Website:
Email :
Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
Mở đầu
Chương I. Thực trạng phát triển ngành thủy sản và các vấn đề môi trường.
1. Thực trạng phát triển ngành thủy sản
2. Các vấn đề môi trường trong nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản.
3. Mục tiêu phát triển ngành thuỷ sản và dự báo các vấn đề môi trường chính
Chương II. Tổng quan về các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với
ngành thuỷ sản.
1. Các quy định về môi trường trong hệ thống pháp luật liên quan đến nuôi
trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản.
2. Các quy định của Luật và hệ thống các văn bản dưới Luật BVMT đối với lĩnh
vực nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản.
3. Phân tích tính thống nhất, mối quan hệ của các quy định này với các quy định
của Luật bảo vệ môi trường và hệ thống các văn bản dưới luật bảo vệ môi
trường.
Chương III. Tổ chức thực hiện luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản.
1. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm về bảo vệ môi trường trong
ngành thủy sản.
2. Thực trạng tuân thủ Luật bảo vệ môi trường trong khai thác, nuôi trồng và chế
biến thủy sản.
Chương IV. Kiến nghị hướng bổ sung, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi
trường ngành thuỷ sản.
1. Hoàn thiện pháp luật về ngành thuỷ sản theo hướng lồng ghép các quy phạm
về bảo vệ môi trường
2. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường đối
với ngành thuỷ sản.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
1
Website:
Email :
Tel : 0918.775.368
MỞ ĐẦU
Thời gian qua, cùng với sự tăng tốc của nền kinh tế, ngành thủy sản cũng
đã phát triển mạnh trên các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến. Những
thành công trên đã nâng cao vị thế của ngành trong nền kinh tế quốc dân, dần trở
thành một trong những lĩnh vực xuất khẩu chủ chốt của nước ta trong thời gian
tới. Tuy nhiên, mặt trái của nó là tác động tiêu cực đến môi trường đang để lại
hậu quả lớn cho môi trường và con người.
Ngày 27 tháng 12 năm 1993, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã
thông qua Luật bảo vệ môi trường. Cũng như các bộ/ngành khác trong cả nước,
ngành thủy sản cũng đã tích cực triển khai thực hiện Luật bảo vệ môi trường.
Các kết quả đạt được đã góp phần giảm bớt các tác động nhiều mặt của các hoạt
động nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản đến môi trường và con người.
Để có bức tranh tổng quan về thực trạng thi hành Luật bảo vệ môi trường trong
ngành thủy sản, nhiệm vụ "Đánh giá việc thực hiện Luật bảo vệ môi trường
trong ngành thủy sản và đề xuất hướng hoàn thiện trong thời gian tới" đặt ra
nội dung nghiên cứu các vấn đề môi trường trong các lĩnh vực nuôi trồng, khai
thác và chế biến thủy sản, tình hình thực hiện Luật bảo vệ môi trường trong
ngành và hướng hoàn thiện trong thời gian tới. Báo cáo tổng kết nhiệm vụ gồm
các nội dung sau:
1. Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản và các vấn đề môi trường.
2. Tổng quan về các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với ngành
thủy sản.
3. Tổ chức thực hiện Luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản.
4. Kiến nghị hướng bổ sung, hoàn thiện pháp luật về Bảo vệ môi trường
ngành thủy sản.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, nhóm nghiên cứu đã nhận được sự giúp
đỡ và tạo điều kiện của Vụ Khoa học và công nghệ, Viện nghiên cứu kinh tế và
quy hoạch thủy sản (Bộ Thủy sản), các bạn đồng nghiệp trong Cục Môi trường.
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ và hỗ trợ kịp thời đó.
2
Website:
Email :
Tel : 0918.775.368
Mặc dù có nhiều cố gắng, song do hạn chế về mặt thời gian và nguồn lực
tổ chức thực hiện, báo cáo chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết và hạn chế. Rất
mong nhận được ý kiến góp ý để báo cáo được hoàn thiện hơn.
3
Website:
Email :
Tel : 0918.775.368
Chương I. Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản và các vấn đề môi trường
1. Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản
Thời gian qua, nhờ có các chủ trương và biện pháp lớn phù hợp với cơ
chế thị trường, ngành thủy sản phát triển mạnh trên tất cả các lĩnh vực nuôi
trồng, khai thác và chế biến, đã và đang đóng góp tích cực cho nền kinh tế quốc
dân.
1.1. Nuôi trồng thủy sản
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của ngành thuỷ sản, nuôi
trồng thủy sản (NTTS) ở nước ta có bước tiến khá dài với mức tăng bình quân
hàng năm 4 - 5% về diện tích nuôi trồng và hơn 9% về sản lượng. Đến hết năm
1998, đã có 626.330 ha mặt nước được đưa vào sử dụng NTTS, trong đó
335,890 ha mặt nước ngọt (ao, hồ, hồ chứa, ruộng trũng) và 290.440ha mặt nước
lợ, mặn (vùng triều, eo vinh, đầm phá ven biển) với nhiều đối tượng nuôi phong
phú như tôm cá nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nuôi lồng trên sông, ngoài
biển, nuôi trong đầm nước lợ, rừng ngập mặn, đem lại sản lượng 537.870 tấn,
chiếm 32% tổng sản lượng thủy sản cả nước. Bên cạnh đó, với 354 trại cá giống
sản xuất khoảng 7 tỉ cá bột, về cơ bản đã cung cấp đủ giống nhân tạo thoả mãn
nhu cầu giống nuôi ở các loại hình mặt nước và các vùng sinh thái khác nhau.
Trong quá trình bước đầu chuyển sang phương thức nuôi bán thâm canh và thâm
canh đã quan tâm đến việc chế biến và sử dụng thức ăn công nghiệp. Với 24 cơ
sở sản xuất thức ăn, năm 1998 đã sản xuất 20.000 tấn thức ăn nuôi tôm cá, đáp
ứng một phần nhu cầu của các khu vực nuôi trồng thủy sản.
Thực hiện Nghị quyết 09/2000/NQ-CP của Chính phủ về một số chủ
trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp, nhân dân ở hầu khắp các tỉnh ven biển đã tiến hành chuyển đổi vùng đất
nhiễm mặn trồng lúa, trồng cói, làm muối hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy
sản, mà chủ yếu là nuôi tôm. Năm 2001, tổng diện tích chuyển đổi ở vùng ven
biển đã lên tới trên 220 nghìn hecta, trong đó riêng Cà Mau đã có tới hơn 132
nghìn ha. Diện tích chuyển đổi này đã góp phần quan trọng trong số xấp xỉ 60
4
Website:
Email :
Tel : 0918.775.368
nghìn tấn tôm nuôi tăng thêm, nâng tổng sản lượng tôm nuôi lên gần 160 nghìn
tấn, cao gấp rưỡi so với năm 2000. Đặc biệt, mô hình nuôi luân canh tôm lúa đã
đem lại hiệu quả cao và bền vững ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong các vùng nước ngọt, tuy không sôi động như vùng ven biển nhưng quá
trình chuyển dịch cũng diễn ra với qui mô không kém, với việc sử dụng các diện
tích mặt nước hồ chứa, sông, ao hồ nhỏ, ruộng lúa để nuôi tôm càng xanh, cá
chim trắng và nhiều loài cá có giá trị cao khác nhau. Không những góp phần
quan trọng tạo sản phẩm xuất khẩu, nuôi trồng thủy sản đã có đóng góp to lớn
cho cải thiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
1.2. Chế biến thủy sản.
Trước năm 1975 công nghiệp chế biến thủy sản ở nước ta phát triển chậm,
chủ yếu tập trung vào các sản phẩm truyền thống như các loại sản phẩm khô,
mắm và nước mắm. Toàn miền Bắc chỉ có nhà máy đồ hộp Hạ Long (thành lập
năm 1957) là cơ sở chế biến thủy sản công nghiệp phục vụ chủ yếu cho thị
trường nội địa và một số ít nhà máy ở miền Nam chế biến thủy sản đông lạnh.
Sau năm 1975, ở các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang đã
được đầu tư, xây dựng thêm một số cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh bằng
nguồn vốn ngân sách và viện trợ không hoàn lại. Đến năm 1980 đã xây dựng
thêm 16 xí nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh, đưa tổng số nhà máy chế biến
thủy sản trong cả nước lên 40 với tổng cộng cấp đông là 172T/ngày.
Đến cuối năm 1990, số cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh đạt tới con số
102 cơ sở với tổng sản lượng đông lạnh là 60.200T. Ngoài ra, các cơ sở chế biến
nước mắm, chế biến hàng khô, bột cá cũng phát triển mạnh. Cả nước có 73 cơ
sở chế biến nước mắm quốc doanh và hàng chục cơ sở chế biến tư nhân với
công suất khoảng 105 triệu lít/năm. Sản lượng bột cá chế biến hàng năm trên
10.000tấn. Sản lượng thủy sản khô các loại trong năm 1990 khoảng 7.700T.
Từ năm 1991 đến nay, công nghiệp chế biến thủy sản phát triển vượt bậc
không chỉ số lượng mà cả về chất lượng. Nhờ sự giúp đỡ, tư vấn của các chuyên
gia dự án US/VIE.9./058 và dự án Cải thiện chất lượng và xuất khẩu do
5
Website:
Email :
Tel : 0918.775.368
DANIDA tài trợ, các xí nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh đã từng bước nâng
cấp điều kiện sản xuất và xây dựng chương trình quản lý sản xuất theo HACCP
để sản xuất các sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh và có chất lượng nhiều xí
nghiệp được xây mới, cải tạo. Đến cuối năm 1998 đã có 186 xí nghiệp chế biến
thủy sản đông lạnh xuất khẩu với sản lượng sản phẩm thủy sản đông lạnh đạt
khoảng 150.000T/năm; sản phẩm khô là 15.000T; nước mắm 170 triệu lít và
9.000T bột cá. Ngoài công ty Cổ phần đồ hộp Hạ Long, chúng ta đã xây thêm 2
cơ sở sản xuất đồ hộp ở Kiên Giang và Thành phố Hồ Chí Minh, đưa khối lượng
sản phẩm đồ hộp năm 1998 lên 3.480T.
1.3. Khai thác thủy sản
Trong khoảng 15 năm trở lại đây, sản lượng khai thác thủy sản của Việt
Nam đã tăng trưởng liên tục với mức bình quân năm là 6,9%. Lao động trực tiếp
khai thác hải sản cũng tăng và đạt gần 627.000 lao động (1997). Tuy nhiên sản
lượng cá khai thác ở vùng gần bờ chiếm tỷ lệ chủ yếu (trên 800.000 tấn, khoảng
80% tổng sản lượng cá đã khai thác được). Hiện tại mức khai thác ở vùng này
chỉ cho phép đạt 700.000tấn. Trong khi đó tiềm năng nguồn lợi vùng biển xa bờ
còn ít được khai thác, năng suất lao động thấp, tăng trưởng về sản lượng khai
thác chậm hơn so với tăng số lượng tàu thuyền và công suất máy.
Đội tàu khai thác cá biển có trang bị động lực của Việt Nam hiện nay đã
lên đến 71.500 chiếc, với tổng công suất máy 1.850.000CV. Nhưng phần lớn tàu
thuyền có công suất máy nhỏ, loại lắp máy trên 90 CV chỉ chiếm 25%. Do đó rất
hạn chế đi khai thác cá vùng biển xa bờ.
Phần lớn tàu thuyền khai thác hải sản đều kiêm nghề. Ở phía Bắc có số
tàu thuyền khai thác cá đáy chiếm khoảng 35%, cá tầng khoảng 65%. Trong khi
đó, số lượng tàu thuyền nói trên ở miền Trung phân biệt là 28% và 72%, còn ở
Nam Bộ tỷ lệ đó bằng nhau.
Những năm gần đây, được Chính phủ cho phép, Bộ Thủy sản đang thực
hiện chương trình khai thác cá xa bờ, số tàu thuyền có công suất máy lớn đã
tăng lên. Trong tổng sản lượng hải sản 1,35 triệu tấn khai thác năm 2001, đã có
6
Website:
Email :
Tel : 0918.775.368
456 nghìn tấn được đánh bắt trong vùng biển xa bờ, chiếm 33% tổng số, trong
đó sản phẩm làm nguyên liệu xuất khẩu chiếm 30%. Đó chính là kết quả hoạt
động của đội tàu cá xa bờ chỉ chiếm khoảng 26% tổng số tàu.
Năm 2001 cũng là lần đầu Việt Nam thử nghiệm thuê tàu trần và chuyên
gia của nước ngoài để tham gia khai thác trên biển. Và mặc dù còn rất nhỏ bé,
một đội tàu cá đầu tiên của Việt Nam đã lên đường đi khai thác ở vùng biển
nước ngoài theo thoả thuận song phương, rút kinh nghiệm để mở hoạt động cho
những năm sau.
1.4. Đánh giá chung
Những thành tựu trong hoạt động khai thác và nuôi trồng, cộng với sự
chuyển mình mạnh mẽ của các doanh nghiệp chế biến thủy sản đã tạo nên thành
tích to lớn trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản, đạt giá trị 1,7 tỷ USD/năm, chiếm
gần 40% kim ngạch xuất khẩu của cả khối nông nghiệp và trên 12% tổng kim
ngạch xuất khẩu cả nước, đứng thứ 3 sau ngành dầu khí và dệt may.
Bên cạnh các kết quả trên, quá trình liên hợp hóa, hợp tác hoá trong lực
lượng sản xuất như đòi hỏi của tự thân nó trong sự phát triển cũng đang diễn ra
với nhịp độ nhanh chóng, với nhiều cấp độ, qui mô và hình thức. Đến nay, trong
khai thác hải sản đã có 450 hợp tác xã (trên 15 nghìn lao động) và 4.300 tổ hợp
với khoảng 21 nghìn lao động. Trong nuôi trồng thuỷ sản đã có 34 HTX và trên
3.400 tổ hợp. Các HTX và tổ hợp đã đóng góp vai trò tích cực trong các khâu tổ
chức sản xuất, dịch vụ nguyên nhiên liệu, song đó là những nhân tố cần thiết
trên con đường phát triển lực lượng sản xuất theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hóa.
Một số con số của năm 2001:
- Tổng sản lượng: 2.226.900T
- Sản lượng khai thác: 1.347.800T
- Sản lượng nuôi và khai thác nội địa: 879.100T
- Diện tích mặt nước sử dụng để nuôi thủy sản: 887.500 ha
- Kim ngạch xuất khẩu: 1,7 tỷ USD
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: 5.013 tỷ đồng
- Nộp ngân sách nhà nước: 1.350 tỷ đồng
7
Website:
Email :
Tel : 0918.775.368
2. Các vấn đề môi trường trong nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy
sản.
2.1. Trong nuôi trồng thủy sản
Bên cạnh phát triển mạnh, nuôi trồng thủy sản của Việt Nam bộc lộ nhiều
vấn đề bất cập liên quan đến các điều kiện môi trường và kinh tế - xã hội trong
phạm vi từng vùng, từng tỉnh, cũng như trong các hệ sinh thái đặc thù. Việc
thiếu qui hoạch một số loại hình nuôi trồng thủy sản đã gây hại đến môi trường,
đặc biệt ở các vùng ven biển, như chặt cây của rừng ngập mặn và xây dựng đê ở
các vùng triều để nuôi tôm quảng canh, thiếu các công trình kỹ thuật cần thiết để
làm thoái hoá môi trường, sinh thái vùng ven biển, làm giảm năng suất sinh học
của thủy vực, giảm lượng thức ăn tự nhiên, phá hoại các điều kiện tự nhiên thích
hợp cho sự phát triển của ấu thể thuỷ sản khác nhau.
Một số tác động chính đến môi trường có thể thống kê như sau:
- Việc phá các rừng ngập mặn hoặc đắp bờ khoanh vùng rừng ngập mặn
để nuôi tôm quảng canh thô sơ đã gây ra những tác động có hại đến tài nguyên
và môi trường.
Hầu hết các đầm nuôi ven biển phía Bắc Việt Nam là rừng ngập mặn có
nhiều loài cây, nhiều xác cây, lá và các bộ phận khác của cây. Các đầm nuôi chỉ
sử dụng được một thời gian ngắn, sản lượng cá tôm chỉ đạt trung bình 80 -
100kg/ha/năm. Sau vài năm đất trong đầm thoái hoá phải bỏ hoang, gây ra lãng
phí rất lớn về tài nguyên thiên nhiên. Khi xây dựng các đầm người ta thường
phá thảm thực vật ở trong đầm, có khi phá cả các cây ở ngoài bờ đầm, do đó mất
hàng rào bảo vệ chống xói lở đã làm mất nơi ở, nơi cung cấp thức ăn cho nhiều
loài hải sản và nhiều sinh vật khác là thức ăn của chúng.
- Quá trình ôxy hoá trầm tích và hình thành môi trường chua mặn trong
các đầm nuôi. Ở một số đầm chất lượng đất và nước còn tương đối tốt, nhưng do
mặt bờ và sườn bờ không có cỏ, cây trao đổi nước làm cho độ pH giảm nhanh.
Nhiều động vật trong đầm không thích nghi kịp nên bị sốc và chết.
8
Website:
Email :
Tel : 0918.775.368
Ở trong các đầm có nhiều chất hữu cơ, chúng phát triển rất mạnh tạo
thành lớp tảo bám ở đáy cản trở hoạt động của tôm, tiêu hao nhiều O2 vào ban
đêm. Khi chúng chết, bị phân hủy yếm khí tạo ra H
2
S trong đầm gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng.
Kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II cũng cho
thấy các đầm nuôi tôm quang cảnh thô sơ ở Bến Tre qua một số năm sử dụng,
môi trường đã thoái hoá rõ rệt. Nhiệt độ nước trong đầm nuôi tôm thường khá
cao (có khi tới 36 - 37
0
C) do mất đi độ che phủ của cây rừng. Phù sa bồi lắng
làm mương tôm rất cạn (0,3 - 0,5m) độ đục khá cao (5 - 15cm), hạn chế sự phát
triển của tảo và thuỷ sản sinh vật.
- Tác động của việc xây dựng các đầm nuôi tôm quang cảnh đến sự xâm
nhập mặn. Trong những năm gần đây, việc đắp bờ xây dựng hàng loạt các đầm
tôm lớn dọc bờ biển của sông và ven sông đã làm giảm đáng kể diện tích phân
phối nước triều, nhất là vào thời kỳ triều cường.
Một số địa phương trước đây đã quai đê để trồng lúa nhưng do đất chua
mặn, năng suất thấp đã chuyển một phần diện tích sang nuôi tôm, cua, cá nước
lợ ở trong đê như Uông Bí, Yên Hưng (Quảng Ninh), Kiến Thụy, Tiên Lãng
(Hải Phòng). Nhưng do không quan tâm đến việc ngăn chặn suy thoái môi
trường nên năng suất thủy sản giảm. Một số sinh vật chết dần khiến cho quá
trình khoáng hoá các phần hữu cơ bón cho lúa bị cản trở hoặc hạn chế.
- Tác động của việc đắp các đầm tôm quảng canh đến quá trình xói lở ven
biển, ven sông. Bên cạnh việc quai đê lấn biển lấy đất trồng lúa, việc đắp đê để
nuôi tôm đã lấp các nhanh sông nhỏ đổ ra biển, khiến cho đất phù sa bồi tụ dồn
vào cửa sông lớn của hệ sông Hồng hoặc ứ đọng phía trong đê. Ở các cửa sông
nhỏ, không còn đất bồi nên bị sóng làm xói lở mạnh. Điển hình là đoạn bờ dọc
từ Giao Hải đến Văn Lý (tỉnh Nam Hà). Trên một đoàn bờ biển dài 20km không
còn bãi triều lầy và đang bị xói lở mạnh. Cách đây khoảng gần một thế kỷ, một
nhánh cửa sông Hóòng đã đổ ra đây, nhưng nay chỉ còn một nhánh sông Sò với
dòng chảy yếu ớt.
9