Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

quản lý nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nông ngiệp, nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.32 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quản lý Nhà nước, quản lý Nhà nước về kinh tế giữ vị trí đặc biệt
quan trọng, bởi vì lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã khẳng định rằng
không khi nào và không ở đâu có Nhà nước phi kinh tế, đứng bên trên hay
bên ngoài kinh tế. Các hoạt động của Nhà nước (người đại diện trực tiếp là
Chính phủ) đều hoặc là tác động thúc đẩy hoặc là kìm hãm sự vận động của
nền kinh tế, mặt khác bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò quản lý Nhà nước
nền kinh tế quốc dân, thông qua các công cụ quản lý và can thiệp bằng hệ
thống thể chế, chính sách để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế tự
thân vận động nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn và theo quỹ đạo đã lựa
chọn. Điều khác nhau cơ bản giữa các quốc gia là Nhà nước quản lý nền
kinh tế như thế nào, hình thức, mức độ can thiệp, điều tiết ra sao và đến đâu
là hợp lí và thoả mãn được các yêu cầu để đạt tới các mục tiêu đã đặt ra.
Thực tiễn cũng đã chứng minh rằng không có một mô hình nào đúng cho
mọi quốc gia, vì vậy mỗi nước phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể về kinh
tế, chính trị, xã hội, điều kiện cụ thể về các nguồn lực chọn giải pháp phát
triển hữu hiệu nhất cho nước mình.
Là một sinh viên kinh tế Kế hoạch, tôi chọn đề tài “Vai trò của Nhà
nước đối với sự phát triển kinh tế nông ngiệp, nông thôn Việt Nam” bởi
đây là đề tài gần gũi với chuyên ngành của mình.Tuy vậy do khuôn khổ của
đề án có hạn tôi chỉ xin trình bày về sự can thiệp của nhà nước thông qua
các chính sách kinh tế đối với kinh tế nông ngiệp, nông xôn; những mặt đã
đạt được và các biện pháp hoàn thiện các chính sách


1
NỘI DUNG
1.Kinh tế nông thôn
1.1Thế nào là kinh tế nông thôn
Xét về mặt kinh tế - kĩ thuật, kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều
ngành kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công


nghiệp, dịch vụ. Trong dó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành
kinh tế chủ yếu
Xét về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế nông thôn bao gồm nhiều thành phần
kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể.
Xét về mặt không gian và lãnh thổ, kinh tế nông thôn bao gồm các vùng
như: Vùng chuyên canh lúa, vùng chuyên canh cây màu, vùng trồng cây ăn
quả.
1.2.Đặc điểm kinh tế nông thôn
Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Những
điều kiện tự nhiên như đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ mặt trời trực tiếp ảnh
hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi. Nông nghiệp cũng là
ngành sản xuất có năng suất lao động rất thấp, vì đây là ngành sản xuất phụ
thuộc rất nhiều vào tự nhiên; là ngành sản xuất mà việc ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra sản xuất nông nghiệp
ở nước ta thường gắn với những phương pháp canh tác, lề thói, tập quán đã
có từ hàng nghìn năm nay
Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn với địa bàn nông
thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung của nền kinh tế về
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế kinh tế vừa có những đặc
điểm riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn.


2
1.3.Vai trò của kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong phát triển nền kinh tế
quốc dân.
Đánh giá về kinh tế Việt Nam, không nhà kinh tế nào lại không nhìn
nhận rằng đây là một Quốc gia có nền nông ngiệp là chủ yếu, vì lẽ cho tới
nay sản phẩm nông nghiệp làm ra vẫn đang chiếm một tỉ trọng cao trong
tổng sản phẩm quốc nội (trên 30%GDP), hơn nữa trên 70% dân số Việt Nam
vẫn đang sống ở các vùng nông thôn và gần 70% lao động xã hội đang hoạt

động và sinh sống nhờ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Hiện tại cũng như trong nhiều năm tới phát triển nông nghiệp vẫn tiếp tục
ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nền kinh tế, ổn định chính trị và tiến bộ xã
hội của đất nước, góp phần giải quyết vấn đề an toàn lương thực quốc gia và
xuất khẩu, đóng góp đáng kể vào tích luỹ cho nền kinh tế và tạo ra những
nguồn khác có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu. Điều đó không chỉ quan
trọng đối với Việt Nam mà còn với nhiều nước trên thế giới.
Đối với toàn nền kinh tế Việt Nam nông - lâm - ngư nghiệp nông thôn
còn có vai trò làm cơ sở cho quá trình công ngiệp hoá thông qua:
• Cung cấp nguồn vốn lớn, tạo tích luỹ ban đầu.
Đối với nước ta (một nước nông nghiệp) thì việc xuất khẩu nông sản phẩm,
nông nghiệp nông thôn đã góp phần giải quyết một phần nhu cầu vốn cho
nền kinh tế.
• Cung cấp nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành công nghiệp đặc biệt
là công nghiệp nhẹ. Quy mô tốc độ tăng trưởng của nguồn nguyên liệu nông
nghiệp là nhân tố quan trọng quyết định quy mô tốc độ tăng trưởng của các
ngành công nghiệp nhẹ.
• Cung cấp lao động.


3
Với hơn 70% dân số ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào
cho khu vực thành thị. Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế việc
gia tăng dân số ở khu vực thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với
việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông
thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hoá
đất nước.
• Nông thôn là thị trường quan trọng để tiêu thụ các sản phẩm công
nghiệp và dịch vụ từ hàng tư liệu sản xuất, vật tư đến các sản phẩm hàng tiêu
ding, từ đơn giản đến cao cấp. Đây là động lực kích thích các ngành công

nghiệp phát triển.
• Đồng thời phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn là cơ sở để
ổn định kinh tế, chính trị xã hội bởi phát triển kinh tế nông thôn là trực tiếp
góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cư dân nông thôn, tạo cơ
sở ổn định chính trị, xã hội, góp phần củng cố khối liên minh công nông,
tăng cường sức mạnh của chuyên chính vô sản.
Tóm lại: ở hầu hết các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam sẽ
không có sự phát triển quốc gia, nếu không có sự phát triển nông thôn.
Những vấn đề cốt lõi của nghèo đói, bất công tăng lên, dân số gia tăng
nhanh chóng và thất nghiệp ngày càng tăng đều có nguồn gốc ở sự trì trệ và
thụt lùi của hoạt động kinh tế ở các vùng nông thôn so với thành thị. Do vậy
phát triển nông ngiệp và nông thôn là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của đất nước.
2.Vai trò của nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
2.1 Sự cần thiết trợ giúp của Chính phủ đối với phát triển nông nghiệp và
nông thôn.


4
Từ nền kinh tế tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế
thị trường có sự quản lí của Nhà nước là tất yếu khách quan cho các bước đi
tiếp theo của kinh tế nông thôn trong những năm tới. Song chính sự tiếp cận
của một nền kinh tế nông thôn còn rất nghèo nàn với cơ chế thị trường mở
cửa đã và đang vấp phải nhiều vấn đề, chứa đựng nhiều khó khăn mang tính
chất hỗn hợp cả kinh tế và xã hội mà kinh nghiệm quốc tế cho tới nay chưa
cho chúng ta công thức định sẵn để áp dụng cho bất cứ một quốc gia nào. Từ
yêu cầu thực tế của sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta
trong giai đoạn đổi mới đòi hỏi Chính phủ phải có sự can thiệp hợp lí nhằm
tập chung giải quyết tốt các vấn đề sau:
• Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế nông thôn theo hướng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện quy hoạch, phát triển các khu công
nghiệp.
Yêu cầu đặt ra là phải phát triển kinh tế nông thôn, đảm bảo sự tăng
trưởng liên tục, trên cơ sở chuyển dịch từng bước từ thuần nông tự túc, tự
cấp sang cơ cấu kinh tế nông - công ngiệp và dịch vụ theo hướng sản xuất
hàng hoá đa dạng, có năng sất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, dựa
trên việc áp dụng các thành tựu KH - CN mới, trang bị công cụ, thiết bị sản
xuất tiên tiến, sản lượng và giá trị hàng hoá nông -công dịch vụ không
ngừng được nâng cao.
Cơ cấu sản xuất nội tại của nông - lâm - ngư nghiệp, ngành kinh tế trụ cột
của kinh tế nông thôn phải chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá và thâm
canh tăng vụ, sản xuất lương thực đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, đủ
tiêu dùng trong nước, có dự trữ và xuất khẩu có hiệu quả, dành đất cho sản
xuất các sản phẩm có giá trị cao, có nhu cầu tiêu thụ lớn (cả trong nước và
ngoài nước), thay thế dần các sản phẩm giá trị thấp và khó tiêu thụ, khuyến


5
khích và thúc đẩy phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng thâm canh nhằm
tăng nhanh tỉ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp, phát triển mạnh nuôi thả
thuỷ hải sản trên các loại mặt nước có điều kiện đem lại hiệu quả kinh tế
cao, đổi mới phương thức khai thác hải sản ngoài khơi.
Chuyển dịch cơ cấu lâm nghiệp theo hướng phát triển mạnh rừng trồng,
nhất là các loại cây đa tác dụng, cây đặc sản, dược liệu quý có giá trị cao,
cây nguyên liệu lớn nhanh, có thời kì sinh trưởng ngắn và có thị trường tiêu
thụ sản phẩm; đồng thời với việc bảo vệ tốt rừng đầu nguồn xung yếu, rừng
quốc gia và khai thác rừng tự nhiên hợp lí, gắn sản xuất nông - lâm - ngư
nghiệp với công nghiệp chế biến và bảo vệ môi trường trên từng vùng, bảo
đảm phát triển nền nông nghiệp bền vững có hiệu quả cao.
• Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KH - CN trong nông nghiệp nông thôn.

Công ngiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải trang bị kĩ thuật cho các
ngành của nền kinh tế theo hướng hiện đại. Tuy nhiên trong nền kinh tế
truyền thống người nông dân không muốn và cũng không có điều kiện áp
dụng kĩ thuật mới, mà đây lại là yếu tố quyết định sự chuyển động của nông
nghiệp.
Do đó, Chính phủ cần có chính sách giúp đỡ về kĩ thuật (giống mới, biện
pháp canh tác mới) và có biện pháp cụ thể hướng dẫn thực hiện biện pháp
này.
Việc ứng dụng tiến bộ KH - CN vào nông nghiệp chủ yếu tập trung vào
những vấn đề sau:
+ Cơ giới hoá.
+ Thuỷ lợi hoá
+Điện khí hoá


6
+Phát triển công nghệ sinh học
• Đẩy mạnh quan hệ sản xuất phù hợp.
Cần phải tiếp tục giải phóng mạnh mẽ và triệt để sức sản xuất ở nông
thôn nhằm mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất phát triển.
Yêu cầu đặt ra là phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế:
1. Kinh tế hộ nông dân ( kinh tế hộ gia đình )
2. Kinh tế nhà nước
3. Kinh tế tập thể
4. Kinh tế tư nhân
nhằm khai thác triệt để thế mạnh của các thành phần này. Tuy nhiên cần
phải được định hướng đúng đắn lấy thành phần kinh tế là chủ đạo.
• Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn.
Trong tất cả các lĩnh vực hoạt động, nhân tố con người luôn giữ vai trò quyết

định. Sự phát triển của nông nghiệp nông thôn cũng không phải là ngoại lệ.
Nguồn nhân lực ở nông thôn có đặc điểm là trình độ học vấn rất thấp và
phần lớn người lao động không qua đào tạo. Có nhiều nguyên nhân đẫn đến
tình trạng đó: nghèo đói, kinh tế khép kín, chủ nghĩa kinh nghiệm. Trình độ
dân trí thấp là trở ngại không nhỏ đối với sự phát triển của nông nghiệp nông
thôn, trước hết là đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn hiện nay. Bởi vậy đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp nông thôn trở thành nội dung quan trọng trong việc phát triển nông
ngiệp, nông thôn.


7
Do khả năng kinh tế và nhận thức của cư dân nông thôn có hạn, việc đào
tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn phải có sự trợ giúp của Nhà
nước.
• Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn.
Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, hình thức trang trại hộ
gia đình là chủ yếu. Do đó họ không đủ khả năng để xây dựng cơ sở hạ
tầng. Để giúp họ đầu tư theo mô hình lớn Chính phủ cần có chính sách hỗ
trợ họ dưới nhiều hình thức để tạo điều kiện sản xuất và lưu thông hàng
hoá.
• Tạo sự ổn định giá cả.
Sản xuất nông ngiệp có độ rủi ro cao do hoạt động của nó phụ thuộc
nhiều vao điều kiện tự nhiên, đặc biệt là thời tiết. Thời tiết có tác động tới
nguồn nước, giai đoạn sinh trưởng của cây trồng và tình trạng sâu bệnh.
Mặt khác do đặc điểm về sự co giãn của cung - cầu của sản phẩm nông
nghiệp làm cho giá cả sản phẩm có biến động lớn. Do đó Chính phủ cần
có các chính sách bảo hộ và trợ giúp về giá cả tạo sự ổn định cho sản xuất
nông nghiệp.
2.2 Sự điều tiết của Nhà nước đối với kinh tế nông thôn thể hiện qua các

chính sách kinh tế.
Khu vực kinh tế nông thôn là khu vực đặc biệt của nền kinh tế; sự phát
triển của khu vực này có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công
CNH - HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng vai trò đó
không hình thành tự phát, mà tuỳ thuộc rất nhiều vào sự tác động của nhà
nước. Sự tác động ấy thể hiện chủ yếu thông qua các chính sách kinh tế chủ
yếu:


8
1. Chính sách kinh tế nhiều thành phần;
2. Chính sách ruộng đất;
3. Chính sách thị trường;
4. Chính sách đầu tư, phát triển kinh tế nông thôn:
5. Chính sách tín dụng;
6. Chính sách KH, CN và chuyển giao kĩ thuật cho nông dân;
7. Chính sách điều tiết đối với nông dân và kinh tế nông thôn;
8. Chính sách bảo trợ sản xuất đối với một số sản phẩm và vùng sản xuất
quan trọng;
9. Chính sách xã hội;
10. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và khuyến khích cán bộ công tác ở
nông thôn và nâng cao dân trí;
Hoàn thiện và đồng bộ hoá 10 chính sách lớn này sẽ tạo lập được khuôn
khổ pháp lí và môi trường thuận lợi thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn
đạt tốc độ cao trong những năm tới, bởi muốn gia tăng sản xuất và phát triển
kinh tế nông thôn cần phải có động lực, mà động lực sản xuất hàng hoá lại
được kết tinh bởi lợi ích vật chất và nhu cầu của người lao động, mặt khác
nó còn chịu tác động của nhiều yếu tố về chính sách kinh tế của Chính phủ
trong những điều kiện nhất định.
Đối với những vùng chậm phát triển, các chính sách quan trọng trực tiếp

tạo ra động lực: chính sách ruộng đất, khuyến nông - lâm - ngư nghiệp thích
hợp với tập quán, chi thức của từng địa phương, của từng người lao động;
phát triển một số cơ sở hạ tầng thiết yếu, khai thông các mối quan hệ kinh tế,
trao đổi hàng hoá, hỗ trợ vốn sản xuất, miễn giảm thuế sử dụng đất nông
nghiệp để khuyến khích đầu tư chuyển sang sản xuất hàng hoá.


9
Chính vì vậy đối với các vùng bắt đầu bước vào sản xuất hàng hoá cần
phải xử lí triệt để các chính sách ruộng đất, nghiên cứu chuyển giao công
nghệ mới phục vụ phát triển sản xuất tập trung hàng hoá cao. Hỗ trợ vốn cho
các chủ thể sản xuất hàng hoá theo cơ chế thương mại, đồng bộ hoá cơ sở hạ
tầng, phát triển công nghệ phù hợp, bảo trợ sản xuất và khai thông thị trường
để tạo môi trường thuận lợi, kích thích sản xuất hàng hoá phát triển ổn định.
Sau đây tôi xin đề cập tới một số chính sách quan trọng nhằm phân tích
những cái đã đạt được, những cái còn thiếu sót và các giải pháp hoàn thiện
các chính sách ấy.
2.2.1 Chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phẩn trong thời kì quá độ lên Chủ
Nghĩa Xã Hội ở nước ta là một tất yếu khách quan bởi các thành phần kinh
tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tạo
thành cơ cấu kinh tế; đồng thời sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần nước ta
còn đóng vai trò quan trọng:
• Khắc phục tình trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản
xuất, từ đó thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều
kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
• Thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp phần thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các
mặt của đời sống kinh tế - xã hội.

• Cho phép sử dung có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần
kinh tế
Vì vậy thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhà nước phải kiên
trì nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong


10
nông nghiệp, mọi cá nhân, mọi đơn vị kinh tế được khuyến khích phát huy
các thế mạnh của mình, làm giàu bằng sức lao động chính đáng, tạo sự gắn
kết, đan xen, hỗ trợ giữa doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và các cá thể, tư
nhân, để thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong đó doanh nghiệp nhà nước
trong nông - lâm - ngư nghiệp phải giữ vai trò trung tâm thúc đẩy kinh tế
vùng, khuyến khích mạnh mẽ các doanh gia mở rộng đầu tư để thu hút vốn
và lao động tại chỗ.
2.2.2 Chính sách ruộng đất.
Việc ban hành các chính sách về ruộng đất đã thực sự gắn bó mối quan
hệ giữa người lao động nông nghiệp với tư liệu sản xuất chủ yếu (đất đai),
tạo ra sự phấn khởi và thúc đẩy mạnh mẽ thêm động lực trong sản xuất kinh
doanh nông nghiệp.
Việc ban hành chính sách đất đai cởi mở còn tạo điều kiện cho đất đai
vận động theo hướng tích tụ quy mô sản xuất lớn dần lên cùng với quá trình
phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn tạo ra sự phân công lại lao động
thích ứng với quá trình công nghiệp hóa ở nông thôn.
Chính từ những vai trò ấy mà nhà nước cần có cơ chế kiểm tra đôn đốc
các địa phương khẩn trương thực hiện chính sách giao đất, giao rừng, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến hộ nông dân. Cần thể chế hoá năm
quyền trong luật đất đai, khuyến khích quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất
(trong phạm vi cho phép) cho các hộ, trang trại phát triển sản xuất hàng hoá.
Nhà nước cũng cần tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ,
đúng pháp luật các quyền sử dụng đất đai; khuyến khích nông dân thực hiện

“ dồn điền, dồn thửa” trên cơ sở tự nguyện; nông dân sử dụng giá trị quyền
sử dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh,
liên doanh, liên kết…Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mục đích


11
sử dụng đất theo quy hoạch và chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật.
2.2.3 Chính sách thị trường.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế nông thôn gặp nhiều trở ngại
và khó khăn hơn so với khu vực đô thị trong việc tiếp cận các loại thị trường
khác nhau. Bởi vậy muốn giúp cho nông dân, nông nghiệp và nông thôn đi
vào hoạt động kinh tế theo định hướng thị trường mà không chịu nhiều thua
thiệt, cần phải có bàn tay can thiệp của nhà nước. Sự kết hợp hài hoà giữa thị
trường với các chính sách kinh tế đối với nông thôn là điều kiện đảm bảo
cho nông thôn phát triển.
Từ kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm các nước, từ thực tế của nông thôn
Việt Nam trong những năm đổi mới ta thấy rằng Nhà nước cần phải có
hướng dẫn thực hiện đồng bộ các giải pháp:
• Thứ nhất: Nhà nước cần phải có phương hướng cụ thể để phát triển
các loại thị trường ở nông thôn, tạo điều kiện đồng bộ thị trường cho kinh tế
nông thôn chuyển sang sản xuất hàng hoá và phát triển; cần hình thành và
mở rộng nhiều loại thị trường khác nhau nhằm giải quyết đủ các yếu tố đầu
vào và đầu ra của hoạt động sản xuất như:
 thị trường tiêu thụ hàng hoá nông sản cho nông thôn
 thị trường vốn và tư liệu sản xuất cho kinh tế nông thôn
 thị trường lao động và việc làm ở nông thôn
• Thứ hai: về tình hình sản xuất, cạnh tranh và sự biến động giá cả trên
thị trường trong nước và quốc tế.
Trong cơ chế thị trường, giá cả nông phẩm không chỉ ảnh hưởng đến mức

thu nhập, mức sống của người nông dân mà còn ảnh hưởng đến sản lượng


12
nông sản, đến sự ổn định xã hội. Do đó, sự can thiệp của nhà nước vào giá
cả và sản lượng nông phẩm là rất cần thiết.
Trong những năm được mùa, giá cả nông sản thường giảm sút nghiêm
trọng, ảnh hưởng xấu đến đời sống của nông dân và quy mô sản xuất trong
những năm tiếp theo. Nhà nước cần quy định giá sàn đối với nông phẩm. Để
giá sàn được thực hiện trên thực tế, nhà nước cần có hỗ trợ tài chính cho các
công ty thu mua nông sản. Nhà nước cũng cần có dự trữ nhất định về nông
sản để ổn định giá cả vào những lúc giáp vụ, những năm thời tiết không
thuận lợi, thiên tai.
• Thứ ba: để ổn định sản xuất nông nghiệp, nhà nước cần có dự báo về
nhu cầu và hướng dẫn nông dân sản xuất với quy mô phù hợp.
• Thứ tư: nhà nước cần có chính sách khuyến khích xuất khẩu nông sản,
tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản.
2.2.4 Chính sách đầu tư phát triển kinh tế và tín dụng nông nghiệp.
Nhu cầu vay vốn của các hộ nông dân khá lớn nhưng thực tế cho thấy
nguồn vốn từ nội bộ rất nhỏ bé. Trong khi đó, toàn bộ hệ thống có liên quan
đến việc cấp tín dụng cho nông nghiệp nông thôn ( từ trung ương đến địa
phương ) bao gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng phục
vụ người nghèo, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và ngân hàng quỹ
tín dụng nhân dân cơ sở, cho vay giải quyết việc làm của Kho bạc nhà nước,
Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội cựu chiến binh vẫn chưa giải quyết được
vấn đề cho vay vốn với các hợp tác xã, các nông hộ, các trang trại gia đình.
Theo số liệu điều tra còn rất nhiều nông hộ phải đi vay bằng nhiều cách, kể
cả bán “Sản phẩm non”, vay nặng lãi để đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hoá.
Bởi vậy, thông qua chính sách đầu tư tài chính nhà nước phải thực hiện giúp



13
đỡ, tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông dân (nông dân, trang trại gia đình
và kinh tế hợp tác) có vốn hoạt động.
Cần có hướng dẫn cụ thể để thực hiện Quyết định số 67/1999/QĐ - TTg
tháng 3 năm 1999, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã sau chuyển
đổi và hợp tác xã mới thành lập được vay vốn phát triển sản xuất. Đối với
những hợp tác xã có vốn đóng góp không lớn ( dưới 50 triệu), nếu hợp tác
xã có dự án phát triển sản xuất - kinh doanh có tính khả thi, được Uỷ ban
nhân dân xã giám định thì có thể được vay số tiền tương đương số vốn của
hợp tác xã mà không cần thế chấp.
Đồng thời, cần coi trọng việc củng cố và phát triển hợp tác xã, quỹ tín
dụng nông thôn theo tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị ngày 13/10/2000.
Tăng cường hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể quần chúng và chính
quyền cấp xã để các hộ có khó khăn vay vốn sản xuất. Tăng cường kiểm
soát, chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn.
2.2.5 Chính sách KH - CN và chuyển giao kĩ thuật đến nông dân.
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ là một nội dung của
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. nhưng việc ứng dụng tiến bộ khoa
học- công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn gặp rất nhiều trở ngại như: khả
năng có hạn về vốn liếng, tiếp cận thông tin kém, sự cản trở của những lề
thói, tập tục lạc hậu của người nông dân. Do đó, phát triển nông nghiệp,
nông thôn đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước về khoa học - công nghệ.
Chính sách khoa học- công nghệ phải tính tới những đặc điểm của sản
xuất nông nghiệp, khả năng kinh tế và nhận thức, phong tục, tập quán, lề
thói canh tác của cư dân nông thôn đồng thời, chính sách khoa học- công
nghệ còn phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới, chiến lược sản


14

phẩm xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế
giới. Các doanh nghiệp Nhà nước trong nông nghiệp như: công ty giống vật
nuôi, cây trồng; công ty thuỷ lợi, phân bón; công ty xuất khẩu nông sản có
vai trò hết sức to lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến khoa học- công nghệ
cho nông dân. Chính sách khoa học- công nghệ phải được triển khai dựa trên
các hình thức kinh tế này.
2.2.6 Chính sách điều tiết của nhà nước đối với nông dân và kinh tế nông
thôn.
Chính sách điều tiết thể hiện sự tổng hợp nhất mối quan hệ giữa nhà nước
đối với nông thôn và nông dân. Trong những năm đổi mới vừa qua, quan
điểm của nhà nước về chính sách điều tiết là giảm nhẹ gánh nặng các khoản
chi phí của nông dân, đồng thời hỗ trợ các mặt để nông dân, nông thôn vượt
qua đói nghèo, lạc hậu.
Quan điểm đúng đắn này cần được tiếp tục duy trì và thực hiện tốt hơn
trong thực tế, đặc biệt là luật thuế. Trong thời gian tới luật thuế sử dụng đất
nông nghiệp cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện thêm một số nội
dung:
+ Sửa đổi hoàn thiện một số quy định về tăng thuế đối với các trường hợp
đất trồng cây hàng năm chuyển sang cây lâu năm thích hợp, hợac chuyển
sang làm thuỷ sản, lâm nghiệp có mức sinh lời cao hơn.
+ Sửa đổi, hoàn thiện chế độ miễn hoặc giảm thuế đối với những hộ tự bỏ
vốn cải tạo và xây dựng đồng ruộng, mức giảm và miễn thuế bằng giá trị
vốn mà họ bỏ ra để đầu tư xây dựng đồng ruộng của họ.
Cùng với việc hoàn chỉnh các hệ thống thuế cần khẩn trương xem xét lại
các khoản thu dưới dạng phí và lệ phí:


15
- Thuỷ lợi phí: nên giảm dần mức thu thuỷ lợi phí đối với hộ nông dân
để tạo tâm lý an tâm đầu tư thâm canh. Chi phí về quản lý, sử dụng khai thác

công trình cũng như các chi phí khác nên do ngân sách Nhà nước đảm nhận
là chính.
- Các khoản nộp khác: sớm bãi bỏ hoàn toàn những khoản thu bất hợp
lý đối với nông dân.
2.2.7 Chính sách bảo trợ sản xuất đối với một số sản phẩm và vùng sản xuất
quan trọng.
Cần nhanh chóng xây dựng thương hiệu và đăng ký xuất xứ hàng hoá cho
các loại rau, quả, hoa thực hiện xúc tiến thương mại có mục tiêu cụ thể. để
thực hiện được điều trên, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan xúc
tiến thương mại cần giúp đỡ các cơ sở sản xuất, chế biến rau quả xây dựng,
đăng ký thương hiệu hàng hoá, tham gia các hội chợ, giới thiệu sản phẩm
trong và ngoài nước. Cần có biện pháp và cơ chế để cơ quan tham tán
thương mại của Việt Nam ở các nước phối hợp với các doanh nghiệp quảng
bá sản phẩm ở các nước.
Cần tạo điều kiện cho một số vùng tập trung sản xuất các nông sản đặc
trưng.
2.2.8 Chính sách xã hội .
Sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra những tiền đề
thuận lợi để phát triển văn hoá xã hội ở nông thôn. Tuy nhiên, trong điều
kiện cơ chế thị trường, sự phát triển đó không tránh khỏi làm nảy sinh các
vấn đề xã hội: dư thừa lao động, phân hoá giàu nghèo, các tệ nạn xã hội, sự
xuất hiện những tầng lớp xã hội mới. Do đó, Nhà nước phải có các chính
sách nhằm giải quyết và hạn chế những vấn đề xã hội như: chính sách xoá


16
đói giảm nghèo, chính sách phát triển văn hoá, y tế, giáo dục; thực thi luật
pháp và thực hiện công bằng dân chủ ở nông thôn.
2.2.9 Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và khuyến khích cán bộ công tác ở
nông thôn và nâng cao dân trí.

Hiện nay, trình độ cán bộ công tác ở nông thôn còn thấp nhiều so với yêu
cầu, số chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn, không ít chủ nhiệm hợp tác xã có
trình độ văn hoá cấp một. đây là một khó khăn lớn cho việc thực hiện chủ
trương phát triển kinh tế nông thôn trong điều kiện hiện nay. Do vậy, từ cấp
trung ương đến địa phương cần có đề án cụ thể công tác, đào tạo bồi dưỡng
cán bộ nông thôn. rà soát và củng cố hệ thống các trường đào tạo từ trung
ương đến địa phương, xây dựng tài liệu giáo trình, chương trình giảng dạy
về nông nghiệp theo tiêu chuẩn chung của cả nước và phù hợp với từng địa
phương. Trong giai đoạn trước mắt, Nhà nước cần hỗ trợ 100% kinh phí đào
tạo.
Cần coi trọng chất lượng nguồn lao động nông thôn, hiện nay lao động
nông thôn đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp( chỉ đạt 8,3%, thấp từ 3-4 lần
so với lao động thành thị), lực lượng lao động trẻ ở nông thôn chưa qua đào
tạo chiếm tỷ lệ cao.
Việc đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần phải đựơc coi là
chương trình quốc gia. Trước mắt, có thể bằng ngân sách nhà nước kết hợp
với các chương trình, dự án và người lao động tự đóng góp để nhanh chóng
nâng cao trình độ lao động nông thôn.
Mặt khác cũng cần phải có các chính sách khuyến khích cán bộ đang
công tác ở nông thôn: chính sách lương bổng, những ưu đãi đặc biệt…



17


18
KẾT LUẬN
Đánh giá hiệu quả nhiều chính sách kinh tế đối với kinh tế nông nghiệp,
nông thôn ta có thể thấy rằng: các chính sách, sự điều tiết của Nhà nước đã

thu được thành công cơ bản nhất là khơi dậy và phát huy động lực tiềm tàng,
sức năng động, sáng tạo của đông đảo quần chúng lao động trong cả nước
phấn đấu trong phát triển kinh tế. Cơ chế mới đã tạo ra và thúc đẩy các chủ
thể kinh tế và người lao động theo hướng hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất
kinh doanh. Chính nhờ vậy mà chúng ta đã đạt được tốc độ phát triển kinh tế
cao làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống nhân dân.
Song, theo thời gian cũng đã bộc lộ khá rõ nét sự can thiệp của Nhà nước
trong một số lĩnh vực còn lúng túng, chậm, chưa đủ sức hạn chế các yếu tố
tiêu cực, tự phát, trong cơ chế thị trường. Vì vậy hiện tượng tự phát trong
một số lĩnh vực đã diễn ra và có thể gây nhiều hậu quả khó lường cho phát
triển lâu dài. Vì vậy các chính sách cũng như sự can thiệp của Nhà nước cần
phải đổi mới và hoàn thiện hơn.
DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác - Lênin.
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2002.
2. Giáo trình Kinh tế phát triển.
Chủ biên: GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng.
Nhà xuất bản Lao Động - Xã Hội.
3. Tạp chí Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn - Số10/2004
4. Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam.


19
Chủ biên : Nguyễn Văn Bính, Chu Tiến Quang.
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1996
5. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Một số vấn đề
thực tiễn.
Tác giả: Hồng Vinh
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1998

MỤC LỤC
Trang
Phần1: Mở đầu 1
Phần2: Nội dung
1. Kinh tế nông thôn 2
1.1 Thế nào là kinh tế nông thôn 2
1.2 Đặc điểm kinh tế nông thôn 2
1.3 Vai trò của kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong phát triển nền kinh tế quốc dân
2. Vai trò của nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn 4


20
2.1 Sự cần thiết phải có sự trợ giúp của Chính phủ đối với phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn 4
2.2 Sự điều tiết của Nhà nước đối với kinh tế nông thôn thể hiện qua các chính sách. 6
2.2.1 Chính sách kinh tế nhiều thành phần. 8
2.2.2 Chính sách ruộng đất. 8
2.2.3 Chính sách thị trường. 9
2.2.4 Chính sách đầu tư phát triển kinh tế và tín dụng nông nghiệp. 9
2.2.5 Chính sách khoa học, công nghệ và chuyển giao kĩ thuật đến nông dân. 10
2.2.6 Chính sách điều tiết của nhà nước đối với nông dân và kinh tế nông thôn. 10
2.2.7 Chính sách bảo trợ sản xuất đối với một số sản phẩm và vùng sản xuất quan
trộng. 11
2.2.8 Chính sách xã hội. 11
2.2.9 Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và khuyến khích cán bộ công tác ở nông thôn và
nâng cao dân trí. 12
Phần3: Kết luận 16
Danh mục sách tham khảo



21

×