Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề
Bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong bộ máy nhà nước, không một cơ
quan nào nắm trọn vẹn một nhánh quyền lực nhà nước. Hoạt động của mỗi cơ quan
nhà nước đều nằm trong mối liên hệ với các cơ quan nhà nước khác, đều chịu sự
kiểm tra giám sát của các cơ quan nhà nước khác hoặc của các tổ chức xã hội, công
dân. Trong tổng hoà các mối quan hệ đó, “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm truớc nhân dân địa
phương và cơ quan Nhà nước cấp trên” Điều 119,Hiến Pháp năm 1992 (sửa đổi bổ
sung năm 2001); Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo
hiến pháp và pháp luật; “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan
chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp và luật, các văn bản của các cơ quan Nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp” (Điều 123 của Hiến
pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001).
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy hoạt động của Hội đồng nhân dân đã
ngày càng hiệu quả hơn. Các hình thức, phương pháp, nội dung giám sát phong phú
đã mang lại những kết quả nhất định góp phần vào việc thực hiện các nhiệm vụ,
mục tiêu kinh tế, xã hội, tăng cường hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân cùng
cấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân;
Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa
phương, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế: Hiến pháp, pháp luật ở một số nơi
vẫn chưa được thực hiện nghiêm minh; Kỷ cương hành chính vẫn chưa được củng
cố vững chắc; Các hiện tượng tham nhũng tiêu cực trong cơ quan hành chính vẫn
chưa được đẩy lùi ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân và hoạt động của bộ máy
hành chính Nhà nước.
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung chức năng lãnh
đạo của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp. Điều lệ Đảng được Đại hội X thông qua
đã chỉ rõ: “Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức
đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng, đảng viên chịu sự
kiểm tra, giám sát của Đảng”. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
cũng nêu: “Kết hợp giám sát Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân
dân”. Đây là nội dung mới có tác động đến hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân vì nếu nội dung, thời gian, các đợt giám sát của Đảng, Mặt trận tổ quốc, Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh không kết hợp hài hoà đã và sẽ có nơi, có lúc thực hiện
chồng chéo gây khó khăn bất cập cho các cơ quan hành chính. Sự giống và khác
nhau về hoạt động kiểm tra giám sát của Tổ chức Đảng đối với các cơ quan hành
chính như thế nào? Thực tiễn đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu làm rõ những cơ
sở lý luận cũng như hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đặt trong
mối tương quan các chức năng giám sát của Tổ chức đảng, các tổ chức chính trị xã
hội và công dân… đã được pháp luật quy định.
Từ những vấn đề trên cùng với lĩnh vực công tác của mình, học viên chọn
vấn đề “Kiểm soát đối với hoạt động của cơ quan hành chính cùng cấp thông
qua hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” để bước đầu nghiên
cứu đồng thời đề xuất một số giải pháp để hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh ngày càng tiến bộ, hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu của tiểu luận
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đã được nghiên cứu và quy định
trong Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992; Luật Tổ chức HĐND và UBND
2
năm 1994 (sửa đổi năm 2003); Quy chế Hoạt động của HĐND năm 1996, Quy chế
Hoạt động của HĐND 2005; Nhiều văn bản pháp luật khác.
Bến cạnh đó, nhiều cuộc Hội thảo đã được tổ chức thường xuyên trong cả
nước, thảo luận thông qua các cuộc giao ban định kỳ của các tỉnh đồng bằng sông
Hồng, các tỉnh đồng bằng Nam Bộ…(một năm 2 lần)
Các bài viết của nhiều tác giải đang trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Nhà
nước và Pháp luật…
Tuy nhiên, từ thực tiễn công tác, học viên thấy rằng mảng nghiên cứu này
còn hạn chế, chưa bắt kịp những thay đổi đang diễn ra trong đời sống thực tiễn,
chưa cập nhật kịp thời trong các văn kiện của Đảng và Pháp luật của Nhà nước, đặc
biệt làm thế nào để khắc phục việc chồng chéo trong việc thực hiện chức năng giám
sát trong bộ máy Nhà nước xét về tổng hoà các mối liên hệ thì liên quan đến cả
tổ chức Đảng vì Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung chức
năng lãnh đạo của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp. Điều lệ Đảng được Đại hội X
thông qua đã chỉ rõ: “Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ
chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng, đảng viên chịu
sự kiểm tra, giám sát của Đảng” và Nhà nước ta lại là nhà nước đơn nhất.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận “ Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh “ tập trung
nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
Về nội dung, hình thức và phương pháp giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
Mối quan hệ giữa chức năng giám sát của Tổ chức đảng, các tổ chức chính trị-xã
hội, toà án và công dân. Đặc biệt là tìm ra sự giống và khác nhau trong việc thực
hiện chức năng giám sát của tổ chức đảng với chức năng giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh để hoạt động này không bị chồng chéo gây khó khăn cho các cơ
quan hành chính. Đề tài cũng nêu thực tiễn hoạt động của hội đồng nhân dân một
số tỉnh khu vực Đồng bằng sông Hồng trong thời gian gần đây. Từ đó đề xuất các
giải pháp để nâng cao hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
3
4. Đối tượng nghiên cứu
Là hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh từ năm 2004 đến nay trong vai trò cơ quan quyền quyền lực
kiểm soát hoạt động hành chính nhà nước cùng cấp.
5. Phương pháp luận: Tiểu luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác- lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm về hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh của Đảng, Nhà nước ta trong những năm qua.
6. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện nhiệm vụ trên, tiểu luận sử dụng phối
hợp các nhóm và phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Nghiên cứu các văn kiện của đảng, các tài liệu tham khảo, các chương trình
nghiên cứu có lien uqan nhằm xác định cơ sở lý luận của tiểu luận.
- Phân tích, tổng hợp, so sánh một số các dữ liệu có liên quan.’
- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý có kinh nghiệm về
vấn đề nghiên cứu
- Nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm của một số tỉnh để đưa ra giải pháo có
tính khả thi phù hợp với điều kiện của Việt nam
- Sử dụng Internet để tra cứu thêm tài liệu, sử dụng các công cụ hỗ rợ như
chương trình Microsofs, Word để làm phương tiện thực hiện
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung tiểu
luận được thể hiện ở 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận và pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh.
- Chương II: Thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
- Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
8. Đóng góp của tiểu luận
4
Về chủ quan, học viên mong muốn tiểu luận sẽ đóng góp về những nội dung
cơ bản về lý luận liên quan đến hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
Phản ánh và phân tích được thực trạng tình hình hiện nay; đề xuất một số giải pháp
trong thời gian tới; Tiểu luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, công tác của những người quan tâm đến hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh như lắng nghe một tiếng nói từ thực tiễn sinh động của cuộc
sống.
5
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
- Quyền lực nhà nước: Là thuật ngữ để chỉ “ Tiềm năng của chính thể (nhà
nước) được tổ chức chính trị (đảng hay liên minh giữa nhiều đảng) hoặc toàn thể
công dân tập hợp, xây dựng trong một quốc gia nhằm buộc mọi cá nhân, tổ chức
hay toàn xã hội phải phục tùng, hành động hay xử sự theo những qui định nhất định
để nhà nước thực hiện đúng các chức năng và quản lý mọi lĩnh vực đời sống xã
hội” Học Viện Hành chính Quốc gia (2002), Thuật ngữ hành chính, HN.
- Kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước: Là hoạt động đặc
biệt, là chức năng nhà nước và xã hội đặc thù nhằm đảm bảo pháp chế và kỷ luật
trong quản lý hành chính nhà nước. Đó là tổng thể những phương tiện tổ chức –
pháp lý được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân sử dụng nhằm đảm
bảo pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước, thiết lập trật tự trong
quản lý, bảo vệ các quyền , tụ do, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của nhà
nước, xã hội.
- Giám sát: Dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, toà
án, các tổ chức xã hội và công dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp
luật trong quản lý xã hội. Như vậy, hoạt động giám sát chủ yếu thực hiện ngaòi
quan hệ trực thuộc theo chiều dọc.
- “Giám sát là chức năng hiến định của các cơ quan quyền lực nhà nước.
Chức năng này xuất phát từ địa vị chính trị - pháp lý của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân . Đây là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do
nhân dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đó là những cơ quan trực tiếp
nhất nhận quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà
6
nước. Mặt khác còn xuất phát từ tính chất chấp hành và điều hành của hoạt động
hành chính nhà nước trong quan hệ đối với hoạt động lập pháp.”( Học viện Hành
chính Quốc gia- Khoa Nhà nước và Pháp luật - Giáo trình Luật Hành chính và Tài
phán hành chính - Nhà xuất bản Giáo dục , 2006).
Các cơ quan quyền lực nhà nước Việt Nam bao gồm: Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp. Trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, Hội
đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (hiện nay, Hội
đồng nhân dân các cấp gồm: HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mà
sau đây gọi chung là HĐND cấp tỉnh, HĐND cấp huyện, HĐND cấp xã); Văn kiện
đại hội X của Đảng đã có chủ trương bỏ HĐND cấp huyện nhưng hiện mới thực
hiện thí điểm ở một số tỉnh).
Điều 119, Hiến Pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) qui định “Hội
đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm truớc nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”.
Điều 1, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân qui định:Hội
đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy
tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhan dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường
trực HĐND, UBND, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp, giám sát
việc thực hiện các nghị quyết của HĐND, giám sát việc tuân theo pháp luật của các
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở
địa phương.
7
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1. Địa vị pháp lý của HĐND cấp tỉnh
Hiện nay, trong hệ thống các cơ quan nhà nước, Quốc hội luôn đứng ở nấc
thang quyền lực cao nhất và trong mọi quan hệ tính trội luôn thuộc về Quốc hội.
Phạm vi, nội dung, quyền hạn, hình thức, phương pháp giám sát của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội được qui định trong Hiến pháp hiện hành,
Luật Tổ chức Quốc hội và các quy định pháp luật khác.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh mà tiểu luận đề cập có
căn cứ tương tự phạm vi, nội dung, quyền hạn, hình thức, phương pháp giám sát
của Quốc hội nhưng ở nấc thang quyền lực thấp hơn, trên địa bàn lãnh thổ xác định.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chịu sự giám sát và hướng dẫn của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực
hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo Quyết định của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội.
2. Về tổ chức, nhiệm kỳ của HĐND cấp tỉnh
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thường trực HĐND, có các Ban HĐND gồm:
Ban Kinh tế- Ngân sách, Ban Văn hoá Xã hội, Ban Pháp chế, Nơi nào có đông tỷ lệ
dân số là đồng bào thiểu số thì thành lập thêm Ban Dân tộc. Số lượng đại biểu Hội
đồng nhân dân đại biểu Hội đồng nhân dân và thể thức bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp do Luật bầu cử Hội đồng nhân dân qui định.
Nhiệm kỳ HĐND cấp tỉnh mỗi khoá là 5 năm (riêng khoá hiện hành, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội quyết định kéo dài thêm 1 năm để phù hợp với nhiệm kỳ đại
hội Đảng và bầu cử Quốc hội vào năm 2010).
8
Hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân được bảo đảm bằng hiệu quả của
các kỳ họp Hội đồng nhân dân, hiệu quả hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân
dân, các Ban hội đồng nhân dân và của đại biểu hội đồng nhân dân.
Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân
dân và các ban Hội đồng nhân dân phối hợp chặt chẽ với Ban Thường trực Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các tổ chức thành viên khác, chăm lo bảo vệ lợi ích của
nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước và thực hiện
nghĩa vụ đối với nhà nước.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được tiến hành thường
xuyên gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.Giám
sát Hội đồng nhân dân bao gồm: Giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp; Giám
sát của Thường trực Hội đồng nhân dân; Giám sát của các ban Hội đồng nhân dân
và giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Việc giám sát thông qua xem xét báo cáo của UBND, toà án nhân dân, Viện
Kiểm sát nhân dân cùng cấp
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt đọng này còn gặp nhiều bất cập:
Trước hết về thời gian, Luật Tổ chức HĐND vàUBND qui định các cơ quan phải
gửi báo cáo đến HĐND tỉnh trước ngày khai mạc kỳ họp 15 ngày song hầu như
không kỳ họp nào thực hiện được điều này, có chăng là Hội đồng nhân dân chỉ
nhận được báo cáo tóm tắt và chỉ sát nút kỳ họp mới nhận được báo cáo chính thức.
Có nơi, khắc phục bằng cách đi khảo sát trước (lách luật ở chỗ phải có báo cáo
chính thức mới đi thẩm tra được).
Điều này đôi khi dẫn đén chất lượng thẩm tra các báo cáo trên có lúc còn hạn
chế.
Qua giám sát, nổi cộm một vấn đề khá bức xúc là: Trong đội ngũ công chức
lãnh đạo các cơ quan hành chính hiện nay, có một bộ phận hạn chế về kiến thức và
khả năng thực thi pháp luật dẫn đến sự biện dẫn và giải trình pháp luật một cách tuỳ
9
tiện.Chính vì thế, hoạt động giám sát của HĐND là một phương thức để kiểm soát
rất tốt sự bao biện này và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh
4. Chất vấn tại kỳ họp
Một hình thức giám sát nữa là Hội đồng nhân dân xem xét việc trả lời chất
vấn của Chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND, các thành viên khác của uỷ ban nhân
dân, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân, viên trưởng viện
kiểm soát nhân dân, Chánh án toà án nhân dân cùng cấp:
Trên thực tế, mặc dù gần đây đại biểu HĐND đã đưa ra những câu hỏi chất
vấn sát thực và lựa chọn được những vấn đề trọng tâm song các báo cáo giải trình
của các đối tượng trên có nơi vẫn còn chung chung, thiếu thuyết phục, thậm chí bao
biện, chỉ đến khi có kỳ họp một số đại biểu có năng lực, tâm huyết chất vấn đến
cùng mới thừa nhận có khuyết điẻm trong việc chấp hành và điều hành của mình.
Theo kinh nghiệm của Hội đồng nhân dân thành phố Hà nội: Muốn thực
hiện có hiệu quả phiên chất vấn và trả lời chất vấn thì công tác tổ chức phải rất
công phu tỉ mỉ, bao gồm:
Phát huy trách nhiệm của các ban, tổ đại biểu và đại biểu HĐND, xác định
đúng và trúng nội dung chất vấn; Nội dung chất vấn phải ngang tầm, thể hiện rõ
trách nhiệm của người nêu câu hỏi chất vấn. đó phải là những vấn đề quan trọng có
liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, những vấn đề bức xúc mà cử tri, dư luận đặc
biệt quan tâm.
Việc điều hành của chủ toạ kỳ họp cần linh hoạt, chủ động vừa phát huy
được trí tuệ tập thể, thể hiện không khí dân chủ, xây dựng; Không làm căng thẳng
không khí nghị trường. Gắn hoạt động chất vấn như một phiên giám sát chuyên đề
tại kỳ họp, là diễn đàn để gắn kết cử tri và nhân dân với cơ quan và chính quyền,
kết hợp tuyên truyền và giải thích, tạo sự đồng thuận trong nhân dân với những chủ
trương chính sách của thành phố.
10
Các cơ quan, người được phân công trả lời chất vấn, khi trả lời chất vấn cần
đi thẳng vào nội dung vấn đề, trong đó tập trung vào những giải pháp khắc phục,
không trình bày tràn lan hoặc đọc báo cáo thành tích, dành thời gian cho đại biểu
HĐND có điều kiện tái chất vấn trực tiếp.
Quan tâm nâng cao kỹ năng chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân. Trước
khi nêu câu hỏi chất vấn đại biểu cần tìm hiểu câu hỏi thực tế, thu thập cúa liệu cần
thiết, nắm chức pháp luật và cập nhật những chủ trương, chính sách mới. Khi đưa
ra nội dung chất vấn cần phải có thái độ xây dựng. Câu hỏi cần ngắn gon, cụ thể, đi
thẳng vào nội dung cần giải đáp để giúp người trả lời hiểu đúng tinh thần, nội dung
cần giải trình làm rõ.
- Đôn đốc thực hiện kết các kết kuận chất vấn: Vấn đề hậu chất vấn thường
là khâu yếu của HĐND cấp tỉnh. Cần phải phân công các Ban, Văn phòng HĐND
theo dõi đến cùng để thực hiện.
Hội đồng nhân dân cũng giám sát thông qua việc xem xét văn bản quy phạm
pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân dưới
một cẩp trực tiếp, khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cùng cấp. Thực tiễn cho thấy, mặc dù đã tích cực giám sát nội dung này, nhưng
không hết, vì theo một số thông báo của Bộ tư pháp văn bản qui phạm pháp luật
của các tỉnh vẫn còn sai phạm nhiều.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ thành lập đoàn giám sát khi cần thiết, thậm
chí bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.Việc
này hiếm khi xảy ra trên thực tế, ở một vài nơi do cán bộ vi phạm nghiêm trọng.
công luận lên án thì mới tiến hành theo sự chỉ đạo của cấp uỷ Đảng.
Trong lĩnh vực kinh tế, Hội đồng nhân dân được thực hiện những nhiêm vụ,
quyền hạn sau: Quyết định quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm về phát triển
kinh tế, xã hội, sử dụng đất đai, phát triển ngành và qui hoạch xây dựng, phát triển
11
đô thị, nông thôn trong phạm vi quản lý; lĩnh vực đầu tư và qui mô vốn đầu tư theo
phân cấp của chính phủ; Quyêt định qui hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới
khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công ở địa phương và thông qua cơ chế khuyến
khích phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển các thnàh phần
kinh tế ở địa phương, bảo đảm quyền tư chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở
kinh tế theo qui định pháp luật; Quyết định dự toán thu chi ngân schs nhà nwocs
trên địa bàn, chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, phê
chuẩn quyết toán ngân sách địa phương, quyết định các chủ trương, biện pháp triển
khai thực hiện ngân sách địa phương, điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương
trong trường hợp cần thiết; Giám sát việc thực hiện ngân sách địa phương do Hội
đồng nhân dân quyết định.
Đây là một nội dung giám sát gặp nhiều bất cập trong thực tế vì việc báo cáo
từ cơ sở đến tỉnh vào giữa năm và cuối năm là hai kỳ họp thường niên theo luật
định không kịp thời do đó chỉ là các số dự kiến và cách một năm sau Hội đồng
nhân dân mới thông qua quyết toán cụ thể…; Hiện nay trong các cuộc giám sát việc
qui định cơ chế mời chuyên gia chưa rõ ràng nên khó khăn trong việc ra các quyết
định cá biệt áp dụng pháp luật.
5. Giám sát chuyên đề
Là một trong những hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân có một vị trí,
ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân vì cuộc
giám sát này thực hiện theo chương trình, kế hoạch của HĐND tỉnh và các ban, tập
trung vào các vấn đề bức xúc, những vấn đề có phạm vi ảnh hưởng rộng, có tác
dụng thiết thực ở địa phương. Giám sát chuyên đề phải tuân thủ đầy đủ theo Luật
Tổ chức và UBND và Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005.Trung bình đối với
HĐND cấp tỉnh một năm có khoảng 10 cuộc giám sát chuyên đề.
Kinh nghiệm thực tế của HĐND tỉnh Quảng Ninh cho thấy: Nhận thức
của một số ngành cơ sở còn chưa thật đúng và thống nhất. Giám sát là hình thức
thực thi quyền lực của cơ quan quyền lực nhà nước, là hoạt động thực hiện chức
12
năng của HĐND với tư cách cộng đồng trách nhiệm trong chính quyền địa phương,
nhằm động viên những mặt tốt, phòng ngừa những sai sót, kiến nghị những giải
pháp và ngăn chặn những sai trái. Qua giám sát HĐND còn phải tự giám sát mình
để nhanh chóng điều chỉnh những quyết định sát đúng với thực tiễn hơn, kịp thời
hơn. Tuy nhiên một số cơ quan hành hcính còn có biểu hiện cho rằng giam sát là
tìm khuyết điểm, cá biệt còn cho là gây khó khăn cho công tác điều hành của cơ
quan, từ đó phát sinh tâm lý không cởi mở, báo cáo không đầy đủ theo yêu cầu,
chưa đúng sự thật làm cho việc xem xét thiếu khách quan, đồng thời khi nhận được
yêu cầu kiến nghị của HĐND chưa tập trung xem xét giải quyết một cách nghiêm
túc kịp thời.
Giám sát là một hoạt động rất khó, đòi hỏi rất cao đối với người giám sát.
Giám sát là theo dõi, xem xét, đánh giá vì vậy để gi ám sát có hiệu quả người giám
sát phải nắm chắc đwongf lối chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, thẩm
quyền của từng cấp và tình hình thực tiễn của địa phương, chọn lựa nội dung có
trọng tâm, trọng điểm, có phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, phân loại
khoa học, khách quan thể hiện chính kiến rõ ràng, động viên mặt tốt nhưng kiên
quyết đấu tranh với những khuyết điểm, bảo vệ việc làm đúng, phương pháp tiến
hành phải chặt chẽ, đúng nguyên tắc nhưng linh hoạt.Do đó phái chọn lực nhưng
người có năng lực có tố chất dám làm dám chịu trách nhiệm, tâm huyết với công
việc.
13
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1. Phối kết hợp hài hoà việc thực hiện các chức năng giám sát của Tổ chức
Đảng (từ đại hội X), Mặt trận tổ quốc và các thành viên, Giám sát xã hội… bằng
các quy chế phối hợp, lồng ghép các chương trình, nội dung, thời gian giám sát,
nếu phù hợp thì phối kết hợp cùng một đoàn nghe báo cáo, đi cơ sở, lấy ý kiến cử
tri, và thống nhất xử lý khi đã có ý kiến đề nghị theo thẩm quyền của các cơ quan
giám sát, tránh sự chồng chéo trong giám sát và kết luận giám sát.
2. Quốc hội sớm ban hành Luật giám sát Hội đồng nhân dân và thường
xuyên tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao năng lực của các công chức làm việc trong cơ
quan dân cử để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
3. Về tổ chức, cần thiết lãnh đạo các Ban HĐND là chuyên trách, có chế độ
đại biểu chuyên trách ở cơ quan Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
4. Các chế tài về giải quyết kiến nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân,
các ban Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân cần cụ thể hơn.
5. Chính phủ sớm ban hành qui định về chức năng, nhiệm vụ của chuyên
viên Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (vấn đề này đã đựơc Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội giao cho Chính phủ tại điều 79 Quy chế hoạt động của HĐND
năm 2005),
6. Lựa chọn nội dung, phươg thức đổi mới trong quá trình giám sát
7. Nâng cao hoạt động giám sát qua kỳ họp. Phát huy trách nhiệm của các
ban, tổ đại biểu và đại biểu HĐND, xác định đúng và trúng nội dung chất vấn; Nội
dung chất vấn phải ngang tầm, thể hiện rõ trách nhiệm của người nêu câu hỏi chất
14
vấn. đó phải là những vấn đề quan trọng có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp,
những vấn đề bức xúc mà cử tri, dư luận đặc biệt quan tâm.
8. Hỗ trợ các điều kiện cần thiết cho hoạt động giám sát
9. Tăng cường tiếp xúc cử tri, lấy ý kiến nhân dân.
KẾT LUẬN
Tăng cường năng lực của các cơ quan dân cử là ba khía cạnh then chốt của
quản trị quốc gia theo nguyên tắc dân chủ (gồm:Cải cách hành chính/ Chế độ pháp
quyền/ Tăng cường năng lực của các cơ quan dân cử);
Giám sát là một trong những chức năng cơ bản của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh và là một yếu tố tất yếu trong qui trình lập pháp, có mục đích đảm bảo các yêu
cầu hợp pháp và chính sách được chấp hành một cách dân chủ và đúng đắn, hiệu
quả và hiệu lực. Quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện chức
năng giám sát càng lớn thì tiếng nói của Hội đồng nhân dân sẽ càng có trọng lượng
trong quyết định giám sát chính sách và luật pháp. Hội đồng nhân dân cần luôn cập
nhật các định hướng cơ bản trong quá trình giám sát để nâng cao vai trò và hiệu lực
quản lý của Nhà nuớc cần phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm
vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
duới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nuớc Việt Nam trong mục tiêu phấn đấu cần tập trung
làm tốt các chức năng: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị truờng. Đổi
mới căn bản công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế
thị truờng định huớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa
mọi lợi thế so sánh của quốc gia, vùng và địa phuơng, thu hút mọi nguồn lực tham
gia phát triển kinh tế - xã hội;Tạo môi truờng pháp lý và cơ chế, chính sách thuận
lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh
doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương;
Hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, hệ
15
thống an sinh xã hội; Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ
mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị truờng;Nhà nước tác
động đến thị truờng chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế;
đồng thời sử dụng kịp thời có hiệu quả một số biện pháp cần thiết kế khi thị truờng
trong nuớc hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường khu vực và thế giới có
biến động lớn;Thực hiện quản lý nhà nuớc bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự
can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách chức
năng quản lý hành chính của Nhà nuớc khỏi chức năng quản lý kinh doanh của
doanh nghiệp, xoá bỏ “chế độ chủ quản”; tách hệ thống cơ quan hành chính công
khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công cộng (giáo dục,
khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá, thể dục thể thao).
Giám sát là để phát triển./.
16
MỤC LỤC
17