tự bảo vệ thì có được chấp nhận hay
không? Luật cần có hướng dẫn điều này hoặc nên giới hạn một mốc thời gian cụ thể
hoặc nếu không thì để nguyên như quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
1.8 Hoàn thiện quy định của pháp luật về trọng tài vụ việc:
Luật TTTM cần quy định về thời gian thành lập Hội đồng Trọng tài vụ việc trong
trường hợp có khiếu nại quyết định chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn. Việc quy định
thời hạn bao lâu hai Trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài sau khi có
quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án có ý nghĩa hết sức quan trọng về tính hợp
pháp liên tục của tố tụng Trọng tài, bởi lẽ, nếu hai Trọng tài viên không thể tự mình bầu
được Chủ tịch Hội đồng Trọng tài thì các bên phải đề nghị TAND có thẩm quyền chỉ

định Chủ tịch Hội đồng Trọng tài cho mình theo quy định tại khoản 3 Điều 41 Luật
TTTM chứ không thể kéo dài tố tụng. Cụ thể nên quy định bổ sung: “Trường hợp có
khiếu nại quyết định chỉ định Trọng tài viên cho các bên, thì trong vòng 15 ngày kể từ
ngày Tòa án có thẩm quyền có văn bản giải quyết khiếu nại, hai Trọng tài viên phải bầu
Chủ tịch Hội đồng Trọng tài để giải quyết vụ kiện.”
11
Cần quy định bổ sung trao cho Hội đồng Trọng tài vụ việc các thẩm quyền quyết
định liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng Trọng tài. Cụ thể là bổ sung: “Hội đồng
Trọng tài vụ việc được quyền quyết định các trình tự, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp
nếu các bên tranh chấp không tự thỏa thuận được”. Còn nếu sự thay đổi thủ tục tố tụng
của các bên về địa điểm và ngôn ngữ giải quyết tranh chấp đều hợp pháp thì nên bổ sung
trong Luật TTTM như sau: “Mọi sự thay đổi về trình tự, thủ tục tố tụng Trọng tài trước
và sau khi xảy ra tranh chấp đều phải được lập thành văn bản và do Hội đồng Trọng tài
quyết định sự thay đổi”.
2. Một số biện pháp hỗ trợ khác
* Cần tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về pháp luật trọng tài. Việc tuyên truyền
phổ biến pháp luật về trọng tài cần được tiến hành một cách toàn diện qua các phương
tiện thông tin đại chúng như sách báo, đài chuyền hình, internet. Các địa phương cần
tuyên truyền đến các doanh nghiệp trong địa bàn về pháp luật Trọng tài, giúp họ thấy
được ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bẳng TTTM so với các phương
thức giải quyết tranh chấp khác
* Nên thành lập Trọng tài viên vụ việc, tạo cơ hội cho nhiều chuyên gia kinh tế
tham gia hoạt động Trọng tài. Cá nhân được các bên tranh chấp tin tưởng và phù hợp với
tiêu chuẩn pháp luật quy đinh đều có thể tham gia với tư cách là Trọng tài viên.
* Mở các lớp đào tạo cho Trọng tài viên, tạo điều kiện để họ tham gia hoạt động
Trọng tài ở nước ngoài như tổ chức sự kiện giao lưu, hợp tác, tổ chức hội thảo nhằm
trao đổi kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng của Trọng tài viên.
* Cần có biện pháp hỗ trợ của Nhà nước với hoạt động trọng tài
Luật TTTM 2010 nên bổ sung quy định về sự trợ giúp của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc đảm bảo thi hành biện pháp khẩn cấp tạm thời của TTTM trên

thực tế và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước khi có yêu cầu hỗ trợ từ trọng tài.
Nhà nước cần đảm bảo phán quyết trọng tài được thi hành trên thực tế. Hiện nay
pháp luật hiện hành chỉ quy định quyền yêu cầu của bên được thi hành phán quyết của
trọng tài mà không có quy định cụ thể về nghĩa vụ trợ giúp và thời hạn thực hiện việc
12
cưỡng chế của cơ quan thi hành án đối với phán quyết của trọng tài nên các văn bản
pháp luật nên quy định rõ về vấn đề này.
C. KẾT BÀI
Như vậy pháp luật trọng tài thương mại tuy đã được sửa đổi bổ sung nhưng vẫn
tồn tại nhều hạn chế cần được khắc phục. Các nhà làm luật nên có những quy định cụ
thể rõ ràng để đưa pháp luật trọng tài đến với thực tiễn, giải quyết được các tranh chấp
một cách hiệu quả nhất.
13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học luật Hà Nội, giáo trình luật thương mại tập 2. Nxb ,CAND, Hà Nội
năm 2006
2. Bộ luật thương mại 2005
3. Luật trọng tài thương mại 2010
4. Nghị định 63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Trọng tài thương mại
5. Nguyễn Thị Thanh Huyền Tác động của những quy định mới trong luật trọng tài
thương mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại
Luận văn thạc sĩ – 2012
6. Nguyễn Thị Hồng Hạnh Luật trọng tài thương mại năm 2010-bước phát triển mới
của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - 2011
7. Trần Thị Lan Chi, Thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại ở Việt Nam
Khóa Luận Tốt Nghiệp - năm 2011
8. Lê Thị Vân Anh, Thực trạng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại theo

quy định của luật trọng tài thương mại 2010
Khóa Luận Tốt Nghiệp - năm 2011.
9. Google. com
14

×