Kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước
1
Chương I
Nguyên tắc và phương thức kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà
nước
I - Quản lý hành chính nhà nước - đối tượng của hoạt động kiểm soát
1. Cơ sở của hoạt động kiểm soát đối với quản lý hành chính nhà nước
Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp,
hành pháp, tư pháp là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước ta và khác về bản chất so với cách thức tổ chức, hoạt động bộ
máy nhà nước tư sản. Trong bộ máy nhà nước không một cơ quan nhà nước nào
trọn vẹn nắm một nhánh quyền lực nhà nước. Hoạt động của mỗi cơ quan nhà
nước nằm trong mối liên hệ với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác, đều
chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan khác, hoặc của các tổ chức xã hội, công
dân.
Trong quá trình từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hình thành cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau
giữa các cơ quan nhà nước, các thiết chế xã hội để chống những biểu hiện lạm
quyền, vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành
chính nhà nước, bảo đảm và bảo vệ các quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công
dân, của nhà nước, của xã hội.
ở nước ta, chức năng quản lý hành chính nhà nước chủ yếu do các cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện, có nghĩa là thực hiện hoạt động chấp hành các
2
quyết định pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước và điều hành các quá
trình phát triển xã hội trên cơ sở và để thi hành pháp luật. Nói cách khác, bộ
máy hành chính Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước
bằng pháp luật. Trong quá trình đó đòi hỏi các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước chấp hành nghiêm chỉnh, thường xuyên, đúng đắn pháp luật nhằm duy trì
một trật tự, kỷ cương và pháp chế. Vì vậy, bảo đảm pháp chế trong tổ chức và
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước là một yêu cầu thường xuyên.
Thiếu nó, hoạt động quản lý hành chính nhà nước sẽ bị rối loạn và không thể
kiểm soát được dẫn tới tình trạng vô chính phủ.
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính dưới luật, điều đó đòi
hỏi mọi hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phải bị kiểm soát của
các cơ quan nhà nước khác, của các tổ chức xã hội và công dân, nhằm đảm bảo
pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động kiểm soát đối
với quản lý hành chính nhà nước không đối lập, không cản trở hoạt động đó,
ngược lại làm cho nó trở nên trong sạch, lành mạnh và vững mạnh hơn.
Mặt khác, pháp chế sẽ không được đảm bảo nếu kỷ luật Nhà nước cũng
như kỷ luật lao động, kỷ luật trực thuộc trong hoạt động công vụ, kỷ luật tài
chính, kỷ luật kế toán, kỷ luật trong hoạt động thông tin, văn bản... không được
các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nước thực hiện nghiêm túc. Đồng
thời, tình trạng thiếu kỷ cương, trật tự trong hoạt động của bộ máy hành pháp sẽ
tác động tiêu cực đến tình trạng pháp chế, tới việc thực hiện pháp luật của công
dân. Vì vậy, việc kiểm soát nhằm đảm bảo kỷ luật trong quản lý hành chính nhà
nước là tiền đề để bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
2. Các phương thức kiểm soát đối với hành chính nhà nước
Mỗi loại cơ quan nhà nước được thành lập thực hiện những chức năng nhất
định. Quốc hội có chức năng lập hiến, lập pháp; giám sát tối cao việc tuân theo
3
Hiến pháp, luật, Nghị quyết Quốc hội đối với toàn bộ bộ máy nhà nước; giải
quyết những vấn đề hệ trọng của đất nước. Các cơ quan hành chính nhà nước từ
Trung ương tới địa phương chủ yếu thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà
nước. Trong đó bao gồm: hoạt động quản lý hành chính nhà nước và một số
hoạt động khác có tính chất tài phán... Toà án có chức năng xét xử là chủ yếu,
đồng thời thông qua hoạt động xét xử, giám sát việc tuân theo pháp luật của các
cơ quan nhà nước khác, trong đó có bộ máy hành chính. Viện kiểm sát với chức
năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà cụ thể là kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án.
Ngoài những chức năng, phương diện hoạt động chủ yếu của mình, các cơ
quan nhà nước còn thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra... nhằm bảo
đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước.
Nếu loại hoạt động này không được thực hiện tốt sẽ làm ảnh hưởng, tác
động tiêu cực, giảm hiệu quả việc thực hiện chức năng chính. Thực hiện có hiệu
quả hoạt động mang tính tích cực (hoạt động tổ chức - điều chỉnh) và hoạt động
bảo vệ pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước là hai mặt không tách rời
nhau trong nhiệm vụ các cơ quan nhà nước. Hai hoạt động đó là tiêu đề của
nhau.
Để bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước, Nhà nước còn
thành lập những cơ quan, tổ chức chuyên trách thực hiện chức năng bảo đảm
pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước, đó là Toà án, Viện kiểm sát, Thanh
tra nhà nước...
Với quan điểm dân chủ hoá, công khai trong hoạt động hành chính, pháp
luật còn quy định tổ chức xã hội cũng thành lập ra thanh tra nhân dân để giám
sát về mặt xã hội hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác và công
dân, tham gia giữ gìn pháp chế và kỷ luật nhà nước, trật tự an toàn xã hội thông
4
qua việc thực hiện quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, để bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà
nước có nhiều phương thức, biện pháp, hình thức để kiểm soát đối với hoạt
động hành chính nhà nước (gồm kiểm tra, giám sát, kiểm sát, thanh tra).
Tóm lại: Kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước là loại hoạt
động đặc biệt, là chức năng nhà nước và xã hội đặc thù nhằm bảo đảm pháp
chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước. Đó là tổng thể những
phương tiện tổ chức - pháp lý được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội
và công dân sử dụng nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành
chính nhà nước, thiết lập trật tự trong quản lý, bảo vệ các quyền, tự do, lợi ích
hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội.
II- Những hình thức cơ bản kiểm soát đối với hành chính nhà nước
Hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát có nội dung, tính chất, đối
tượng tác động, thủ tục tiến hành khác nhau. Mỗi loại hoạt động có vai trò, tác
động xã hội nhất định, chúng phối hợp tạo thành công lực để củng cố pháp chế,
trật tự pháp luật. Khi đánh giá về vai trò các loại hoạt động này V.I.Lênin viết:
"Thống kê và kiểm tra là điều chủ yếu để bảo đảm sự hoạt động đúng đắn trong
chủ nghĩa xã hội" (1), rằng: "kiểm tra con người và kiểm tra việc chấp hành nhiệm
vụ trên thực tế luôn là mấu chốt của toàn bộ công tác, của chính trị" (2).
Kế thừa phát huy những luận điểm cơ bản đó của V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới hoạt động kiểm tra, thanh tra.
Cụ thể là Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết và văn bản pháp luật
nhằm lãnh đạo và điều chỉnh hoạt động này.
Để kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước, có nhiều hình thức
(1)
(2)
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, tập 33, tr. 124.
Sđd, tập 45, tr. 19.
5
khác nhau, sau đây là những hình thức cơ bản:
1. Giám sát dùng để chỉ hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước, toà
án, các tổ chức xã hội và công dân nhằm bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật trong quản lý xã hội. Như vậy, hoạt động giám sát chủ yếu thực hiện
ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc.
2. Kiểm tra là khái niệm rộng được vận dụng theo hai hướng. Một là, kiểm
tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà
nước cấp dưới nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi cần
thiết, hoặc kiểm tra một vấn đề cụ thể, việc thực hiện một quyết định quản lý
hành chính nhà nước nào đó. ở đây, hoạt động kiểm tra thực hiện trong quan hệ
trực thuộc. Vì vậy, khi thực hiện kiểm tra, cơ quan cấp trên, thủ trưởng cơ quan
có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ luật, biện pháp bồi thường thiệt
hại vật chất, hoặc áp dụng các biện pháp tác động tích cực tới đối tượng bị kiểm
tra như khen thưởng về vật chất, tinh thần. Hai là, kiểm tra là hoạt động của các
tổ chức, xã hội như kiểm tra Đảng, giám sát, kiểm tra các tổ chức xã hội đối với
hành chính nhà nước. Vì vậy, kiểm tra ở phạm vi này ít mang tính quyền lực
nhà nước, mà chỉ áp dụng các biện pháp tác động mang tính xã hội.
3. Thanh tra là phạm trù dùng để chỉ hoạt động của các tổ chức thuộc
Tổng thanh tra Nhà nước và thanh tra nhà nước chuyên ngành (thanh tra bộ,
thanh tra sở). Cơ quan thanh tra và đối tượng bị thanh tra thường không có quan
hệ trực thuộc. Tuy nhiên, các cơ quan thanh tra do thủ trưởng các cơ quan hành
chính thành lập, do vậy nó hoạt động với tư cách là cơ quan chức năng giúp thủ
trưởng cùng cấp. Vì vậy, có thể coi hoạt động thanh tra được cơ quan cấp trên
tiến hành trong quan hệ đối với cơ quan trực thuộc. Trong quá trình thanh tra,
cơ quan thanh tra có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm công tác
thanh tra, kể cả các biện pháp trách nhiệm kỷ luật (tạm đình chỉ công tác...) và
6
xử lý vi phạm hành chính, nhưng không có quyền sửa đổi, bãi bỏ quyết định của
đối tượng bị thanh tra mà chỉ có quyền tạm đình chỉ việc thi hành một số loại
quyết định quản lý hành chính nhà nước nào đó, trong những trường hợp đặc
biệt cần thiết, hoặc đình chỉ hành vi hành chính trái pháp luật.
Các phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính
nhà nước có đối tượng tác động rất lớn, trong đó hoạt động của hệ thống hành
chính là đối tượng chủ yếu. Do nhu cầu đặt ra, ở đây tập trung xem xét hoạt
động giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hệ thống hành chính.
Chương II
7
Hoạt động kiểm tra của các cơ quan, tổ chức Đảng, các tổ chức xã hội và
công dân đối với hệ thống hành chính
I - Kiểm tra của Đảng
"Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" (Điều 4 Hiến pháp 1992). Như vậy, Đảng
là người lãnh đạo toàn diện mọi mặt hoạt động của Nhà nước, xã hội. Kiểm tra
đối với nhà nước, xã hội là một chức năng không thể tách rời quyền lãnh đạo
của Đảng. Vì vậy, thông qua các cơ quan, tổ chức của mình Đảng kiểm tra hoạt
động của Nhà nước, trong đó có kiểm tra hoạt động của hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nước, những người có chức vụ, mọi cán bộ, công chức trong bộ
máy đó. Hoạt động kiểm tra của Đảng đối với hệ thống hành chính có những
hình thức, phương pháp, nội dung đặc thù riêng.
Đảng kiểm tra hệ thống hành chính nhà nước bằng cách nghe các đảng viên
giữ chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước tương ứng báo cáo về mọi mặt
hoạt động của bộ máy do mình chỉ đạo, lãnh đạo và trực tiếp kiểm tra việc thực
hiện nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước của
những đảng viên đó.
Cơ quan thực hiện kiểm tra đối với hoạt động nhà nước là: Đại hội đại biểu
toàn quốc, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng; Đại hội đại biểu các cấp
và Đảng uỷ các cấp đó, tổ chức Đảng cơ sở và chi bộ, tổ Đảng.
Do tính chất xã hội của hoạt động kiểm tra của Đảng, khi thực hiện kiểm
tra, các tổ chức Đảng không trực tiếp can thiệp vào hoạt động điều hành mang
tính tác nghiệp, không làm thay công việc chính quyền, không ra các mệnh lệnh,
8
chỉ thị trực tiếp đối với cán bộ chính quyền, cán bộ, công chức nhà nước, không
có quyền đình chỉ, sửa đổi, bãi bỏ các quyết định không hợp pháp của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định những vấn đề đó.
Đối tượng kiểm tra của Đảng đối với hệ thống hành chính là mọi hoạt động
trên các lĩnh vực của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, mọi nhân viên
nhà nước.
Trong tiến hành kiểm tra, các tổ chức, cơ quan Đảng thông báo kết quả
kiểm tra cho lãnh đạo các cơ quan hành chính nhà nước tương ứng và cùng với
họ thảo luận tìm các biện pháp khắc phục các thiếu sót, vi phạm. Trong trường
hợp người lãnh đạo cơ quan quản lý không tiếp thu và đề ra biện pháp cần thiết
để khắc phục loại trừ những vi phạm, khuyết điểm thì cơ quan kiểm tra đặt vấn
đề với Đảng uỷ, Đảng bộ để áp dụng các biện pháp tác động thích hợp, cả biện
pháp kỷ luật của Đảng. Nếu việc áp dụng những biện pháp ấy không có hiệu quả
thì đưa vấn đề lên cấp trên của Đảng và Nhà nước, trong trường hợp cần thiết,
đến các cơ quan cao nhất là Ban chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ.
Vấn đề cũng có thể được đưa ra thảo luận tại hội nghị của tập thể cán bộ, công
chức cơ quan, tập thể người lao động trong xí nghiệp...
Kiểm tra Đảng mang tính chất xã hội, vì vậy, khi tiến hành kiểm tra, tổ
chức Đảng cơ sở cần phải thu hút sự tham gia của các tổ chức xã hội khác như
Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ...
Kiểm tra là hoạt động quan trọng để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, xã hội nhằm phát hiện những vi phạm trong thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, góp phần tăng cường củng cố pháp
chế, kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước, bảo vệ các quyền, tự do, lợi ích
công dân. Vì vậy, phải tăng cường thường xuyên công tác kiểm tra của Đảng.
Nhưng theo quy định của pháp luật, hoạt động kiểm tra của Đảng cũng phải
9
thực hiện trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nói cách khác, khi tiến hành
hoạt động kiểm tra các cơ quan, tổ chức Đảng phải tôn trọng và tuân theo pháp
luật.
Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, những người lãnh đạo chính
quyền cùng với tổ chức Đảng có nghĩa vụ và trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động kiểm tra, cung cấp các thông tin và tài liệu cần thiết, nhanh
chóng, kịp thời nghiên cứu và trả lời các kiến nghị của tổ chức Đảng và áp dụng
các biện pháp cần thiết để khắc phục, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện dẫn
tới vi phạm, thiếu sót trong quản lý hành chính nhà nước.
II- Hoạt động giám sát, kiểm tra của các tổ chức xã hội và của công dân đối
với hành chính (giám sát xã hội)
Địa vị chính trị - pháp lý của các tổ chức xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ... được ghi nhận trong
Hiến pháp và pháp luật nước ta.
Điều 9 Hiến pháp 1992 quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức
liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng
lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng
cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính
đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước.
10
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người
lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và
bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động
khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên
chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, chức năng kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
thành viên Mặt trận, của Công đoàn là chức năng hiến định, được bảo đảm bằng
các phương tiện tổ chức - pháp lý.
Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội
Nông dân Việt Nam có khả năng tham gia rộng rãi vào xây dựng bộ máy nhà
nước, xây dựng và bảo vệ pháp luật, tham gia quản lý hành chính nhà nước.
Chẳng hạn, Mặt trận tiến hành hiệp thương bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp; tham gia xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, nghị định...
Thông qua các hình thức tham gia đó mà các tổ chức xã hội đồng thời kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước nói chung, cơ quan hành
chính nhà nước nói riêng.
Quyền giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật của bộ máy hành chính
còn thuộc về các tổ chức xã hội khác như các tổ chức kinh tế tập thể, các hội
nghề nghiệp các hội tự nguyện khác, cơ quan xã hội và hội tự quản, các đơn vị
tập thể lao động, trong đó tập thể lao động ở các đơn vị cơ sở có vai trò đặc biệt
quan trọng.
Đối tượng của hoạt động giám sát xã hội, thanh tra, kiểm tra nhà nước là
thống nhất mọi mặt hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và
ban lãnh đạo các xí nghiệp, nhưng những loại hoạt động đó chỉ khác nhau về
phương pháp, cách thức giám sát, thanh tra. Khác với hoạt động kiểm tra, thanh
11
tra, giám sát do các cơ quan nhà nước thực hiện, giám sát xã hội được thực hiện
bởi nhân dân, tổ chức xã hội, không gắn với thực hiện quyền lực nhà nước,
không mang tính cưỡng chế nhà nước. Vì vậy, trong hoạt động giám sát, các tổ
chức xã hội chỉ áp dụng các biện pháp tác động mang tính giáo dục, thuyết phục
là chủ yếu. Tuy vậy, trong một số trường hợp cụ thể, các tổ chức, cơ quan xã hội
được nhà nước uỷ quyền giám sát mang tính quyền lực pháp lý. Chẳng hạn:
Công đoàn giám sát về bảo hộ lao động và thực hiện pháp luật về lao động, khi
tập thể lao động giám sát thủ trưởng cơ quan, tổ chức, giám đốc xí nghiệp trong
việc đảm bảo các điều kiện lao động, trong thực hiện hợp đồng tập thể, hợp
đồng lao động, các tổ chức an ninh nhân dân, đội quy tắc... được áp dụng một số
biện pháp cưỡng chế hành chính nhất định nhằm ngăn chặn những vi phạm pháp
luật.
Mục đích của giám sát xã hội là phòng ngừa, phát hiện vi phạm pháp luật.
Các tổ chức xã hội có thể đề xuất, kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp loại trừ những nguyên nhân, điều kiện vi phạm
pháp luật và kỷ luật nhà nước, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật và kỷ luật
nhà nước.
Các tổ chức xã hội thông qua các nguồn thông tin do quần chúng cung cấp,
thông qua các tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng phát hiện các vi
phạm pháp luật, thông qua các cuộc hội nghị, hội thảo mà kiến nghị các biện
pháp phòng ngừa. Chỉ trong một số ít trường hợp do pháp luật quy định có thể
tiến hành kiểm tra trực tiếp, như thanh tra nhân dân tiến hành thanh tra theo
quyết định của thủ trưởng cơ quan, khi công đoàn tham gia cùng với cơ quan
nhà nước thanh tra về các vụ về an toàn lao động, bảo hiểm nghề nghiệp...
Tổ chức xã hội có thể độc lập hoặc phối hợp với các cơ quan thanh tra,
kiểm tra của nhà nước, của Đảng thực hiện giám sát. Trong nhiều trường hợp
12
hoạt động giám sát được tiến hành độc lập, kể cả những trường hợp thực hiện
chức năng mang tính quyền lực nhà nước.
Có hai hình thức giám sát của các tổ chức xã hội đối với hành chính: giám
sát nội bộ và giám sát bên ngoài. Giám sát nội bộ là giám sát việc thực hiện
pháp luật, kỷ luật trong bản thân nội bộ tổ chức xã hội đó, trong phạm vi cơ
quan xí nghiệp mà ở đó tổ chức xã hội hoạt động. Còn giám sát bên ngoài là
giám sát, kiểm tra mọi đối tượng và chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong
việc thực hiện chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước, kế hoạch, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội...
Do tính đa dạng, phong phú của tổ chức xã hội, mỗi loại tổ chức xã hội có
đặc thù riêng về hình thức, phương pháp giám sát đối với hệ thống hành chính.
Ví dụ, cơ quan trung ương của tổ chức xã hội thực hiện hoạt động giám sát
thông qua sự tham gia vào công tác xây dựng dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định
hoặc thông qua công tác hiệp thương bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp, thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật, tuyên
truyền, giáo dục, giải thích pháp luật v.v...
Hoạt động giám sát của các tổ chức xã hội tuy không mang tính quyền lực pháp lý, nhưng có tác dụng giáo dục, phòng ngừa góp phần ngăn chặn có hiệu
quả vi phạm pháp luật và kỷ luật Nhà nước từ phía các cơ quan hành chính
những người có chức vụ, cán bộ, công chức. Cùng với quá trình dân chủ hoá đời
sống xã hội, dân chủ hoá trong quản lý hành chính nhà nước, vai trò kiểm tra,
giám sát của các tổ chức xã hội ngày càng được tăng cường. Để công tác giám
sát xã hội có hiệu quả cao cần phải tạo ra được dư luận xã hội lên án các hành vi
vi phạm pháp luật, kỷ luật nhà nước như tham nhũng, hối lộ và các tiêu cực
khác trong bộ máy công quyền, nhằm xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh. Trong môi trường dân chủ hoá, đời sống xã hội cần phát huy tính tích
13
cực chính trị của các tổ chức xã hội trong việc tham gia giám sát các cơ quan
hành chính nhà nước.
III - Thanh tra nhân dân
Thanh tra nhân dân là cơ quan xã hội do các tổ chức xã hội lập ra (ở xã,
phường, thị trấn do Uỷ ban mặt trận tổ quốc thành lập, ở các cơ quan, xí nghiệp
do tập thể lao động lập ra, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức công đoàn
(Điều 4, Điều 26 Pháp lệnh Thanh tra ngày 29-3-1990).
Hoạt động của Thanh tra nhân dân vừa mang tính chất xã hội và mang tính
quyền lực - pháp lý khi thực hiện quyết định thanh tra của thủ trưởng cơ quan
cùng cấp hay của tổ chức Thanh tra Nhà nước.
Theo Điều 27 Pháp lệnh Thanh tra, Thanh tra nhân dân có nhiệm vụ, quyền
hạn chung sau đây:
- Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật và mọi quy định của cơ
quan nhà nước các cấp và các đơn vị đối với mọi cá nhân, tổ chức trong phạm vi
địa phương, đơn vị mình;
- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn, của thủ trưởng cơ quan, đơn vị;
- Khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật thì kiến nghị Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn, thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình kiểm tra và giám
sát việc thực hiện kiến nghị đó. Khi cần thiết được giao nhiệm vụ kiểm tra
những vụ việc nhất định;
- Kiến nghị Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, thủ trưởng cơ quan, đơn
vị hoặc cấp có thẩm quyền khen thưởng những đơn vị, cá nhân có thành tích, xử
lý các vi phạm pháp luật, khắc phục khuyết điểm trong quản lý;
14
- Phối hợp giúp tổ chức thanh tra nhà nước khi thanh tra ở địa phương, cơ
quan, đơn vị mình; giám sát tổ chức, cá nhân trong địa phương, cơ quan, đơn vị
thực hiện kiến nghị, quyết định về thanh tra.
Để bảo đảm cho hoạt động của Thanh tra nhân dân có hiệu quả, đáp ứng
nhu cầu xã hội trong đấu tranh, phòng chống vi phạm pháp luật trong quản lý
hành chính nhà nước, Pháp lệnh Thanh tra quy định thủ trưởng cơ quan nhà
nước có trách nhiệm tạo điều kiện hoạt động cho Thanh tra nhân dân, phải xem
xét, giải quyết và trả lời các kiến nghị, yêu cầu của Thanh tra nhân dân trong
thời hạn chậm nhất 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, kiến nghị đó. Trong
trường hợp không nhất trí với cách giải quyết của thủ trưởng cơ quan tương
ứng. Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị tiếp lên cấp trên có thẩm quyền và
cấp đó cũng phải giải quyết và trả lời trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận
được kiến nghị.
Để phát huy vai trò của Thanh tra nhân dân trong bảo đảm pháp chế và kỷ
luật trong quản lý hành chính nhà nước, cần hoàn thiện pháp luật quy định về
hình thức và phương pháp hoạt động, các quyền và trách nhiệm của ban thanh
tra nhân dân, trách nhiệm thủ trưởng cơ quan nhà nước đối với hoạt động của
Ban thanh tra nhân dân.
IV - Hoạt động kiểm tra, giám sát của công dân đối với bộ máy hành chính
nhà nước
Điều 2 Hiến pháp 1992 quy định: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" và
"Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân
15
dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân
dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân" (Điều 6). Vì vậy, công dân
không chỉ trực tiếp thiết lập cơ quan quyền lực nhà nước; tham gia xây dựng
pháp luật, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề
chung của cả nước và địa phương mà còn trực tiếp quyết định những vấn đề
trọng đại của đất nước khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân và kiểm tra, giám
sát hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nói riêng.
Hoạt động kiểm tra, giám sát của công dân thông qua hình thức gián tiếp,
trực tiếp là thông qua các tổ chức xã hội hoặc thông qua quyền yêu cầu, kiến
nghị, quyền khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật với cơ quan nhà nước, tổ
chức có thẩm quyền. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân không chỉ là phương
tiện giám sát có hiệu quả việc tuân thủ pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành
chính nhà nước, mà còn là phương tiện đảm bảo pháp lý hữu hiệu các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức khi bị xâm hại.
Quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo là những quyền chính trị cơ bản
của công dân được quy định trong Hiến pháp và được cụ thể hoá trong các văn
bản pháp luật, đặc biệt là Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004. Quyền này của công
dân được đảm bảo bằng các phương tiện tổ chức và pháp lý khác nhau.
Quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo của công dân là một loại quyền
chủ thể. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nhà nước
của dân, do dân, vì dân, mở rộng dân chủ mọi lĩnh vực đời sống xã hội, phát huy
tính tích cực chính trị của quần chúng, cần tạo mọi điều kiện để công dân thực
hiện các quyền đó.
Kiến nghị là đề xuất ý kiến với cơ quan, tổ chức nhà nước nhằm hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, hoặc tìm ra những phương án tối ưu
nào đó, không liên quan trực tiếp tới vi phạm pháp luật.
16
Yêu cầu là đòi hỏi của công dân để thực hiện quyền chủ thể của họ được
pháp luật quy định (yêu cầu được học tập, yêu cầu có việc làm...), cũng có
trường hợp có liên quan tới vi phạm pháp luật nhưng không trực tiếp tới người
yêu cầu.
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo
thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết
định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi
đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật khiếu nại quy định báo cáo
với cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo của công dân được pháp luật
bảo đảm, bảo vệ đối với mọi công dân có năng lực hành vi hành chính, kể cả
những công dân bị toà án tước một số quyền chủ thể. Quyền này của công dân
có thể do tập thể công dân thực hiện. Đối tượng của khiếu nại, tố cáo là mọi
quyết định quản lý hành chính nhà nước hoặc hành vi hành chính của các chủ
thể quản lý hành chính nhà nước.
Thủ tục yêu cầu, kiến nghị và giải quyết yêu cầu, kiến nghị nhìn chung
không được pháp luật quy định chặt chẽ như thủ tục khiếu nại, tố cáo và giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Thủ tục khiếu nại, tố cáo của công dân được quy định chặt chẽ trong pháp
luật tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng kinh tế, xử lý vi phạm hành chính. Còn thủ
tục khiếu nại, tố cáo khác trong quản lý hành chính nhà nước và giải quyết
khiếu nại tố cáo đó được quy định chủ yếu trong Luật khiếu nại, tố cáo và Pháp
17
lệnh thanh tra. Hai văn bản này quy định nhiệm vụ của hệ thống thanh tra nhà
nước quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và quy định các cơ quan nhà
nước khác có nghĩa vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng trình tự, thời hạn
xác định. Trên cơ sở khiếu nại, tố cáo xuất hiện quan hệ pháp luật hành chính cụ
thể và nó chấm dứt khi quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện.
Để đảm bảo cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, pháp luật
nghiêm cấm mọi hành vi kích động, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc người khác
khiếu nại, tố cáo sai sự thật; lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu
khống, gây rối trật tự; nghiêm cấm việc trả thù, xúc phạm người khiếu nại, tố
cáo, người giải quyết khiếu nại, tố cáo (Điều 100 Luật khiếu nại, tố cáo). Tuỳ
theo tính chất, mức độ nguy hại cho xã hội của những hành vi trên mà truy cứu
trách nhiệm hành chính, hình sự hay trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm bồi
thường vật chất.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là công việc rất quan trọng và
cấp thiết hiện nay. Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo làm củng
cố lòng tin của công dân đối với Đảng, Nhà nước, kích thích tính tích cực chính
trị của họ, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi vi phạm pháp
luật, củng cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước.
Tuy vậy, pháp luật về thẩm quyền và trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo
còn nhiều điều bất hợp lý, công với ý thức pháp luật và trình độ cán bộ giải
quyết khiếu nại, tố cáo còn hạn chế làm cho công tác giải quyết khiếu nại tố cáo
chưa đạt hiệu quả, dẫn đến tình trạng nhiều vụ khiếu kiện kéo dài và phức tạp.
Để đảm bảo quyền khiếu nại tố cáo cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật và củng cố
cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo. Có như vậy mới thực sự tăng cường pháp
chế và kỷ luật nhà nước, nâng cao tính tích cực của công dân trong giám sát việc
18
tuân theo pháp luật của bộ máy hành chính (1).
Giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo của công dân - một chế định lớn của Luật hành
chính, được xem xét ở chương sau.
(1)
19
Chương III
Hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và giám sát
của toà án nhân dân
I - Giám sát của quốc hội
Giám sát là chức năng hiến định của các cơ quan quyền lực nhà nước. Chức
năng này xuất phát từ địa vị chính trị - pháp lý của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân. Đây là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đó là những cơ quan trực
tiếp nhất nhận quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện mọi quyền
lực nhà nước. Mặt khác còn xuất phát từ tính chất chấp hành và điều hành của
hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong quan hệ đối với hoạt động lập
pháp. Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, Quốc hội luôn đứng ở nấc thang
quyền lực cao nhất và trong mọi quan hệ tính trội luôn thuộc về Quốc hội.
Phạm vi, nội dung, quyền hạn, hình thức, phương pháp giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, của đại biểu Quốc hội được quy định trong Hiến
pháp, Luật tổ chức Quốc hội và nhiều văn bản pháp luật quan trọng khác.
Ngoài chức năng lập hiến, lập pháp, Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối
cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, (Điều 83, Điều
84 Hiến pháp 1992). Như vậy, đối tượng giám sát của Quốc hội là mọi hoạt
động của tất cả các cơ quan nhà nước không có ngoại lệ. Quốc hội giám sát về
tính hợp pháp trong các hoạt động của cả bộ máy nhà nước.
20
Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua nhiều hình thức
khác nhau:
- Thực hiện trên kỳ họp qua nghe báo cáo của Chính phủ, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, thảo luận, đánh giá các báo cáo đó:
- Thông qua quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Chủ tịch nước,
Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác
của Chính phủ; Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, người bị chất vấn phải trả lời chất vấn trước Quốc hội tại kỳ
họp. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời
trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc kỳ họp sau của Quốc hội hoặc trả lời
bằng văn bản.
- Các Uỷ ban, Hội đồng của Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện quyền giám
sát và trên các kỳ họp báo cáo trước Quốc hội về hoạt động của mình trong các
bản báo cáo thẩm tra, thuyết trình... (thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Uỷ
ban pháp luật, thẩm tra thực hiện ngân sách của Uỷ ban kinh tế và ngân sách...).
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan, một mặt, giúp Quốc hội, mặt khác, còn
trực tiếp thực hiện quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân, đồng thời
có quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ các văn
bản đó, đối với những văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì bãi bỏ.
- Các tổ đại biểu và từng đại biểu, một mặt, giúp Quốc hội giám sát hoạt
21
động của Chính phủ, mặt khác, còn trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, cán bộ quản lý, có quyền yêu cầu cơ quan nhà
nước áp dụng các biện pháp và khắc phục việc làm vi phạm pháp luật, chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội
quan tâm. Người phụ trách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có nghĩa vụ trả lời
những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định. Ngoài ra,
hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội là thông qua tiếp xúc với cử tri để
nghe yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại và tố cáo của cử tri hoặc bằng cách tham dự
kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập những đoàn kiểm tra
đặc biệt, những Uỷ ban lâm thời để kiểm tra, xem xét những vụ việc đặc biệt.
Tính quyền lực trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với bộ máy hành
chính nhà nước không chỉ thể hiện về mặt tổ chức như quyết định thành lập, bãi
bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thành lập hoặc giải
thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (khoản 8 Điều 84 Hiến pháp) mà còn thể
hiện ở phạm vi, đối tượng giám sát mọi vấn đề, mọi lĩnh vực quản lý hành chính
nhà nước, ở quyền hạn của Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh
cao nhất của bộ máy nhà nước, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng về việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, các chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác
của Chính phủ; đặc biệt là quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ... trái với Hiến pháp,
luật và nghị quyết của Quốc hội.
Như vậy, quyền giám sát của Quốc hội đặc biệt lớn, không bị giới hạn bởi
đối tượng, phạm vi giám sát. Về hình thức, Quốc hội thực hiện chức năng như
22
của Toà án bảo hiến được thành lập ở nhiều nước. Để củng cố pháp chế, kỷ luật
trong quản lý hành chính nhà nước, cần tăng cường hoạt động giám sát của
Quốc hội đối với hệ thống hành chính.
II - Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân
- Với vai trò, vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng
nhân dân các cấp thực hiện giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân, các cơ
quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân, các xí nghiệp, cơ quan, tổ chức trực
thuộc mình cũng như trực thuộc cấp trên đóng tại địa phương.
Hoạt động giám sát có thể được thực hiện trên kỳ họp Hội đồng nhân dân
bằng cách nghe báo cáo và thảo luận, đánh giá báo cáo của Uỷ ban nhân dân,
của cơ quan chuyên môn bằng cách chất vấn trên kỳ họp đối với Chủ tịch và các
thành viên Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của uỷ ban;
bằng hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân và các ban của hội đồng;
bằng hoạt động của các nhóm đại biểu và đại biểu trong khu vực bầu cử. Ngoài
ra, một hình thức giám sát quan trọng là thông qua việc giải quyết các đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân để giám sát.
Theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân, Hội đồng nhân dân có quyền bầu và bãi miễn các thành viên Uỷ ban
nhân dân, đình chỉ, bãi bỏ quyết định của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp,
của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Phạm vi giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm toàn diện mọi vấn đề và
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước đối với mọi cơ quan, tổ chức nhà nước
trên đơn vị hành chính tương ứng bất luận cơ quan, tổ chức đó trực thuộc cơ
quan nào.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hành chính có căn cứ,
23
phạm vi, nội dung, hình thức và phương pháp tương tự như hoạt động giám sát
của Quốc hội, nhưng ở nấc thang quyền lực thấp hơn, trên địa bàn lãnh thổ xác
định.
III - Hoạt động giám sát của toà án nhân dân
Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân
sự và các toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của
nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm
của công dân. Như vậy, toà án nhân dân là cơ quan có vai trò đặc biệt quan
trọng trong đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, bảo vệ nền pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Ngoài chức năng xét xử là cơ bản, toà án còn thực hiện chức
năng giám sát thông qua các phiên toà xét xử các vụ hình sự, dân sự, lao động,
hôn nhân gia đình và kinh tế...
Giám sát của toà án đối với hoạt động hành chính là hoạt động kiểm tra
tính hợp pháp trong các quyết định quản lý hành chính nhà nước và hành vi của
cơ quan hành chính nhà nước, những người có chức vụ, cán bộ, công chức nhà
nước, có liên quan trực tiếp tới vụ án do mình xét xử.
Giám sát của toà án được thực hiện bằng nhiều hình thức và phương pháp
khác nhau:
- Trong xét xử các vụ án hình sự, đặc biệt là các tội phạm chức vụ, nếu
phát hiện thấy có nhiều vi phạm pháp luật hoặc nguyên nhân, điều kiện phát
sinh tội phạm và các vi phạm pháp luật khác trong cơ quan hành chính nhà
nước, tổ chức khác thì cùng với việc ra bản án, toà án ra quyết định yêu cầu cơ
quan hoặc tổ chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần thiết để khắc phục
24
nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại cơ quan, tổ chức đó. Trong thời
hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định của toà án, cơ quan, tổ chức đó phải báo
cáo cho toà án biết những biện pháp được áp dụng (Điều 199 Bộ luật Tố tụng
hình sự). Quyết định của toà án có thể gửi cho thủ trưởng của cơ quan, tổ chức
hữu quan hoặc đọc tại phiên toà.
Thông qua xét xử các vụ kiện dân sự, lao động, lập danh sách cử tri, toà án
kiểm tra tính hợp pháp và hợp lý các quyết định quản lý hành chính nhà nước,
khi một bên trong các vụ kiện đó là cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Theo
Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (ngày 29-11-1989),
những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án nhân dân gồm:
1. Những việc tranh chấp về quyền sở hữu, về hợp đồng, về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những tranh chấp khác, trừ những việc thuộc
thẩm quyền của cơ quan, tổ chức khác;
2. Những việc về quan hệ hôn nhân và gia đình;
3. Những việc tranh chấp về lao động;
4. Những việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết, trừ những trường
hợp quân nhân, cán bộ mất tích hoặc chết trong chiến tranh thường thuộc trách
nhiệm giải quyết của cơ quan hữu quan;
5. Những việc khiếu nại về danh sách cử tri;
6. Những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về từ chối đăng ký hoặc không
chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch;
7. Những việc khiếu nại cơ quan báo chí về việc không cải chính thông tin
có nội dung xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác;
8. Những việc khác do pháp luật quy định.
Trong số những việc nêu trên có vụ việc thực chất toà án đã giải quyết
25