Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

thực hành công tác thú y, theo dõi và áp dụng một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại trại lợn giống hạt nhân tam điệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.02 KB, 60 trang )

Môc lôc
2.1.2.1. Sù thµnh thôc vÒ tÝnh 9
ii
Lời cảm ơn
Trớc hết, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong
khoa Thú Y- Trờng Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã truyền đạt cho tôi
những kiến thức chuyên ngành trong suốt quá trình học vừa qua. Đây là
những kiến thức tạo cơ sở cho tôi ứng dụng và phát huy trong sự nghiệp của tôi
sau này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới thầy giáo T.S
Chu Đức Thắng- giảng viên bộ môn Nội- chẩn, khoa Thú Y- Trờng Đại học
Nông nghiệp Hà Nội đã tận tình hớng dẫn và chỉ bảo tôi trong suốt quá trình
thực tập và hoàn thành báo cáo tốt nghiệp.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể cán bộ, công nhân viên của Trại lợn
giống hạt nhân Tam Điệp- Viện chăn nuôi Quốc gia đã tạo mọi điều kiện giúp
đỡ tôi hoàn thành công việc trong quá trình thực tập.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành báo cáo
tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Tống Thị Mai Lơng
1
danh mục bảng, biểu đồ
Bảng1: Các tiêu chí chẩn đoán viêm tử cung 23
Bảng 4.1: Cơ cấu đàn lợn của Trại từ năm 2008- 4/2010 35
Sơ đồ 4.1: Sơ đồ lai các dòng lợn tại Trạm nghiên cứu, nuôi giữ giống lợn giống
hạt nhân Tam điệp 46
Bảng 4.5: Tình hình bệnh viêm tử cung ở lợn nái từ năm 2007- 2009 43
Bảng 4.7: Tình hình bệnh viêm tử cung ở lợn nái theo lứa đẻ từ năm 2007- 2009
45


Bảng 4.8: Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở các giống lợn của Trại từ tháng 1 - 4 /
2010 47
Bảng 4.9: Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung theo lứa đẻ của lợn từ tháng 1- 4/2010.
48
Bảng 4.10: Chẩn đoán phân biệt các thể viêm tử cung lợn 49
Bảng 4.11. Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung và khả năng sinh sản của lợn nái
sau khi khỏi bệnh 51
2
Phần I
Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi lợn là một ngành sản xuất mang tính truyền thống lâu đời của
ngời dân Việt Nam, gắn liền với nền văn minh lúa nớc. Đến nay phong trào nuôi
lợn thịt hớng nạc đã và đang phát triển mạnh mẽ theo hớng trang trại ở nhiều địa
phơng và đem lại nguồn thu đáng kể cho ngời chăn nuôi. Để cung cấp lợn giống
cho nhu cầu chăn nuôi của các trang trại và các nông hộ thì việc phát triển đàn
lợn nái sinh sản là việc làm cần thiết.
Nhận thấy đợc điều đó, nhà nớc ta đã chủ động nhập giống lợn cao sản từ
nớc ngoài nh Meisan, Duroc, Landrace, Yorkshee, Petran nhằm chọn lọc nhân
giống, cải tạo giống, phục vụ cho sản xuất. Các giống lợn này thích nghi kém với
điều kiện khí hậu Việt Nam, mặt khác chế độ chăm sóc nuôi dỡng cha thật phù
hợp nên chúng dễ bị nhiễm bệnh hơn các giống lợn nội, đặc biệt là đàn lợn nái
ngoại. Một trong những bệnh làm hạn chế khả năng sinh sản của lợn nái ngoại
đang nuôi ở nớc ta hiện nay là bệnh viêm tử cung. Đây là bệnh gây ảnh hởng rất
lớn đến khả năng sinh sản và sức khoẻ của lợn nái. Nó có thể làm lợn nái chậm
động dục lại sau khi cai sữa, sẩy thai, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở
những lần sau, do đó làm giảm số lợng lợn nái sinh sản và số lợng lợn con sinh
ra, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho ngành chăn nuôi lợn.
Nhằm mục đích nâng cao năng suất sinh sản và đa ra phác đồ điều trị bệnh
viêm tử cung đạt hiệu quả cao nhất, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

Thực hành công tác thú y, theo dõi và áp dụng một số phác đồ điều
trị bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại Trại lợn giống hạt nhân
Tam Điệp Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Ph ơng
3
1.2. Mục đích Yêu CầU
- Theo dõi công tác phòng bệnh. Biết cách chẩn đoán và điều trị các bệnh
xảy ra trên đàn lợn của trại.
- Điều tra tình hình viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại Trại lợn
giống hạt nhân Tam Điệp từ năm 2007- 4/2010.
- So sánh một số phác đồ điều trị viêm tử cung và tìm ra phác đồ điều trị
đạt hiệu quả cao nhất.
- Nâng cao tay nghề trong công tác điều trị.
4
Phần II
Tổng quan tài liệu
2.1. Đặc điểm sinh sản của lợn cái
2.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục cái
Cũng giống nh các loài gia súc khác, cơ quan sinh dục của lợn cái gồm: bộ
phận sinh dục bên ngoài và bộ phận sinh dục bên trong.
2.1.1.1. Bộ phận sinh dục bên ngoài
* Âm môn hay còn gọi là âm hộ (Vulva), nằm dới hậu môn. Bên ngoài
âm môn có hai môi (Labia vulva). Bờ trên hai môi có sắc tố đen và nhiều màu
tuyến tiết chất nhờn trắng và tuyến tiết mồ hôi.
* Âm vật (Clitoris), giống nh dơng vật thu nhỏ. Bên trong có các thể hổng.
Trên âm vật có nếp da tạo ra mu âm vật (Paraepatium clitoridis), giữa âm vật bẻ
gấp xuống dới.
* Tiền đình (Vestibulum vaginae sinus progenitalis) là giới hạn giữa âm
môn và âm đạo. Trong tiền đình có màng trinh, phía trớc màng trinh là âm môn,
phía sau màng trinh là âm đạo, màng trinh có các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do hai
lá niêm mạc gấp thành một nếp. Sau màng trinh có lỗ niệu đạo.

Tiền đình có một số tuyến, tuyến này xếp theo hàng chéo, hớng quay về
phía âm vật.
2.1.1.2. Bộ phận sinh dục bên trong
* Âm đạo (Vagina), trớc là cổ tử cung, phía sau là tiền đình có màng trinh
(Hymen) che lỗ âm đạo. Âm đạo là một cái ống tròn để chứa cơ quan sinh dục khi
giao phối, đồng thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong qúa trình sinh đẻ.
Âm đạo có cấu tạo gồm 3 lớp:
- Lớp liên kết ở ngoài.
5
- Lớp cơ trơn: có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm đạo
liên kết với các cơ ở cổ tử cung.
- Lớp niêm mạc: có nhiều tế bào thợng bì, gấp nếp dọc hai bên nhiều hơn
ở giữa.
* Tử cung (Uterus), có cấu tạo phù hợp với chức năng phát triển và dinh
dỡng bào thai. Trứng đợc thụ tinh ở ống dẫn trứng rồi trở về tử cung làm tổ, ở
đây hợp tử phát triển là nhờ chất dinh dỡng từ cơ thể mẹ thông qua lớp niêm mạc
tử cung cung cấp cho. Tử cung còn có nhiệm vụ đẩy thai ra ngoài trong quá trình
sinh đẻ nhờ vào các lớp cơ.
Tử cung đợc cấu tạo bởi 3 lớp:
Ngoài cùng là tổ chức liên kết
Lớp cơ trơn của tử cung giữ vai trò quan trọng trong việc đẩy thai ra ngoài.
Nó có cấu tạo khá phức tạp, là lớp cơ khoẻ nhất trong cơ thể. Bên trong lớp cơ
trơn là các sợi liên kết đàn hồi, có nhiều tĩnh mạch lớn. Các lớp cơ đó đan vào
nhau làm cho tử cung chắc và có sự đàn hồi lớn.
Lớp niêm mạc tử cung màu hồng, đợc phủ lên bằng những tế bào biểu mô
kéo dài thành lông nhung. Xen kẽ giữa các tế bào biểu mô là các tuyến tiết chất
nhầy. Chất nhầy đợc gạt về cổ tử cung khi các lông rung động.
Tử cung của lợn thuộc loại tử cung phân nhánh. Tử cung đợc chia làm 3
phần: cổ, thân và sừng tử cung. Sừng tử cung thông với ống dẫn trứng. Cổ tử
cung thông với âm đạo. Vị trí tử cung nằm trong xoang chậu, phía trên là trực

trang, bên dới là bàng quang.
Vị trí của tử cung đợc cố định trong xoang chậu do 4 yếu tố sau:
Sự bám của âm đạo vào cổ tử cung.
Dây chằng tròn là một dây chằng nhỏ từ sừng tử cung đến vùng bẹn, bên
trong có nhiều mạch quản, cơ trơn.
Dây chằng rộng là do nếp phúc mạc trùm lên tử cung ở mặt trên, mặt dới
và kéo dài đến hai thành của chậu hông. Dây chằng rộng ở giữa hai lá phúc mạc,
nên rất quan trọng và có nhiều mạch quản, thần kinh.
6
Tử cung lợn rất dài, trong đó thân tử cung ngắn, hai sừng tử cung dài nh
ruột non, có con dài đến 1m. Cổ tử cung lợn dài, tròn, không gấp nếp nên dễ cho
thụ tinh nhân tạo hơn trâu bò.
* Buồng trứng (Ovarium), gồm một đôi treo ở cạnh trớc dây chằng rộng
và nằm trong xoang chậu. Buồng trứng bên ngoài là một lớp màng liên kết sợi
chắc nh màng bao dịch hoàn. Bên trong buồng trứng chia làm hai miền: miền vỏ
và miền tuỷ, hai miền đó đợc cấu tạo bằng lớp mô liên kết sợi xốp tạo ra cho
buồng trứng một chất đệm. ở miền tủy thì mạch máu nhiều hơn và tổ chức mô
xốp cũng dày hơn. Miền vỏ có tác dụng về sinh dục vì ở đó xảy ra quá trình
trứng chín và rụng trứng.
Buồng trứng nh một tuyến nội tiết của con cái, làm nhiệm vụ nuôi dỡng
cho trứng chín và tiết ra những hocmon sinh dục, tác động đến chức năng của tử
cung và thay đổi tính biệt giữa con đực và con cái.
Bên dới lớp màng của buồng trứng là tế bào trứng nguyên thủy. Khi noãn
bao chín thì các tế bào noãn bao quanh tế bào trứng phân chia thành nhiều tầng
tế bào có hình hạt.
Noãn bao ngày càng phát triển thì các tế bào nang tiêu tan tạo ra một cái
xoang có chứa dịch. Các tầng tế bào còn lại phát triển lồi lên tạo ra một lớp
màng bao bọc ở bên ngoài, có chỗ dày lên để chứa tế bào trứng.
Noãn bao nguyên thuỷ khi trở thành noãn bao chín đợc bao bọc một lớp
màng mỏng.

Tổ chức màng liên kết ngoài buồng trứng lúc này dày lên để bảo vệ noãn
bao chín, giữa màng bảo vệ và màng mỏng của noãn bao là tổ chức mạch quản
dày đặc.
Noãn bao chín nằm ở phần lồi trên của màng liên kết buồng trứng. Noãn
bao chín có kích thớc 1cm. Tế bào trứng trong noãn bao là tế bào lớn nhất trong
cơ thể, có thể trông thấy đợc bằng mắt thờng, kích thớc 0.15 - 0.25 nm.
Lúc noãn bao đã thành thục thì màng bọc nang, màng bao liên kết buồng
trứng tách ra, tế bào trứng đợc rời khỏi buồng trứng, cùng với dịch nang, tế bào
7
hạt đi vào loa kèn. Màng noãn bao rách xong liền lại ngay, các tế bào hạt trong
xoang phân chia nhanh. Thành một khối tế bào lớn để lấp kín xoang noãn bao và
trở thành thể vàng.
Thể vàng tồn tại phụ thuộc vào tế bào trứng đợc thụ tinh hay không đợc
thụ tinh.
Nếu tế bào trứng không đợc thụ tinh thì thể vàng tồn tại không lâu, rồi tiêu
tan mất.
Còn trứng đã đợc thụ tinh thì thể vàng tồn tại cho tới khi sinh đẻ.
Trong suốt thời gian có thai thể vàng tiết ra hocmon Progesteron.
Buồng trứng của lợn hình chùm dài, có màu hồng vân, vị trí nằm ở hai bên
hốc bụng. Noãn bao thành thục có kích thớc 0.8 - 1.2 cm.
* ống dẫn trứng (Ovidustus), còn gọi là vòi Fallop, nằm ở màng treo của
buồng trứng. Một đầu của ống dẫn trứng thông với xoang bụng, gần sát buồng
trứng có hình loa kèn, trên loa kèn hình thành một cái tán rộng và lô nhô không
đều. Đầu kia thông với mút sừng tử cung là một cái ống ngoằn ngoèo. Cấu tạo
ống dẫn trứng gồm ba lớp: phía ngoài cùng là lớp sợi liên kết, giữa là lớp cơ trơn
và phía trong cùng là lớp niêm mạc có các tế bào thợng bì tạo thành nhung mao.
Khi tế bào trứng chín rơi vào loa kèn, nhờ nhung mao rung động và cơ trơn co
bóp trứng sẽ đi về tử cung.
Thời gian tế bào trứng di chuyển trong ống dẫn trứng từ 3 - 10 ngày.
Trên đờng di hành trong ống dẫn trứng, tế bào trứng có thể bị đứng lại ở

các đoạn khác nhau do những chỗ hẹp của ống dẫn trứng.
Khi có tinh trùng đi vào đờng sinh dục cái, tế bào trứng thụ tinh. Quá trình
thụ tinh đó thờng đợc xảy ra ở ống dẫn trứng.
Đờng kính ống dẫn trứng: 0.2 - 0.4 mm, ng dẫn trứng đợc chia làm hai
đoạn:
Đoạn ống dẫn trứng phía buồng trứng: phần đầu trên thông với xoang
bụng ở gần buồng trứng, đợc phát triển to tạo thành một cái phễu để hứng tế bào
trứng, loa kèn phủ toàn bộ buồng trứng. Loa kèn có nhiều tua, nhung mao rung
8
động để hứng tế bào trứng. Quá trình thụ tinh thờng xảy ra khi trứng và tinh
trùng gặp nhau ở đoạn 1/3 phía trên ống dẫn trứng.
Đoạn ống dẫn trứng phía sừng tử cung gắn với mút sừng tử cung. đoạn này
phía ngoài là lớp liên kết sợi, đợc kéo dài từ màng treo buồng trứng. ở giữa là hai
lớp cơ, cơ vòng ở phía trong, cơ dọc ở phía ngoài. Trong cùng là lớp niêm mạc đ-
ợc cấu tạo bằng lớp tế bào hình trụ, hình vuông làm nhiệm vụ tiết niêm dịch.
Phía trên lớp niêm mạc có lớp nhung mao luôn luôn rung động để đẩy tế bào
trứng hay hợp tử xuống tử cung làm tổ.
2.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục lợn cái
2.1.2.1. Sự thành thục về tính
Khi cơ quan sinh dục của gia súc cái phát triển đến mức độ hoàn thiện,
buồng trứng có bao noãn chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ thai, tử
cung biến đổi theo, đủ điều kiện để cho thai phát triển trong tử cung. Những dấu
hiệu động dục xuất hiện đối với gia súc nh vậy gọi là sự thành thục về tính. Sự
thành thục về tính nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau nh:
giống, điều kiện nuôi dỡng quản lý, ngoại cảnh. Trong điều kiện nuôi dỡng,
chăm sóc, quản lý tốt, sức khoẻ của gia súc tăng lên thì tính thành thục của lợn
xuất hiện sớm.
Theo A.A Xuxoep (1985) [9], sự thành thục của gia súc đợc đặc trng bởi
hàng loạt những thay đổi bên trong và bên ngoài của cơ thể, đặc biệt là sự biến
đổi bên trong của cơ quan sinh dục. Sự thành thục về tính có ý nghĩa rất lớn là

điều kiện cho sinh sản, một bản năng của gia súc cái.
* Các yếu tố ảnh hởng đến tuổi thành thục tính:
- Yếu tố giống: Các giống gia súc khác nhau thì tuổi thành thục về tính
cũng khác nhau, sự thành thục về tính ở những gia súc có tầm vóc nhỏ thờng
sớm hơn gia súc có tầm vóc lớn. Các giống lợn nội tuổi thành thục về tính là 4 -
5 tháng, các giống lợn Landrace, Yorkshire tuổi thành thục về tính là 6 -7 tháng.
9
Theo Phạm Hữu Doanh và cộng sự (1994) [24], thì tuổi thành thục sinh
dục ở lợn lai muộn hơn lợn cái nội thuần chủng (ỉ, Móng Cái) thờng ở tháng thứ
4, thứ 5 (120 - 150 ngày tuổi). Lợn F1 thờng động dục lần đầu ở 6 tháng tuổi, lợn
ngoại 6 - 8 tháng tuổi.
- Yếu tố dinh dỡng và cách thức nuôi dỡng: Dinh dỡng có ảnh hởng rất lớn
đến tuổi thành thục về tính của lợn nái. Cùng một giống nhng nếu đợc nuôi d-
ỡng, chăm sóc, quản tốt, gia súc phát triển tốt thì sẽ thành thục về tính sớm hơn
và ngợc lại.
- Điều kiện ngoại cảnh:
Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hởng tới tuổi thành thục về tính của gia súc.
Những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thờng thành thục về
tính sớm hơn những lợn nuôi ở vùng có khí hậu ôn đới và hàn đới.
Sự kích thích của con đực cũng ảnh hởng tới sự thành thục của lợn cái hậu
bị. Nếu để một con đực đã thành thục về tính gần ô chuồng của những con cái
hậu bị sẽ thúc đẩy nhanh sự thành thục về tính của chúng. Theo Paul(1996), nếu
cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với đực 2 lần/ngày, với thời gian 15 - 20 phút thì 83%
lợn cái (ngoài 90 kg) động dục lúc 165 ngày tuổi.
Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu dài hơn
lợn nuôi chăn thả. Vì lợn chăn thả sẽ có thời gian tăng cờng trao đổi chất, tổng
hợp đợc sinh tố và có dịp tiếp xúc với lợn đực, nên có tuổi động dục lần đầu sớm
hơn.
Tuy nhiên, cần lu ý là tuổi thành thục về tính thờng sớm hơn tuổi thành
thoục về thể vóc. Vì vậy, để đảm bảo sự sinh trởng và phát triển bình thờng của

lợn mẹ và đảm bảo phẩm chất giống của thế hệ sau nên cho gia súc phối giống
khi đã đạt một khối lợng nhất định tùy theo giống. Ngợc lại, cũng không nên cho
gia súc phối giống quá muộn vì ảnh hởng tới năng suất sinh sản của một đời nái
đồng thời ảnh hởng tới thế hệ sau của chúng.
10
2.1.2.2. Chu kỳ động dục (Chu kỳ tính)
Từ khi thành thục về tính những biểu hiện tính dục của lợn đợc diễn ra liên
tục và có tính chu kỳ. Các noãn bao trên buồng trứng phát triển, lớn dần, chín và
nổi cộm trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang Graaf vỡ, trứng
rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con cái có những biểu hiện ra bên
ngoài gọi là động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng theo chu
kỳ (Khuất Văn Dũng, 2005) [12].
Chu kỳ tính có sự khác nhau giữa các loài, thời gian kéo dài chu kỳ động
dục giữa các loài cũng có sự khác nhau. ở thời gian đầu, do mới có sự thành thục
về tính cho nên chu kỳ tính cha ổn định, phải sau 2 - 3 chu kỳ tiếp sau mới có đ-
ợc sự ổn định.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [1],lợn động dục không theo mùa,
chu kỳ động dục thờng 21 ngày, thời gian dao động từ 18 - 22 ngày.
Nguyễn Văn Thành (2002) [13], cho rằng: Chu kỳ động dục của lợn liên
quan chặt chẽ với quá trình điều hoà kích tố trong cơ thể, và đợc sự điều khiển
với hệ thống thần kinh thể dịch.
Chu kỳ động dục là khoảng thời gian giữa 2 lần động dục và nó đợc chia
làm 4 giai đoạn:
* Giai đoạn trớc động dục
Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục, nó xuất hiện đầy đủ các hoạt
động về sinh lý, tính thành thục trong đó sự phát triển của noãn bao thành thục
nổi rõ lên bề mặt của buồng trứng, buồng trứng to hơn bình thờng, các tế bào của
vách ống dẫn trứng tăng sinh, số lợng lông nhung tăng lên. Đờng sinh dục sung
huyết, nhu động sừng tử cung tăng cờng, mạch quản trong màng nhầy tử cung
cũng tăng lên, các dịch nhầy ở âm đạo nhiều, niêm dịch cổ tử cung tiết ra kích

thích cho cổ tử cung hé mở, các tuyến ở đờng sinh dục tăng cờng hoạt động. Giai
đoạn này tính hng phấn cha cao, dần dần noãn bao chín tế bào trứng đợc tách ra,
sừng tử cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở hoàn toàn, bộ phận sinh dục phù
11
thũng, niêm dịch ở đờng sinh dục chảy ra nhiều nhất, con vật bắt đầu xuất hiện
tính dục. Giai đoạn này ở lợn kéo dài 1-2 ngày.
Tất cả những biến đổi đó tạo điều kiện thuận lợi cho tinh trùng vào đờng
sinh dục cái để thụ tinh với tế bào trứng.
* Giai đoạn động dục
Là giai đoạn tiếp theo thờng kéo dài từ 2-3 ngày. Trong giai đoạn này
những biến đổi về sinh lý so với giai đoạn trớc động dục càng rõ rệt hơn. Bên
ngoài âm hộ phù thũng, niêm mạc xung huyết, niêm dịch trong suốt từ âm đạo
chảy ra nhiều. Cuối giai đoạn này tính hng phấn của con vật cao độ, gia súc ở
trạng thái không yên tĩnh, ăn uống giảm rõ rệt, chạy, kêu rống, phá chuồng,
đứng ngẩn ngơ, nhảy lên lng con khác hay để con khác nhảy len lng, đái dắt,
thích gần con đực, xuất hiện các t thế của phản xạ giao phối, hai chân sau dạng
ra, đuôi cong về một bên. Các biểu hiện đó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tế
bào trứng đợc gặp tinh trùng để thụ tinh và phát triển hợp tử trong tử cung.
Nếu ở giai đoạn này, tế bào trứng gặp tinh trùng và xảy ra quá trình thụ
tinh tạo thành hợp tử thì chu kỳ sinh dục ngừng lại, gia súc cái ở vào giai đoạn có
thai, đến khi đẻ xong một thời gian nhất định tuỳ loài gia súc thì chu kỳ sinh dục
mới lại bắt đầu. Nếu không xảy ra quá trình trên thì lợn cái sẽ chuyển sang giai
đoạn tiếp theo của chu kỳ tính.
* Giai đoạn sau động dục
Giai đoạn này kéo dài khoảng 2 ngày, toàn bộ cơ thể nói chung và cơ quan
sinh dục nói riêng dần trở lại trạng thái sinh lý bình thờng, rồi chuyển sang giai
đoạn yên tĩnh làm giảm tiết oestrogen, từ đó làm giảm tính hng phấn thần kinh,
con vật chịu khó ăn uống hơn, niêm mạc toàn bộ đờng sinh dục ngừng tăng sinh,
các tuyến ở cơ quan sinh dục ngừng tiết dịch, cổ tử cung đóng lại.
* Giai đoạn nghỉ ngơi

Giai đoạn này kéo dài 10 - 12 ngày, bắt đầu từ ngày thứ t sau khi rụng
trứng mà không đợc thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu huỷ. Đây là giai đoạn
con vật hoàn toàn yên tĩnh , cơ quan sinh dục hoạt động trở lại trạng thái sinh lý
12
bình thờng, trong buồng trứng thể vàng bắt đầu teo đi, noãn bao bắt đầu phát dục
nhng cha nổi rõ trên bề mặt buồng trứng. Toàn bộ cơ quan sinh dục dần xuất
hiện những biến đổi chuẩn bị cho chu kỳ sinh dục tiếp theo.
Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, nắm đợc chu kỳ tính và các giai đoạn
cuả quá trình động dục sẽ giúp cho ngời chăn nuôi có chế độ nuôi dơng, chăm
sóc cho phù hợp và phối giống kịp thời, đúng thời điểm, từ đó góp phần nâng cao
năng suất sinh sản của lợn nái.
2.1.2.4. Sinh lý quá trình đẻ
* Khái niệm đẻ.
Gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định, khi bào thai đã phát
triển đầy đủ, gia súc mẹ đẩy thai ra ngoài cùng với nhau thai, dịch thai, quá trình
đó gọi là đẻ.
* Thời gian đẻ của gia súc
Thời gian đẻ của gia súc đợc tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi
thai ra ngoài cơ thể mẹ và số lợng bào thai ra hết ở những loài gia súc đa thai.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [1], thời gian đẻ của lợn từ 2 -6
giờ.
* Những biểu hiện của cơ thể mẹ trong thời gian gần sinh đẻ
Quá trình sinh đẻ của gia súc là một quá trình sinh lý bình thờng. Cho nên
cuối thời kỳ mang thai gia súc cái có những biểu hiện của quá trình đẻ, chủ yếu
là đờng sinh dục và bầu vú.
- Triệu chứng ở thời kỳ sắp đẻ.
Trớc thời gian đẻ 1 -2tuần, nút niêm dịch ở cổ tử cung đờng sinh dục lỏng,
sát dính và chảy ra ngoài. Còn 1 -2 ngày trớc khi gia súc đẻ thì cơ quan sinh dục
bên ngoài có những thay đổi: âm môn phù to, nhão ra và xung huyết nhẹ, đầu
núm vú to, bầu vú căng to, tĩnh mạch vú nổi rõ ràng. Nhiệt độ cơ thể thờng thay

đổi, trớc khi đẻ nhiệt độ tăng cao hơn bình thờng. Bên ngoài gia súc có hiện tợng
sụt mông.
13
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [1], lợn trớc khi đẻ 10 - 15 ngày
bầu vú căng. Giữa bầu vú và thành bụng đợc phân chia ranh giới rõ ràng.
Sữa đầu cũng là một căn cứ đáng tin cậy để chẩn đoán ngày đẻ của lợn.
Lợn nái trớc khi đẻ 3 ngày, cặp vú giữa đã tiết ra nớc trong. Trớc khi đẻ 1 ngày
có thể vắt đợc giọt sữa màu trắng. Khi cặp vú phía trớc đã vắt đợc vài giọt sữa
đầu thì lợn sẽ đẻ trong vài giờ tới.
Ngoài ra, lợn cái trớc khi đẻ 3 - 5 ngày mép âm đạo sng to, niêm mạc âm
đạo xung huyết, niêm dịch từ đặc chuyển sang loãng dần và nhớt. Lợn trớc khi
đẻ 6 - 12 giờ cớ hiện tợng cắn ổ.
- Triệu chứng rặn đẻ.
Khi đẻ gia súc mẹ phải dùng sức đẩy thai cùng với các khí quan trong đ-
ờng sinh dục để đa thai ra ngoài. Sức rặn căn bản là do sự co bóp của tử cung, sự
co bóp này bắt đầu từ sừng tử cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung, kết quả là
làm mở rộng cổ tử cung.
Nhng chỉ nhờ vào sự co bóp của tử cung thì không đẩy thai ra ngoài mà
phải nhờ vào sự co bóp của cơ ở bụng, hoành cách mô và toàn thân. Đó mới là
rặn đẻ, mặt khác còn dựa vào sự co bóp của cơ âm đạo, chậu hông, sức co bóp
của tử cung. Khi có triệu chứng đẻ thì tử cung bắt đầu co bóp, ban đầu yếu sau
mạnh dần.
* Quá trình sinh đẻ
Quá trình sinh đẻ của gia súc cái do sự co bóp của tử cung, cơ thành bụng,
sức rặn toàn thân, thai, màng nhau thai cùng với nớc thai đợc tống ra ngoài. Quá
trình sinh đẻ đợc chia làm 3 thời kỳ:
- Thời kỳ mở cổ tử cung.
Thời kỳ này bắt đầu từ khi tử cung có cơn co bóp đầu tiên đến khi cổ tử
cung mở ra hoàn toàn. Tuỳ từng giống mà biểu hiện bên ngoài không giống nhau.
ở Lợn thờng hay đứng nằm không yên, đi đi lại lại và có triệu chứng cắn ổ.

14
Động lực thúc đẩy cho quá trình đẻ là sự co bóp của cơ quan sinh dục đợc
tiến hành từ mút sừng tử cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung và đến âm đạo,
thời gian co bóp có những khoảng cách nên gọi là những cơn rặn.
Con vật xuất hiện cơn rặn đầu tiên trong thời kỳ 1 nhng nói chung cơn rặn
này yếu về cờng độ, thời gian cơn rặn ngắn, thời gian nghỉ giữa hai cơn rặn lại
dài từ 20 - 30 phút, mỗi cơn rặn thờng 2 -3 giây. Nếu con mẹ rặn liên tục thì
mạch máu của bào thai chèn ép, tuần hoàn đình trệ, dỡng khí cung cấp cho thai
thiếu, thai ra chậm có thể bị ngạt. Càng về sau thì thời gian co bóp càng dài hơn,
khoảng cách giữa hai lần co bóp rút ngắn lại.
Cờng độ co bóp chuyển từ sừng tử cung xuống thân tử cung, đến cổ tử
cung ra ngoài âm đạo. Nớc ở trong tử cung và màng thai dồn ép ra ngoài, cổ tử
cung lúc này đã mở ra, màng thai đã một phần lọt ra ngoài. Cùng với sức co bóp
của tử cung tăng lên, màng thai lại tiếp tục chui ra, lúc này giữa cổ tử cung và
âm đạo không còn ranh giới nữa, cổ tử cung co bóp làm sừng tử cung co ngắn
lại, dồn ép xuống thân tử cung, kích thích cho thai thúc đẩy ra ngoài, cổ tử cung
mở rộng hoàn toàn, sức co bóp của sừng tử cung đẩy mạnh phần trớc của thai ra
ngoài âm đạo.
Cùng lúc thai ra ngoài có hiện tợng vỡ ối, màng ối và màng niệu vỡ ra.
Thứ tự màng niệu vỡ trớc, màng ối vỡ sau, nớc ối và nớc niệu đều ra cùng với
màng ối, màng niệu cũng góp phần làm cho cổ tử cung mở rộng hoàn toàn đồng
thời làm trơn đờng sinh dục, cho thai đi ra ngoài dễ dàng.
- Thời kỳ đẻ hay còn gọi là sổ thai.
Thời kỳ này bắt đầu từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn và kết thúc khi thai lọt
ra ngoài. ở thời kỳ này thai qua cổ tử cung và đi vào âm đạo. Nếu đẻ bình thờng
(dọc đầu sấp) bộ phận đi trớc nhất là đầu và chân. Lúc này gia súc cái bồn chồn,
đứng nằm không yên, chân cào đất, có con chân đá vào bụng, lng cong lên mà
rặn.
Khi đầu của thai đã đi vào hố chậu, gia súc cái lại nằm xuống. Đặc điểm
là sức co bóp của tử cung trong thời kỳ này mạnh vì thân của thai tiếp xúc với

15
niêm mạc âm đạo, gây ra một ma sát lớn. Trong lúc này gia súc thờng kêu,
nguyên nhân của gia súc kêu, phản ứng đau đớn khi sinh đẻ là vì dịch ối, dịch
niệu chảy ra hết, thân thai lại tiếp giáp vào niêm mạc âm đạo.
Bào thai đã đi ra đờng sinh dục thì tăng kích thích cho cơ co bóp, lực co
bóp lúc này là tổng hợp giữa co bóp của đờng sinh dục, sự co bóp của cơ thành
bụng, cơ hoành thành một lực mạnh và đợc kéo dài.
Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [1], lợn rặn đẻ thờng khác với loài gia
súc khác, tử cung co bóp đẩy thai theo chiều dọc và co bóp theo từng đoạn. Sự co
bóp bắt đầu từ gốc sừng tử cung, lan dần đến đầu nhọn của sừng tử cung. Hai sừng
tử cung thay nhau co bóp. Trong cơn rặn đẻ lợn thờng nằm nghiêng, cũng có khi
đứng lên nhng lại nằm xuống ngay, màng thai của lợn không lòi ra ngoài âm hộ,
nớc ối ít, thai lợn ra từng con một, sau mỗi lần rặn thờng thai lợn ra dễ dàng.
- Thời kỳ sổ nhau (hay còn gọi là bong nhau).
Sau khi thai lọt ra khỏi đờng sinh dục gia súc mẹ một thời gian, con mẹ trở
nên yên tĩnh, nhng tử cung vẫn co bóp và tiếp tục những cơn rặn, mỗi lần co bóp
1.5 - 2 phút, thời gian giữa hai lần co bóp là 2 phút, nhng cờng độ lúc này yếu
hơn.
Sau khi sổ thai khoảng 2 -3 giờ tử cung co nhỏ lại, thành tử cung dày, trên
bề mặt có nhiều nếp nhăn, bên trong tử cung có nhiều núm nhau. Cơn rặn lúc
này của gia súc cái chủ yếu là đa nhau thai ra ngoài.
Trong thời gian này tuần hoàn của núm nhau mẹ và núm nhau con đã giảm
nên nhau thai có thể tách ra đợc. Các nhung mao teo lại, tách núm nhau mẹ ra
khỏi nhau thai. Trong thời gian này tử cung tiếp tục co bóp và thu nhỏ lại dần về
thể tích, nhng màng niệu và màng nhung mao thì không co lại đợc nên tử cung
đẩy ra ngoài.
Trong quá trình đẩy màng nhau thai ra, do đặc tính của tử cung co bóp từ
mút sừng tử cung cho xuống thân tử cung nên màng nhau thai bong ra sẽ đợc lộn
trái, phần ở nút sừng tử cung ra trớc, sau đó bong dần xuống sừng tử cung, thân
tử cung và ra ngoài.

16
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [1], lợn sau khi thai ra hết toàn
bộ, khoảng 10 -50 phút nhau thai mới ra. Nhau thai của lợn chia thành hai đống,
mỗi đống gồm nhau thai của tất cả các thai chứa trong một sừng tử cung.
Trong sừng tử cung lợn có ít thai thì nhau thai không dính lại nh vậy, mà
ra từng cái một, thai sau có thể đẩy nhau thai của thai trớc ra. Nếu trong sừng tử
cung lợn có xen kẽ nhiều thai bình thờng và thai bị chết khô thì nhau thai cũng
ra thành nhiều đống. Thờng thai chết khô trong sừng tử cung sẽ ra cùng với nhau
thai.
2.2. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái
2.2.1. Nguyên nhân của bệnh viêm tử cung
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [1], viêm tử cung là một quá trình
bệnh lý thờng xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế
bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái
làm ảnh hởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Theo các tác giả Đào Trọng Đạt và cộng sự (2000) [14], bệnh viêm tử
cung ở lợn nái thờng do các nguyên nhân sau:
- Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phơng
pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không đ-
ợc vô trùng khi phối giống có thể đa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái gây
viêm.
- Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dơng vật hoặc
mang vi khuẩn từ lợn nái khác đã bị viêm tử cung viêm âm đạo truyền sang cho
lợn khoẻ.
- Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thơng niêm mạc tử
cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
- Lợn nái sau khi đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử
cung.
17
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm nh: sẩy thai truyền nhiễm, phó

thơng hàn, bệnh lao gây viêm.
- Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trớc và sau đẻ
không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm
nhập và gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân kể trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng
nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động dục
(vì lúc đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đờng máu và
viêm tử cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Theo Lê Văn Năm
và cộng sự, 1997 [11]).
Theo F.Madec và C.Neva (1995) [15], bệnh viêm tử cung và các bệnh ở đ-
ờng tiết niệu có mối quan hệ mật thiết với nhau, vi khuẩn trong nớc tiểu cũng
phát triển trong âm đạo và việc gây nhiễm ngợc lên tử cung là rất dễ xảy ra.
Nhiễm khuẩn tử cung qua đờng máu là do vi khuẩn sinh trởng ở một cơ
quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trờng hợp lợn hậu bị cha phối nh-
ng đã bị viêm tử cung.
2.2.2. Hậu quả của bệnh viêm tử cung
Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh
dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hởng
rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trởng, phát triển của lợn con.
Đánh giá đợc hậu quả của viêm tử cung nên đã có rất nhiều nhà khoa học
nghiên cứu về bệnh và đa ra các nhận xét có ý nghĩa rất lớn cho quá trình chẩn
đoán, phòng và điều trị bệnh.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [1] và Trần Thị Dân (2004) [16],
khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:
- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sẩy thai.
18
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt
của cơ tử cung giảm đi dới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám
chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung

tíêt nhiều Prostaglandin, PGF2 gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách
bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá
các mao quản ở thể vàng nên giảm lu lợng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá
huỷ, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lợng Progesterone trong máu sẽ
giảm làm cho tính trơng lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị
sẩy thai.
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để
giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lợng Progesterone
giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào
thai nhận đợc ít thậm chí không nhận đợc dinh dỡng từ mẹ nên phát triển kém
hoặc chết lu.
- Sau khi sinh con lợng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai
đoạn theo mẹ thờng bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đờng sinh dục thờng có mặt của
vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích
tố tạo sữa Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lợng sữa
giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thờng bị tiêu chảy, còi cọc.
- Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại.
Nếu tử cung bị viêm mạn tính thì sự phân tiết PGF2 giảm, do đó thể vàng
vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone.
Progesterone ức chế thuỳ trớc tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát
triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại đợc
và không thải trứng đợc.
Theo F.Madec và C.Neva (1995) [15], ảnh hởng rõ nhất trên lâm sàng mà
ngời chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn viêm tử cung lúc sinh đẻ là: chảy
19
mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ ảnh h-
ởng rất lớn tới năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống không đạt
tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tợng viêm tử cung âm ỉ
kéo dài từ lứa đẻ trớc đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt

khác, viêm tử cung là một trong những nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ
đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo
viêm bàng quang thì còn ảnh hởng tới hoạt động của buồng trứng.
Qua đó cho thấy, hậu quả của viêm tử cung là rất lớn, để tỷ lệ mắc bệnh
giảm, ngời chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh từ đó tìm ra biện
pháp đề phòng và điều trị hiệu quả.
2.2.3. Các thể viêm tử cung
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [1], thì viêm tử cung đợc chia làm
3 thể: Viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tơng mạc tử cung.
2.2.3.1. Viêm nội mạc tử cung (Endometritis)
Khi gia súc đẻ, nhất là trong những trờng hợp đẻ khó phải can thiệp bằng
tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây xát, tổn thơng, vi khuẩn xâm nhập và
phát triển gây viêm nội mạc tử cung. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm nh
sẩy thai truyền nhiễm, phó thơng hàn, bệnh lao thờng gây ra viêm nội mạc tử
cung. Căn cứ vào tính chất, trạng thái của quá trình bệnh lý, viêm nội mạc tử
cung có thể chia ra làm 2 loại:
- Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ.
- Viêm nội mạc tử cung có màng giả.
* Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ (Endomestritis
Puerperalis Catarrhalis purulenta acuta)
Bệnh này xuất hiện ở tất cả các loài gia súc. Lợn bị bệnh này thân nhiệt
hơi cao, ăn uống giảm, lợng sữa giảm. Con vật có trạng thái đau đớn nhẹ, đôi khi
20
cong lng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ cơ quan sinh dục thải ra ngoài hỗn dịch,
niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức chết
Khi con vật nằm xuống, dịch viêm thải ra càng nhiều hơn. Xung quanh âm
môn, gốc đuôi, hai bên mông dính nhiều dịch viêm, có khi nó khô lại hình thành
từng đám vẩy, màu trắng xám. Kiểm tra qua âm đạo, niêm dịch và dịch viêm thải
ra nhiều. Cổ tử cung hơi mở và có mủ chảy qua cổ tử cung. Niêm mạc âm đạo
bình thờng.

* Viêm nội mạc tử cung màng giả
Thể viêm này, niêm mạc tử cung thờng bị hoại tử. Những vết thơng đã ăn
sâu vào tầng cơ của tử cung và chuyển thành hoại tử. Lợn bị bệnh xuất hiện triệu
chứng toàn thân rõ: thân nhiệt lên cao, ăn uống và lợng sữa giảm, có khi hoàn
toàn mất sữa, kế phát viêm vú. Con vật đau đớn, luôn rặn, lng và đuôi cong lên.
Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn dịch: Dịch viêm, máu, mủ, lợn cợn
những mảnh tổ chức hoại tử, niêm dịch
2.2.3.2. Viêm cơ tử cung (Myomestritis puerperllis)
Viêm cơ tử cung thờng kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả.
Niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu
vào tử cung làm niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thơng mạch quản và lâm
ba quản. Từ đó làm cho các lớp cơ và một ít tơng mạc cũng bị hoại tử. Có thể
dẫn đến hiện tợng nhiễm trùng mủ. Có khi vì lớp cơ và lớp tơng mạc tử cung bị
phân giải, bị hoại tử mà tử cung bị thủng hay hoại tử từng đám.
Lợn nái bị bệnh thờng biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt tăng
cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, sản lợng sữa giảm hay mất hẳn. Con vật kế phát
chớng bụng đầy hơi, viêm vú có khi viêm phúc mạc. Gia súc biểu hiện trạng thái
đau đớn, rặn liên tục, từ cơ quan sinh dục luôn luôn thải ra ngoài hỗn dịch màu đỏ
nâu lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên có mùi tanh thối.
Thể viêm này thờng ảnh hởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ lần sau. Có
trờng hợp điều trị khỏi nhng gia súc vô sinh.
21
2.2.3.3. Viêm tơng mạc tử cung (Permestritis puerperalis)
Viêm tơng mạc tử cung thờng kế phát từ viêm cơ tử cung. Bệnh này thờng
ở thể cấp tính, cục bộ, toàn thân xuất hiện những triệu chứng điển hình và nặng.
Lúc đầu, lớp tơng mạc tử cung có màu trắng, sau chuyển sang đỏ sẫm, sần
sùi mất tính trơn bóng. Sau đó các tế bào bị phân huỷ và bong ra, dịch thẩm xuất
tăng tiết. Trờng hợp viêm nặng, nhất là thể viêm có mủ, lớp tơng mạc có thể dính
với các tổ chức xung quanh gây nên tình trạng viêm Parametristis và có thể kế
phát viêm phúc mạc.

Lợn nái biểu hiện triệu chứng toàn thân: Thân nhiệt tăng cao, mạch nhanh,
con vật ủ rũ, uể oải, đại tiểu tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn. Lợng sữa
rất ít hoặc mất hẳn, thờng kế phát viêm vú. Con vật luôn biểu hiện trạng thái đau
đớn, khó chịu, lng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm hộ thải ra ngoài rất nhiều
hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có mầu nâu và mùi thối khắm. Khi kích thích
vào thành bụng thấy con vật có phản xạ đau rõ hơn, rặn nhanh hơn, từ âm hộ
dịch chảy ra nhiều hơn. Trờng hợp một số vùng của tơng mạc đã dính với các bộ
phận xung quanh thì có thể phát hiện đợc trạng thái thay đổi về vị trí và hình
dáng của tử cung, có khi không tìm thấy một hoặc cả hai buồng trứng.
Thể viêm này thờng dẫn đến kế phát bệnh viêm phúc mạc, bại huyết,
huyết nhiễm mủ. Nếu điều trị không kịp thời bệnh thờng chuyển thành thể viêm
mãn tính. Thành ngoài tử cung thờng dính với các tổ chức xung quanh, vị trí các
bộ phận của cơ quan sinh dục bị thay đổi, quá trình thụ tinh và sinh đẻ lần sau
gặp nhiều khó khăn, có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng sinh sản.
2.2.4. Chẩn đoán viêm tử cung
Theo F.Madec và C.Neva (1995) [15], xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì
bệnh viêm tử cung thờng biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động đực, vì đây là
thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lợng mủ không
ổn định, từ vài ml cho tới 200ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ
dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc nh kem, có thể
22
màu máu cá. Ngời ta thấy rằng thời kỳ sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung
cấp tính, viêm tử cung mạn tính thờng gặp trong thời kỳ cho sữa. Hiện tợng chảy
mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung.
Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những
mảnh trắng giống nh mủ đọng lại ở âm hộ nhng lại có thể là chất kết tinh của n-
ớc tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể là
do viêm bàng quang có mủ gây ra. Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất
chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ra
ở thời kỳ động đực thì có thể nhầm lẫn.

Bảng1: Các tiêu chí chẩn đoán viêm tử cung
STT Chỉ tiêu để phân biệt
Viêm nội
mạc
Viêm cơ
Viêm tơng
mạc
1 Sốt Sốt nhẹ Sốt cao Sốt rất cao
2
Dịch viêm
Màu
Trắng xám,
trắng sữa
Hồng, nâu
đỏ
Nâu rỉ sắt
3 Mùi Tanh Tanh thối Thối khắm
4 Phản ứng đau Đau nhẹ Đau rõ Đau rất rõ
5 Phản ứng co cơ tử cung
Phản ứng
co giảm
Phản ứng co
rất yếu
Phản ứng
co mất hẳn
6 Bỏ ăn
Bỏ ăn một
phần hoặc
hoàn toàn
Bỏ ăn hoàn

toàn
Bỏ ăn hoàn
toàn
Nh vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tơng đối. Với
một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết
hợp xét nghiệm nớc tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác, nên
kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính xác.
Tóm lại, chẩn đoán viêm tử cung cần rất cẩn thận, phải theo dõi thờng
xuyên vì mủ chảy ra ở âm hộ chỉ mang tính chất thời điểm và có khi viêm tử
cung nhng không sinh mủ.
2.3. Tình hình nghiên cứu bệnh viêm tử cung
23
2.3.1. Trên thế giới
Trong chăn nuôi lợn sinh sản thậm chí cả nuôi lợn thịt, năng suất chăn
nuôi phụ thuộc phần lớn vào khả năng sinh sản trong đó hai yếu tố chính là độ
đông con và độ mắn đẻ. Do vậy, u tiên hàng đầu và liên tục của chăn nuôi lợn
sinh sản là tạo ra đợc nhiều lợn con sinh ra và sống sót cho tới lúc cai sữa và
đồng thời giảm thời gian phi sản xuất cho lợn nái nhất là do không thụ thai. Mục
tiêu trên đòi hỏi sự làm việc cờng độ cao ở lợn nái và nhất là cơ quan sinh sản.
Do vậy, các cơ quan sinh sản đóng vai trò rất quan trọng trong quyết định năng
suất chăn nuôi. Những bất thờng của cơ quan sinh sản, nói rõ hơn là các rối loạn
kiểu viêm tử cung làm năng suất sinh sản của lợn nái bị ảnh hởng (F.Madec
1995 [15]).
Theo A.Vtrekaxova (1983) [17], trong số các nguyên nhân dẫn tới ít sinh
đẻ và vô sinh của lợn thì các bệnh ở cơ quan sinh dục chiếm 5 - 15%.
Winsơn khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định trong cơ quan sinh
dục ở 52,5% lợn nái đẻ lứa đầu, 31.1% lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý:
viêm vòi tử cung có nớc và có mủ.
F.Madec (1995) [15], khi tiến hành nghiên cứu bệnh lý sinh thái vào năm
1991 trên số đàn lợn xứ Brơ - ta- nhơ (Pháp) với chủ đề bệnh lý sinh đẻ cho thấy

15% số lợn nái bị viêm tử cung.
M.Varadin, B.Stlobad, F.Sadauc, N.Predrag (1971) [23], khi kiểm tra trực
tràng 147 lợn nái 1-6 tuổi trong vòng 1-2 năm không chửa thấy 50% trờng hợp bị
viêm trong tử cung và những biến đổi có u nớc ở ống dẫn trứng, buồng trứng và
tử cung.
Theo F.Madec (1995) [15], viêm tử cung thờng bắt đầu bằng sốt một vài
giờ sau khi đẻ, chảy mủ ngày hôm sau và bệnh thờng kéo dài 48 đến 72 giờ.
Công trình nghiên cứu tại một trại lợn lớn ở Đan Mạch (Halgaard, 1983)
cho thấy hiện tợng sốt sau khi đẻ có kèm theo chảy mủ là 20% số lợn nái.
Trong bệnh viêm tử cung thì viêm nội mạc tử cung chiếm tỷ lệ cao. Kamin
kiểm tra 1000 lợn nái ở liên bang Đức cho kết quả là 16% bị viêm nội mạc tử cung.
24

×