TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG THƯƠNG TPHCM
KHOA KINH TẾ
Bài báo cáo môn học
Đề tài: Đa dạng sinh học và nguyên nhân
suy giảm đa dạng sinh học
GVHD : Trần Thanh Đạt
TPHCM, tháng 8, năm 2014
THÀNH VIÊN NHÓM
MÔI
TRƯỜNG
VÀ CON
NGƯỜI
1. Võ Thị Kiều Diễm
2. Phạm Thị Hồng Ánh
3. Huỳnh Thị Mơ
4. Trần Thị Hồng Thắm
5. Ngô Thị Ngọc Bích
6. Phạm Thị Nhung
7. Ngô Thanh Nhân
8. Nguyễn Ngọc Giác
9. Lê Nhật Đang
10.Chau Keo Sâm Reth
11.Nguyễn Thế Mười( MSSV:2112120033)
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
Trần Thanh Đạt
MỤC LỤC
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự sống trên trái đất phụ thuộc vào tính đa dạng sinh học để duy trì những chức
năng sinh thái để điều hoà nguồn nước và chất lượng, khí hậu, sự màu mỡ của đất
đai,và những nguồn tài nguyên có thể canh tác. Chúng ta phụ thuộc vào các loài
tự nhiên để tìm ra những tố chất hoá học mới có thể dùng làm thuốc và kiểm soát sâu
bọ và cải thiện được mùa màng và chăn nuôi .Ở châu Á nhiệt đới, nhiều nước hầu như
hoàn toàn phụ thuộc vào đa dạng sinh học, vì vậy tài sản cho hiện tại và tương lai của
khu vực cần phải được bảo vệ.
Đa dạng loài là cơ sở của đa dạng sinh học. Hiện nay, đa dạng sinh học trên thế
giới đang suy giảm nghiêm trọng, sự biến mất của các loài chính là minh chứng rõ nét
nhất cho sự suy giảm đó. Theo một số đánh giá về sốloài thì có đến 99,9% sốloài đã bị
tuyệt chủng. Hay nói một cách khác, các loài động vật, thực vật, vi sinh vật hiện có chỉ
chiếm 0,1% tổng số loài đã từng sống trên hành tinh.
Nguồn thiên nhiên và đa dạng sinh học đang bị con người đe dọa và trở nên khan
hiếm. Đánh vào vấn đề nóng hổi ấy, nhóm chúng em xin được cùng mọi nguời thảo
luận, chắc chắn không thể tránh được thiếu xót mong mọi người bỏ qua và đóng góp ý
kiến giúp bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn.
Tài liệu tham khảo:
Đa dạng sinh học. Nhà xuất bản Tri Thức _ Dịch PHAN BA.
Giáo trình môi trường và con người.TS.LÊ THỊ THANH MAI.
Nguần: thuviensinhhoc.violet.vn.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 5
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
I - ĐỊNH NGHĨA
Theo Công ước Đa dạng sinh học, khái niệm "Đa dạng sinh học" (biodiversity, biological
diversity) có nghĩa là sự khác nhau giữa các sinh vật sống ở tất cả mọi nơi, bao gồm: các hệ sinh thái
trên cạn, trong đại dương và các hệ sinh thái thuỷ vực khác, cũng như các phức hệ sinh thái mà các
sinh vật là một thành phần, thuật ngữ này bao hàm sự khác nhau trong một loài, giữa các loài và giữa
các hệ sinh thái.
Có thể coi, thuật ngữ "đa dạng sinh học" lần đầu tiên được Norse và McManus (1980) định
nghĩa, bao hàm hai khái niệm có liên quan với nhau là: đa dạng di truyền (tính đa dạng về mặt di
truyền trong một loài) và đa dạng sinh thái (số lượng các loài trong một quần xã sinh vật). Có nhiều
định nghĩa về đa dạng sinh học được đưa ra, định nghĩa được đưa ở trên là định nghĩa được dùng trong
Công ước Đa dạng sinh học.
Các định nghĩa khác về Đa dạng sinh học :
-Toàn bộ gen, các loài và các hệ sinh thái trong một vùng hoặc trên toàn thế giới.
-Tính đa dạng của sự sống dưới mọi hình thức, mức độ và mọi tổ hợp, bao gồm đa dạng gen, đa
dạng loài và đa dạng hệ sinh thái.
-Tính đa dạng, trạng thái khác nhau về đặc tính hoặc chất lượng.
-Sự đa dạng và tính khác nhau của các sinh vật sống và các phức hệ sinh thái mà chúng tồn tại
trong đó. Tính đa dạng có thể định nghĩa là một số lượng xác định các đối tượng khác nhau và tần số
xuất hiện tương đối của chúng. Đối với đa dạng sinh học, những đối tượng này được tổ chức ở nhiều
cấp độ, từ các hệ sinh thái phức tạp đến các cấu trúc hoá học là cơ sở phân tử của vật chất di truyền.
Do đó, thuật ngữ này bao hàm các hệ sinh thái, các loài, các gen khác nhau và sự phong phú tương đối
của chúng.
-Tính đa dạng của sự sống và các quá trình hoạt động của nó.Bao gồm tất cả các loài thực vật,
động vật, vi sinh vật, các hệ sinh thái và quá trình sinh thái học mà chúng tham gia. Đây là khái niệm
bao trùm cho mức độ phong phú của tự nhiên, bao gồm cả số lượng và tần số xuất hiện của các hệ sinh
thái, các loài và các gen di truyền trong một tổ hợp xác định.
-Tính đa dạng của sự sống ở mọi cấp độ tổ chức, biểu hiện bởi số lượng và tần số xuất hiện
tương đối của các đối tượng.
-Toàn bộ sự đa dạng và khác nhau giữa các sinh vật sống và trong chính sinh vật đó, cũng như
đối với các hệ sinh thái mà các sinh vật tồn tại trong đó; bao hàm cả đa dạng hệ sinh thái hoặc đa dạng
quần xã, đa dạng loài và đa dạng di truyền.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 6
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
-Tính đa dạng của sinh vật ở mọi cấp độ, từ những biến dị di truyền trong cùng một loài đến sự
đa dạng của các loài, giống/chi, họ và thậm chí cả các mức phân loại cao hơn, bao gồm cả đa dạng hệ
sinh thái, gồm cả các quần xã sinh vật trong các sinh cảnh cụ thể và các điều kiện vật lý mà chúng sinh
sống trong đó.
- Là phức hệ vượt quá sự hiểu biết và có giá trị không thể đo đếm được, đa dạng sinh học là toàn
bộ tính đa dạng của sự sống trên trái đất.
-Tính đa dạng về cấu trúc và chức năng của các dạng sống ở các mức di truyền, quần thể, loài,
quần xã và hệ sinh thái.
II - PHÂN LOẠI ĐA DẠNG SINH HỌC
2.1 Đa dạng loài
Hình 2.1: Sự sống trên hành tinh rất đa dạng
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 7
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Đa dạng loài là số lượng và sự đa dạng của các loài được tìm thấy tại một khu vực nhất định tại
một khu vực nào đó. Đa dạng loài bao gồm tất cả loài trên trái đất. Mỗi loài thường được xác định theo
một trong hai cách:
-Thứ nhất, một loài được xác định là một nhóm các cá thể có những đặc tính hình thái, sinh lý,
sinh hoá đặc trưng khác biệt với những nhóm cá thể khác (định nghĩa về hình thái của loài). Thêm vào
đó, sự khác biệt về DNA cũng được sử dụng để phân biệt những loài có đặc điểm hình thái bên ngoài
gần như giống hệt nhau (loài đồng hình), như các loài vi khuẩn.
-Thứ hai, là một loài có thể được phân biệt như là một nhóm cá thể có thể giao phối giữa chúng
với nhau để sinh sản thế hệ con cái hữu thụ và không thể giao phối sinh sản với các cá thể của các
nhóm khác (định nghĩa về sinh học của loài).
Hiện nay, có khoảng 1,7 triệu loài đã được mô tả. Ít nhất là hai lần số đó còn chưa mô tả, chủ yếu
là côn trùng và các nhóm chân khớp khác trong vùng nhiệt đới (Bảng 1.2).
Nhóm Số loài mô tả Nguồn
Vi khuẩn và tảo lam 4.760
Nấm 46.938
Tảo 26.900
Rêu 17.000 WCMC. 1998
Hạt trần 980 IUCN. 1997
Hạt kín 258.000 IUCN. 1997
Động vật nguyên sinh 35.000
Bọt biển (Thân lỗ) 5.000
Ruột khoang 9.000
Giun tròn và giun dẹp 24.000
Giáp xác 40.000
Côn trùng 950.000 IUCN. 1997
Các nhóm Chân khớp và các
nhóm động vật không xương
sống khác
130.000
Thân mềm 70.000
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 8
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Da gai 6.100
Cá 28.100
Lưỡng cư 5.578
Bò sát 8.134
Chim 9.932
Thú 4.842
TỔNG 1.680.264
Bảng 1.2. Tổng số các loài đã được mô tả
Kiến thức của chúng ta về số lượng loài là chưa chính xác do nhiều loài khó thấy còn chưa được
phân loại học chú ý. Ví dụ như: giun tròn và nấm sống trong đất và các loài côn trùng sống trong
rừng nhiệt đới có kích thước rất nhỏ và khó nghiên cứu. Các loài này có thể lên tới hàng trăm ngàn
thậm chí triệu loài. Các loài vi khuẩn cũng được biết rất ít. Chỉ có khoảng 4000 loài vi khuẩn được các
nhà vi sinh vật biết đến do những khó khăn trong việc nuôi cấy và định loại. Việc lấy mẫu khó khăn đã
cản trở chúng ta nghiên cứu tìm hiểu về số lượng các loài trong đại dương. Đại dương có lẽ là nơi có
tính đa dạng lớn nhất. Một ngành động vật mới, ngành Loricefera lần đầu tiên phát hiện vào năm 1983
nhờ vào các mẫu vật thu được ở đáy biển sâu và không nghi ngờ gì là sẽ có nhiều loài hơn nữa sẽ được
phát hiện.
Các quần xã sinh vật mới sẽ còn được khám phá thường các quần xã này nằm trong các vùng
hẻo lánh nơi mà con người khó tới gần được. Các kỹ thuật thăm dò chuyên biệt, đặc biệt ở các vùng
biển sâu và các vùng trời các rừng nhiệt đới đã khám phá ra các cấu trúc quần xã khác thường.
Các quần xã động vật khác nhau, đặc biệt là côn trùng, thích ứng cuộc sống dưới tán lá tầng cao
của rừng rậm nhiệt đới, hiếm khi chúng thích nghi được với điều kiện sống ở trên mặt đất.
Dựa vào môi trường sống có thể phân chia sự đa dạng loài như sau:
Các loài trên cạn và các loài nước ngọt
Các loài mới vẫn tiếp tục được phát hiện , thậm chí cả những loài chim và thú, trung bình khảng
3 loài được tìm thấy hàng năm,từ năm 1990 10 loài mới được đã được phát hiện. Các nhóm động vật
có sương sống vẫn chưa thể mô tả đầy đủ.
Trong rừng nhiệt đới đã phát hiện 1200 loài bọ có cánh và 80%trong số đó là các loài mới cho là
khoa học. Có ít nhất 6 triệu đến 9 triệu loài động vật chân khớp, và có thể lên tới 30 triệu loài. Nhưng
chỉ mới 1 phần nhỏ được mô tả. Một diện tích 1 m
2
rừng ôn đới có thể chứa tới 2.000.000 con rệp và
hàng chục nghìn động vật ký sinh khác.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 9
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Hình 2.2: Loài hổ, một loài ăn thịt trên cạn
Các loài sinh vật biển
Đáy biển sâu có thể chứa hơn 1 triệu loài chưa được biết đến. Các quần xã sinh vật hoàn toàn
mới, các quần xã hốc thủy nhiệt mới được biết đến chưa tới 2 thập niên trước đây. Hơn 20 họ được
phân họ hoặc phân họ mới, 50 chi mới và 100 loài sinh vật mới của những bốn hốc này đã được định
danh.
Hình 2.3: Cá heo, một loài cá biên thông minh – bạn của người đi biển
2.2 Đa dạng di truyền
Đa dạng di truyền bao gồm các thành phần các mã di truyền cấu trúc nên cơ thể sinh vật
(nucleotides, genes, chromosomes) và sự sai khác về di truyền giữa các cá thể trong một quần thể và
giữa các quần thể với nhau.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 10
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Hình 2.4: Đa dạng di truyền của một loài chim thể hiện ở ngoại hình
Đa dạng di truyền trong nội bộ loài thường là kết quả của tập tính sinh sản của các cá thể trong
quần thể. Một quần thể là một nhóm các cá thể giao phối với nhau và sản sinh ra con cái hữu thụ. Một
loài có thể có một hay vài quần thể khác nhau. Một quần thể có thể chỉ gồm một số ít cá thể hay có thể
có hàng triệu cá thể.
Các cá thể trong một quần thể thường rất khác nhau về mặt di truyền. Sự đa dạng về bộ gen có
được do các cá thể có các gen khác nhau, gen là một đơn vị di truyền cùng với những nhiễm sắc thể
được đặc trưng bởi những protein đặc biệt. Các dạng khác nhau của gen được gọi là allen và những sự
khác biệt nảy sinh qua đột biến, là những sự thay đổi xảy ra trong DNA, đơn vị cấu thành nhiễm sắc
thể của cá thể. Sự khác biệt của các allen trong gen có thể ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh lý của
các cá thể một cách khác nhau.
Sự sai khác di truyền tăng lên khi con cái nhận được đầy đủ tổ hợp gen và nhiễm sắc thể của bố
mẹ trong quá trình tái tổ hợp gen xảy ra trong quá trình sinh sản hữu tính. Gen được trao đổi giữa các
nhiễm sắc thể trong quá trình giảm phân và tổ hợp mới được tạo thành khi nhiễm sắc thể từ bố mẹ kết
hợp để tạo nên một tổ hợp thống nhất cho con cái.
Tổng số các sắp xếp của gen và allen trong quần thể được coi là quỹ gen (gene pool), trong khi
một tổ hợp nào đấy của gen và allen trong bất kỳ cá thể nào thì được gọi là kiểu di truyền (genotype).
Kiểu hình (phenotype) của một cá thể nói lên các đặc điểm về hình thái, sinh lý, sinh hoá là kết quả
của biểu hiện kiểu gen trong một môi trường nhất định.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 11
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Sai khác di truyền cho phép các cá thể thích ứng với những thay đổi của môi trường. Nhìn
chung, các loài quí hiếm phân bố hẹp ít có sự đa dạng di truyền hơn các loài có phân bố rộng và kết
quả là chúng dễ bị tuyệt chủng hơn khi điều kiện môi trường thay đổi.
2.3 Đa dạng quần xã và hệ sinh thái
Đa dạng về hệ sinh thái là thước đo sự phong phú về sinh cảnh, nơi ở, tổ sinh thái và các hệ sinh
thái ở các cấp độ khác nhau. Sự đa dạng này được phản ảnh quan trọng nhất bởi sự đa dạng về sinh
cảnh, các quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái trong sinh quyển. Chẳng hạn như sự phân bố của
các loài sinh vật theo không gian khác nhau, nghĩa là đặc trưng cho từng sinh cảnh khác nhau. Rừng
nhiệt đới thường xanh đã phân thành nhiều tầng và các thuỷ vực cũng phân thành các tầng nước khác
nhau về thuỷ lý, thuỷ hoá để sử dụng tối ưu năng lượng của hệ sinh thái và tạo cho tính đa dạng sinh
học càng cao.
Môi trường vật lý, đặc biệt là vòng tuần hoàn năm của nhiệt độ và lượng mưa, ảnh hưởng đến
cấu trúc và đặc điểm của quần xã sinh vật, quyết định địa điểm đó sẽ là rừng, đồng cỏ, sa mạc hay đất
ngập nước. Quần xã sinh vật cũng có thể biến đổi tính chất vật lý của hệ sinh thái. Ví dụ, trong một hệ
sinh thái trên cạn, tốc độ gió, độ ẩm, nhiệt độ và tính chất đất đai có thể bị ảnh hưởng do cây cối và các
động vật sống tại đó.
Trong một quần xã sinh vật, mỗi loài sử dụng một nhóm tài nguyên nhất định, tạo thành tổ sinh
thái của loài đó. Tổ sinh thái cho một loài thực vật có thể bao gồm loại đất mà loài đó sống, lượng ánh
sáng mặt trời và độ ẩm mà loài đó cần, kiểu hệ thống thụ phấn và cơ chế phát tán của hạt, Tổ sinh
thái của một loài động vật có thể bao gồm kiểu nơi sinh sống của loài, biên độ nhiệt độ mà loài đó có
thể sống được, các loại thức ăn và lượng nước mà chúng cần, Bất cứ thành phần nào của tổ sinh thái
đều là nguồn tài nguyên có giới hạn và do đó có ảnh hưởng đến giới hạn kích thước của quần thể.
Các hệ sinh thái trong sinh quyển tồn tại ở hai môi trường có sự khác biệt về các đặc tính lý hoá
và sinh học. Đó là môi trường trên cạn và môi trường dưới nước. Các hệ sinh thái trên cạn được đặc
trưng bởi các quần hệ thực vật, chiếm sinh khối lớn và gắn liền với khí hậu địa phương, do đó tên của
quần xã cảnh quan vùng địa lý gọi là khu sinh học (biome), thường là tên của quần hệ thực vật ở đấy.
Khu sinh học là một hệ sinh thái lớn, đặc trưng bởi kiểu khí hậu đặc thù, bao gồm các loài động vật
sống trong quần hệ thực vật, thích ứng tốt với môi trường tự nhiên. Nhìn chung trên lục địa đã hình
thành các biom chính như sau:
2.3.1 Đài nguyên hay đồng rêu (Tundra)
Đồng rêu bao quanh bắc cực và vành đai phần bắc của lục địa Âu Á, Bắc Mỹ, chiếm khoảng
20% diện tích trái đất. Đây là một vùng nhiều đầm lầy giá lạnh, băng tuyết với nhiều đụn rêu rãi rác.
Mùa đông dài khắc nghiệt, mùa hè ngắn. Số loài thực vật rất ít, chủ yếu là rêu, địa y và cỏ bông lau,
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 12
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
phong lùn và liễu miền cực. Động vật đặc trưng là hươu tuần lộc, hươu kéo xe, thỏ, có sói Bắc cực,
gấu trắng Bắc cực, chim cánh cụt,…Nhiều loài chim sống thành từng bầy lớn, chúng di cư xuống vùng
vĩ độ thấp để tránh rét mùa đông.
Hình 2.5: Đồng rêu
2.3.2 Rừng mưa nhiệt đới (Tropical rain forests)
Hình 2.6: Rừng mưa nhiệt đới
Xuất hiện ở vùng gần xích đạo. Khí hậu luôn ấm (từ 20 đến 25
0
C) lượng mưa dồi dào (ít nhất
1900 mm/năm). Rừng mưa là một biome có độ giàu có nhất, cả về độ đa dạng và tổng sinh khối. Rừng
mưa nhiệt đới có cấu trúc phức tạp, với nhiều cấp độ của đời sống. Hơn một nửa các dạng sống trên
cạn xuất hiện trong biom này.
Trong khi nhiều động vật sống trên mặt đất, thì hầu hết các động vật rừng mưa nhiệt đới có đời
sống trên các cây gỗ. Các động vật đó trải qua toàn bộ đời sống của chúng trên tán rừng. Các loại côn
trùng ở các rừng mưa nhiệt đới rất phong phú và phần lớn trong số chúng là chưa được xác định.
Mối là đặc trưng cho sự phân hủy của chu trình dinh dưỡng của gỗ. Chim có xu hướng màu sắc
sáng, thường tạo cho chúng tìm kiếm thức ăn như các loài sâu ngoại lai. Bò sát và lưỡng thê xuất hiện
nhiều. Khỉ hầu (Lemurs), Cu li (sloths), và khỉ (monkeys) ăn các loài trái cây trong rừng mưa nhiệt
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 13
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
đới. Nhóm loài ăn thịt lớn nhất là nhóm mèo. Sự xâm chiếm và phá hủy nơi ở đang là nguy cơ cho các
loài động vật, thực vật ở đây.
Một vài rừng nhiệt đới ở Ấn Độ, Đông Nam Á, Tây Phi, Trung và Nam Mỹ có tính mùa và các
cây ở đó rụng lá vào mùa khô.
2.3.3 Rừng ôn đới (temperate forests)
Sinh cảnh rừng ôn đới xuất hiện ở miền đông của Bắc Mỹ, Đông Á, và nhiều nước Châu Âu.
Lượng mưa nhiều từ 750-1500 mm. Sự phát triển theo mùa được xác định rõ ràng giữa 140 đến 300
ngày. Các loài thực vật ưu thế bao gồm sồi, thích, và những cây gỗ lớn lá rụng khác. Cây gỗ của rừng
lá rụng có tán lá rộng, trong đó chúng rụng đi vào mùa thu và mọc trở lại vào mùa xuân. Mật độ tán lá
cho phép sự phát triển tốt cho các tầng cây bụi ở bên dưới, một tầng cây thảo, và sau đó thường được
bao phủ bởi rêu và dương xỉ. Sự sắp xếp bên dưới này đã cung cấp nhiều nơi ở cho nhiều loại côn
trùng và chim. Các rừng lá rụng ngoài ra còn chứa nhiều thành phần của họ gậm nhấm, trong đó chúng
cấp thức ăn cho linh miêu, chó sói, và cáo (foxes). Ngoài ra vùng này là nơi ở của nai và gấu đen. Mùa
Đông ở đây không lạnh như ở rừng phương bắc, vì vậy mà nhiều loài bò sát và lưỡng thê có khả năng
sống sót.
Hình 2.7: Rừng ôn đới
2.3.4 Đồng cỏ (Grasslands)
Các đồng cỏ xuất hiện trong vùng nhiệt đới và ôn đới với lượng mưa thấp hay mùa khô kéo dài.
Các đồng cỏ xuất hiện ở Mỹ, Châu Phi, Châu Á, và Úc. Đất ở vùng này rất dày và phì nhiêu, vì vậy rất
phù hợp cho nông nghiệp. Các đồng cỏ hoàn toàn không có cây gỗ, và có thể cung cấp lượng cỏ lớn
cho các loài động vật ăn cỏ. Các đồng cỏ tự nhiên đã từng bao phủ hơn 40% bề mặt trái đất.
Hầu hết các đồng cỏ ngày nay được sử dụng cho phát triển mùa màng, đặc biệt lúa mỳ và ngô.
Các loài cỏ là thực vật chiếm ưu thế, trong khi đó động vật ăn cỏ và các loài đào hang là động vật
chiếm ưu thế.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 14
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Các đồng cỏ ôn đới bao gồm các thảo nguyên ở Nga, Các đồng hoang ở Nam Mỹ, và các đồng
cỏ (prairies) ở Bắc Mỹ. Đời sống của động vật bao gồm chuột, chó đồng, thỏ, và các động vật khác sử
dụng nhóm này làm thức ăn. Các đồng cỏ chứa một lượng cỏ lớn cho trâu bò và loài linh dương sừng
dài, nhưng với những hoạt động của con người, một lượng lớn đồng cỏ đã bị suy thoái.
Vùng cây bụi thấp (savanna) là một dạng đồng cỏ của nhiệt đới nhưng có một vài cây gỗ.
Savanna chứa nhiều loài động vật ăn cỏ nhất (linh dương sừng dài, ngựa vằn, linh dương đầu bò và
một số các loài khác). Môi trường ở đây cung cấp một quần thể lớn các loài ăn thịt như sư tử, báo
ghepa (cheetahs), linh cẩu, và báo (leopards). Các thực vật nhỏ hơn không bị tiêu thụ bởi các loài ăn
cỏ, chúng bị tấn công bởi mối và các loài phân hủy khác.
Hình 2.8: Đồng cỏ
2.3.5 Cây bụi (Shrubland, Chaparral)
Sinh cảnh cây bụi được ưu thế bởi các cây bụi nhưng lá nhỏ có màu xanh đậm thường có màng
dày, biểu bì có sáp, và thân dưới đất dày vì vậy có thể chống chịu vào mùa hè khô và hay cháy. Một số
loài cây lá tiêu giảm và phát triển thành gai. Các vùng cây bụi xuất hiện một phần ở Nam Mỹ, phía
Tây Úc, miền trung Chile, và xung quanh biển Địa Trung Hải. Cây bụi dày đặc ở California, ở đó mùa
hè nóng và rất khô, được gọi là chaparral. Loại cây bụi ở Địa Trung Hải thiếu một tầng dưới và có lớp
mùn rác ở bề mặt đất do vậy cũng rất dễ cháy. Hạt của nhiều loài có đòi hỏi về sức nóng và hoạt
độngtạo sẹo do lửa để kích thích sự nảy mầm. Khu hệ động vật rất khác nhau giữa các vùng trong
biome này và thường có tính đặc hữu.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 15
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Hình 2.9: Cây bụi
2.3.6 Sa mạc (Deserts)
Các sa mạc được đặc trưng bởi điều kiện khô và biên độ nhiệt lớn. Không khí khô dẫn đến biên
độ nhiệt độ rộng vào ban ngày. Hoang mạc khác nhau nhiều phụ thuộc vào lượng mưa, khoảng dưới
250 mm/năm. Một số hoang mạc khô đến nổi không có một loài thực vật nào có thể sống được. Ví dụ
sa mạc Naomid ở Châu Phi, sa mạc Atacama-Sechura ở Chi lê và Pêru.
Hình 2.10: Sa mạc
Các loài cây trong sinh cảnh này đã phát sinh một loạt các thích nghi để lấy nước và chống chịu
với điều kiện nhiệt độ khắc nghiệt. Như cây có rể sâu để hút nước, lá biến thành gai nhọn,… Số loài
động vật ít, động vật có xương sống cở lớn như lạc đà một bướu, linh dương, báo, sư tử,… Các loài
gậm nhấm trong đất (chuột túi và chuột đàn) rất phong phú. Hầu hết các loài chim là chim chạy. Trong
số các loài sâu bọ cánh cứng, họ Tenebrinidae chiếm ưu thế và là những loài đặc trưng của sa mạc. Sự
thích ứng của động vật với đời sống hoang mạc rất rõ, biểu hiện ở những đặc điểm chống khô nóng.
Ngoài ra có hiện tượng di cư theo mùa, ngủ hè hay dự trữ thức ăn, sinh sản đồng loạt vào thời kỳ có độ
ẩm cao.
2.3.7 Rừng lá kim (Taiga, Boreal Forest)
Hình 2.11: Rừng lá kim
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 16
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Rừng lá kim phân bố rộng ở hầu hết các vùng phía Bắc của Bắc Âu và Bắc Mỹ. Ngoài ra, rừng
này còn có vành đai xuất hiện ở một vài nơi khác, ở đó có các tên gọi khác nhau: khi nó ở gần các đỉnh
núi gọi là rừng lá kim ở núi; và rừng mưa ôn đới dọc theo bờ biến Thái Bình Dương cho đến Nam
California. Lượng mưa thấp khoảng 100 đến 400 mm/năm và có mùa sinh trưởng ngắn. Mùa đông
lạnh và ngắn, trong khi đó mùa hè có xu hướng ấm. Rừng lá kim đặc trưng bởi các loài cây thẳng như
Vân sam, Lãnh sam, Thiết sam và Thông. Các loài cây gỗ này có lá và vỏ bảo vệ dày, cũng như lá có
dạng kim có thể chịu đựng trọng lượng của tuyết tích tụ lại. Các khu rừng lá kim hạn chế với các loài
cây tầng thấp, và bề mặt đất được bao phủ bởi một lớp rêu và địa y. Thông, Tùng-bách, cây Dương đỏ,
cây Phong và cây Phi lao là những loài cây phổ biến; chó sói, gấu Mỹ và tuần lộc là các loài động vật
phổ biến. Tính ưu thế của một số loài được thể hiện rõ ràng, nhưng tính đa dạng thấp khi so sánh với
các khu sinh quyển ôn đới và nhiệt đới.
Các khu sinh học ở nước:
Môi trường nước ít khắc nghiệt hơn so với môi trường trên cạn. Các sinh vật thuỷ sinh bơi lội
trong nước nhờ vào lực đẩy của nước và không phải đối phó với tình trạng khô hạn. Các chất dinh
dưỡng hoà tan chi phối sự phân bố của các sinh vật. Các khu sinh học ở nước được chia thành khu sinh
học nước ngọt và khu sinh học biển.
Khu sinh học biển:
Khu sinh học biển chứa nhiều muối hoà tan hơn khu sinh học nước ngọt. Có hai phân hạng trong
khu sinh học này đó là quần xã sống đáy và quần xã sống trong tầng nước. Theo độ sâu, quần xã sống
đáy được chia thành vùng ven bờ và vùng sâu. Quần xã sống trong tầng nước được chia thành quần xã
sống trôi nổi và quần xã tự bơi. Tầng nước từ 200 mét trở lên có ánh sáng xâm nhập vào được gọi là
tầng giàu dinh dưỡng.
Hình 2.12: Một góc nhỏ ở trong lòng biển
Khu sinh học nước ngọt:
Khu sinh học nước ngọt được chia thành 2 vùng là khu sinh học nước chảy và khu sinh học nước
đứng. Nước trong các thuỷ vực nước ngọt lớn thường phân tầng nhiệt độ. Ở một số hồ lớn vùng ôn đới
thường có hiện tượng chu chuyển nước theo mùa, nhờ đó các chất dinh dưỡng được đưa từ tầng sâu
lên tầng mặt, giúp cho sự phát triển của các sinh vật nổi trong hồ.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 17
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Hình 2.13: Một loài cá nước ngọt
III - ĐẶC TRƯNG ĐA DẠNG SINH HỌC
Đa dạng di truyền là sự phong phú những biến dị trong cấu trúc di truyền của các cá thể bên
trong loài hoặc giữa các loài; những biến dị di truyền bên trong hoặc giữa các quần thể.
Đa dạng loài là sự phong phú về các loài được tìm thấy trong các hệ sinh thái tại một vùng lãnh
thổ xác định thông qua việc điều tra, kiểm kê.
Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về các kiểu hệ sinh thái khác nhau ở cạn cũng như ở một
vùng nào đó. Hệ sinh thái là hệ thống bao gồm sinh vật và môi trường tác động lẫn nhau mà ở đó thực
hiện vòng tuần hoàn vật chất, năng lượng và trao đổi thông tin.
Đặc trưng của đa dạng hệ sinh thái
Tính phong phú và đa dạng của các kiểu hệ sinh thái: Với một diện tích rộng lớn, có rất nhiều
kiểu hệ sinh thái khác nhau. Ở từng vùng địa lý khác nhau cũng tồn tại nhiều kiểu hệ sinh thái khác
nhau.
Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái rất giàu. Cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái
phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Điểm đặc trưng này làm cho đa dạng hệ sinh thái phong phú, có
nhiều điểm khác biệt các nơi trên thế giới.
Tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố sinh học, giữa các
nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể trong cùng một loài sinh vật. Mạng lưới dinh
dưỡng, các chuỗi dinh dưỡng với nhiều khâu nối tiếp nhau làm tăng tính bền vững của các hệ sinh thái.
Các mối quan hệ năng lượng được thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất rất phong
phú, nhiều tầng, bậc thông qua các nhóm sinh vật: tự dưỡng (sinh vật sản xuất), dị dưỡng (sinh vật tiêu
thụ), hoại sinh (sinh vật phân hủy) trong các hệ sinh thái ở là những chuỗi quan hệ mà ở nhiều nước
khác trên thế giới không có được.
Các hệ sinh thái có đặc trưng tính mềm dẻo sinh thái cao, thể hiện ở sức chịu tải cao; khả năng tự
tái tạo lớn; khả năng trung hòa và hạn chế các tác động có hại; khả năng tự khắc phục những tổn
thương; khả năng tiếp nhận, chuyển hóa, đồng hóa các tác động từ bên ngoài.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 18
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Các hệ sinh thái phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm. Tính mềm dẻo sinh thái của các hệ
sinh thái làm cho các hệ đó luôn ở trong trạng thái hoạt động mạnh, vì vậy thường rất nhạy cảm với
các tác động từ bên ngoài, kể cả các tác động của thiên nhiên, cũng như những tác động của con người.
IV - NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ SUY GIẢM ĐA DẠNG SINH HỌC
Loài có thể bị tiêu diệt do một loạt ảnh hưởng và tác động của con người. Có thể chia thành 2
loại chính: trực tiếp ( săn bắn, hái lượm, thuần hóa) và gián tiếp ( phá hủy và biến đổi nơi cư trú).
Săn bắn quá mức là một trong những nguyên nhân rõ ràng nhất gây nên sự tuyệt chủng của nhiều
loại động vật và ảnh hưởng đến một số loài thú lớn, nổi tiếng. tuy nhiên trong toàn bộ sự suy giảm đa
dạng sinh học, chắc chắn nguyên nhân này không quan trọng bằng các nguyên nhân gián tiếp như phá
hủy và biến đổi nơi cư trú. Săn bắn chỉ ảnh hưởng chọn lọc đối với các loài đã hoặc đang là những
nguồn tài nguyên có thể thu hoạch được, điều này rất quan trọng đối với quản lý các nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
Đa dạng di truyền, biểu hiện bởi sự khác biệt về gen di truyền giữa các quần thể riêng biệt của
một loài hoang dã, có thể bị giảm sút do việc loài cùng chịu tác động của những nhân tố giống nhau.
Đa dạng di truyền, biểu hiện qua các quần thể vật nuôi, cây trồng, có thê bị giảm sút do việc tạo ra một
số lượng lớn; với mức độ đồng nhất cao.
Hầu như bất kì dạng hoạt động nào của con người cũng gây biến đổi môi trường tự nhiên. Sự
biến đổi này sẽ tác động đến sự phong phú tương đối của loài và trong nhiều trường hợp đặc biệt sẽ
dẫn đến sự tuyệt diệt. Kết quả này cũng có thể do nơi cư trú trở nên không thích hợp đối với loài hoặc
do nơi cư trú bị phá vỡ. Ngoài ra còn có ảnh hưởng của sự chia cắt các quần thể loài liền kề trước đây
thành các quần thẻ con nhỏ hơn. Nếu những quần thể này đủ nhỏ, cùng với sự thay đổi các tiến trình,
sẽ đưa đến việc gia tăng xác suất tuyệt diệt trong một thời gian tương đối ngắn.
Một số nguyên nhân chính:
Sự suy giảm đa dạng sinh học là một vấn đề đang được các nhà khoa học và các nhà hoạch định
chính sách rất quan tâm. Các loài đang bị tuyệt chủng với tốc độ nhanh nhất được biết đến trong lịch
sử địa chất và phần lớn những tuyệt chủng này là do các hoạt động của con người.
Khác với các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ, xảy ra chủ yếu do các hiện tượng thiên
nhiên, nhưng tuyệt chủng hiện nay chủyếu là do con người. Cứ 100 loài bị tuyệt chủng thì có đến 99
loài là do con người, một vấn đề nóng bỏng cần phải được quan tâm. Ngoài ra, theo sau các cuộc tuyệt
chủng hàng loạt trong quá khứ là sự hình thành loài mới để bù đắp cho số loài bị mất đi, còn sự
tuyệt chủng hàng loạt giai đoạn hiện nay không kèm theo sự hình thành loài mới.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 19
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Theo hiểu biết hiện nay, trên thế giới có thể còn từ 5-100 triệu loài đang tồn tại (con số chắc
chắn là khoảng 12,5 triệu loài); trong đó khoảng 1,7 triệu loài đã được môtả; số loài lớn nhất có lẽ là
côn trùng. Thống kê số lượng các loài trên trái đất theo nhiều nguồn khác nhau nên cũng khác nhau.
Cuộc sống của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào cac hệ sinh thái để tồn tại: từ nước chúng ta
uống đến lương thực chúng ta ăn, những sản phẩm phong phú đến đất để chúng ta xây dựng nhà cửa
Các hệ sinh thái cho ta hàng hoá và dịch vụ mà cuộc sống chúng ta không thể thiếu. Các hệ sinh thái
lọc sạch không khí và nước, duy trì đa dạng sinh học, phân huỷ và tái quay vòng các chất dinh dưỡng,
cũng như đảm bảo vô số các chức năng quan trọng khác. Tuy nhiên, các hệ sinh thái vẫn đang bị con
người xâm phạm ngày càng nghiêm trọng. Trên khắp thế giới, con người sử dụng quá mức và lạm
dụng các hệ sinh thái quan trọng, từ các rừng mưa nhiệt đới cho tới các rạn san hô, đồng cỏ, thảo
nguyên gây suy thoái và phá huỷ các hệ sinh thái. Điều đó đã làm ảnh hưởng tới cuộc sống tự
nhiên,thể hiện ở con số các loài bị đe doạ hay bị tuyệt chủng, đồng thờigây hại đến các lợi ích của con
người qua việc làm cạn kiệt dòng tài nguyên mà chúng ta sống phụ thuộc vào nó. Cuộc sống nghèo
khổ đã buộc nhiều người phải huỷ hoại các hệ sinh thái mà họ sống nhờ vào, ngay cả khi họ hiểu rằng,
họ đang chặt cây hay bắt cá tới mức chúng không thể phục hồi được. Lòng tham hay sự táo tợn, sự
không hiểu biết hay vô ý đều đẩy con người đến chỗ không đếm xỉa đến những giới hạn của tự nhiên
để duy trì các hệ sinh thái.
Khó khăn lớn nhất vẫn là con người ở mọi tầng lớp xã hội, từ những người dân bình thường đến
các nhà hoạch định chính sách, không có khả năng tận dụng nguồn tri thức hiện có hoặc thiếu các
thông tin căn bản về điều kiện thực tế và xu hướng phát triển trong tương lai xa của các hệ sinh thái.
Điều đó sẽ dẫn tới các HST có nguy cơ bị phá huỷ gây ra những hậu quả nặng nề chưa từng thấy đối
với quá trình phát triển kinh tế và cuộc sống của con người. Ngày nay, nhiều quốc gia đang trải qua
những tác động do suy thoái các HST gây ra dưới rất nhiều hình thức: lũ lụt,hạn hán, mất mùa, thiếu
lương thực thực phẩm, ô nhiễm môi trường, biến đổi khíhậu, Vấn đề là chúng ta lại biết quá ít về toàn
bộ tình trạng các hệ sinh thái của Trái đất.Chúng ta cần phải hiểu các hệ sinh thái của Trái đất tồn tại ra
sao? Chúng ta có thể quản lý như nào để các hệ sinh thái vẫn duy trì tình trạng tốt vàcó hiệu suất trước
những yêu cầu ngày càng tăng của con người.
Mất và phá hủy nới cư trú: Thường là kết quả trực tiếp do các hoạt động của con người và sự
tăng trưởng dân sô, là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm loài, quần thể và hệ sinh thái.
Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái: chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của một loài có thể
dẫn đến sự suy giảm đan dạng sinh học. Ví dụ, nỗ lực loại trừ chó sói châu Mỹ ở miền nam California
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 20
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
dẫn đến việc giảm sút các quần thể chim hót trong vùng. Khi quần thể chó sói châu Mỹ giảm sút, quần
thể con mồi của chúng, gấu trúc Mỹ sẽ tăng lên. Do gấu trúc Mỹ ăn trứng chim, nên khi số lượng chó
sói ít hơn thì số lượng gấu trúc ăn trứng chim lại nhiều hơn, kết quả chim hót sẽ ít đi.
Sự nhập nội các loài ngoại lai: Có thể phá vỡ toàn bộ hệ sinh thái và ảnh hưởng đến các quần thể
động vật và thực vật bản địa. Những kẻ xâm chiếm này có thể ảnh hưởng bất lợi cho các loài bản địa
do quá trình sử dụng các loài bản địa làm thức ăn, làm nhiễm độc chúng, cạch tranh hoặc giao phối với
chúng.
Khai thác quá mức: Một loài hoặc một quần thể có thể dẫn tới sự suy giảm của loài hoặc quần
thể đó.
Gia tăng dân số: Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốt độ gia tăng dân số
của loài người. Ngày càng nhều đòi hỏi ngày càng nhiều không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài
nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải trong khi dân số thế giới liên tục tăng với tốc độ đáng báo
động.
Ô nhiễm: Do con người gây ra có thể ảnh hưởng đến mọi cấp độ của đa dạng sinh học.Biến đổi
khí hậu toàn cầu có thể làm thay đổi các điều kiện môi trường. Các loài và các quần thể có thể bị suy
giảm nếu chúng không thể thích nghi được với điều kiện mới hoặc sự di cư.
Hình 4.1: Hổ bị giết để lấy da
V - ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Việt Nam với tổng diện tích 330541 km
2
trải dài từ vĩ độ8
o
25‟ đến 23
o
24‟ vĩ độ Bắc, giáp biển
Đông. Sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng xích đạo đến giáp vùng cận nhiệt đới cùng sự đa dạng về
địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và khu hệ động thực vật vô cùng phong phú vềthành
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 21
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
phần loài. Theo các tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong số 25 nước có mức độđa dạng sinh học
lớn nhất thế giới và xếp thứ 16 về mức độ sinh học (chiếm 6,5% số loài có trên thếgiới).Đặc điểm đó là
cơ sở rất thuận lợi để giới sinh vật phát triển đa dạng về thành phần loài, phong phú về số lượng.
Trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội, mức độ đa dạng sinh học ở Việt Nam có nhiều thay đổi theo
thời gian.
Hệ sinh thái trên cạn
Trong các kiểu hệ sinh thái trên cạn thì rừng có sự đa dạng về thành phần loài cao nhất, đồng
thời đây cũng là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật hoang dã và vi sinh vật có giá trị kinh tế và
khoa học. Các kiểu hệ sinh thái tự nhiên khác có thành phần loài nghèo hơn. Kiểu hệ sinh thái nông
nghiệp và khu đô thị là những kiểu hệ sinh thái nhân tạo, thành phần loài sinh vật nghèo nàn.
Hình 5.1: Một loài khỉ của Việt Nam được xem là hoa khôi loài khỉ
Xét theo tính chất cơ bản là thảm thực vật bao phủ đặc trưng cho rừng mưa nhiệt đới ở Việt
Nam, có thể thấy các kiểu rừng tiêu biểu: rừng kín vùng thấp, rừng thưa, trảng truông, rừng kín vùng
cao, quần hệ lạnh vùng cao. Trong đó, các kiểu và kiểu phụ thảm thực vật sau đây có tính đa dạng sinh
học cao hơn và đáng chú ý hơn cả: kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới; kiểu rừng thưa cây lá
rộng hơi khô nhiệt đới; kiểu rừng kín cây lá rộng, ẩm á nhiệt đới núi thấp; kiểu phụ rừng trên núi đá
vôi.
Hệ sinh thái đất ngập nước
Công ước Ramsar định nghĩa "Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng
nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước chảy hay nước tù, là nước
ngọt, nước lợ hay nước biển kể cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều thấp".
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 22
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hình và hệ sinh thái, thuộc 2 nhóm ĐNN:
ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có tính đa dạng sinh học cao:
Rừng ngập mặn ven biển:
Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị như cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và
nhiều sản phẩm khác: là bãi đẻ, bãi ăn và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh
tế khác, xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác động của
sóng biển và bão tố ven biển, là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cư (chim,
thú, lưỡng cư, bò sát).
Đầm lầy than bùn:
Đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á. U Minh thượng và U Minh hạ thuộc các
tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu
Long của Việt Nam.
Đầm phá:
Thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha trộn giữa khối nước ngọt và
nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất phong phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và
nước mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật đầm phá thay đổi theo mùa rõ rệt.
Rạn san hô, cỏ biển:
Đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho
vùng biển nhiệt đới. Quần xã rạn san hô rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm,
giáp xác), cá rạn. Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú biển
Dugong.
Vùng biển quanh các đảo ven bờ:
Ven bờ biển Việt Nam có hệ thống các đảo rất phong phú. Vùng nước ven bờ của hầu hết các
đảo lớn được đánh giá có mức độ đa dạng sinh học rất cao với các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô,
cỏ biển
Việt Nam có 2 vùng đất ngập nước quan trọng là đất ngập nước vùng cửa sông đồng bằng sông
Hồng và đất ngập nước đồng bằng sông Cửu Long. Đất ngập nước ở vùng cửa sông đồng bằng sông
Hồng có diện tích 229.762 ha. Đây là nơi tập trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật,
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 23
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
động vật vùng rừng ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim nước.
Đất ngập nước đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha. Đây là bãi đẻ quan
trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông Mê Công. Những khu rừng ngập nước
và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng có tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính
ở đồng bằng sông Cửu Long, đó là hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở vùng ngập
nước nội địa và hệ sinh thái cửa sông.
Mỗi kiểu hệ sinh thái đất ngập nước đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của mình. Tuy nhiên, đặc
tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng vùng cảnh quan và vùng địa lý tự
nhiên.
Hệ sinh thái biển
Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km
2
với
nguồn tài nguyên sinh vật biển khá phong phú. Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được chừng
11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng ĐDSH biển khác
nhau.
Một số loài sinh vật mới được phát hiện trong thời gian gần đây ở Việt Nam
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, từ các kết quả điều tra cơ bản các vùng lãnh thổ khác nhau ở
Việt Nam, một số loài mới được phát hiện và mô tả, trong đó nhiều chi, loài mới cho khoa học. Một số
các nhóm sinh vật trước đây chưa được nghiên cứu, nay đã có những dẫn liệu bước đầu như nhóm giáp
xác bơi nghiêng ở biển, dơi, kiến, ốc ở cạn
Một số kết quả điều tra cơ bản gần đây về các loài quý hiếm cũng cho thấy quần thể loài Rái cá
lông mũi - loài tưởng đã tuyệt chủng, nay lại thấy ở khu bảo tồn U Minh thượng (Kiên Giang). Các
loài mới được phát hiện đã làm phong phú thêm cho sinh giới của Việt Nam, trong khi một số loài
khác, đặc biệt các loài có giá trị kinh tế đã biết lại có xu hướng giảm số lượng hoặc có nguy cơ tuyệt
chủng.
Việt Nam cũng chính là một trong những nước mà đa dạng sinh học chịu áp lực lớn nhất của các
hoạt động phát triển của con người. Trải qua nhiều năm chiến tranh, những năm nghèo đói và nhiều
năm kinh tế phát triểnmạnh mẽ cộng với sự gia tăng dân số rất nhanh sau chiến tranh, môi trường sinh
thái nói chung và đa dạng sinh học nói riêng ở Việt Nam bị tàn phá nặng nề. Điển hình là diện tích
rừng giảm mạnh, tỷ lệ che phủ giảm từ 45% trước năm 1945 xuống còn23% những năm1980.
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 24
Đề tài: Đa dạng sinh học & Nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
THỰC HIỆN: DIỄM, ÁNH, MƠ, THẮM, BÍCH, NHUNG, NHÂN, GIÁC, ĐANG, RETH, MƯỜI Trang 25