Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

chức năng tạo lập môi trường cho các hoạt động kinh tế của quản lý nhà nước về kinh tế.liên hệ thực tiễn trong lĩnh vực đầu tư ở vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.81 KB, 23 trang )

Mở đầu
Kể từ dấu mốc lịch sử 1986, khi đất nước chúng ta quyết định thực hiện
công cuộc đổi là một xu thế tất yếu của quá trình hội nhập.Sau bao nhiêu năm đât
nước chìm trong chiến tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, thì hậu quả của nó là một
nền kinh tế Việt nam nghèo nàn lạc hậu, sản xuất nhỏ manh mún,đời sống nhân
dân vô cùng khó khăn, thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế
giới.Việt Nam đang cần rất nhiều nguồn lực cũng như sự ủng hộ để khôi phục nền
kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân lao động.Để thoát khỏi tình trạng đó thì việc
mở cửa hội nhập kinh tế là một xu thế tất yếu, Đảng và Nhà nước đã nhận ra điều
đó nên trong Đại hội Đảng lần VI đã có quết định mở cửa hội nhập.
Đi cùng với vấn đề mở của hội nhập thì việc quản lý và tạo điều kiện cho sự
phát triển kinh tế là một vấn đề cần được quan tâm hàng đầu.Nhà nước sẽ có vai
trò điều tiết kinh tế, định hướng phát triển kinh tế theo hướng đi và chiến lược đã
đề ra.Để làm được điều đó Nhà nước cần thực hiện vai trò, chức năng của mình
thông qua các công cụ của mình.Để làm rõ hơn vai trò của nhà nước trong quản lý
các vấn đề kinh tế, các thành viên nhóm 4 tập trung nghiên cứu một chức năng rất
quan trong của quản lý nhà nước về kinh tế: “ Chức năng tạo lập môi trường cho
các hoạt động kinh tế của quản lý nhà nước về kinh tế.Liên hệ thực tiễn trong lĩnh
vực đầu tư”
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng trong quá trình thu thập tài liệu và phân tích
còn gặp nhiều khó khăn,nên bài của nhóm không tránh được những sai sót, mong
thầy cô và các bạn thông cảm.
Chương 1.
Quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế.
1.1.Khái niệm Quản lý nhà nước về kinh tế.
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân là sự tác động có tổ chức và
bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu
quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt
được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đạt ra, trong điều kiện hội nhập và
mở rộng giao lưu quốc tế.


Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý xã hội nói chung và nó phải
gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội.
Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng kinh tế
và quản lý kinh tế của Nhà nước.
1.2. Chức năng của quản lý Nhà nước về kinh tế.
a. Định hướng sự phát triển của nền kinh tế
Định hướng sự phát triển kinh tế là xác định con đường và hướng sự vận
động của nền kinh tế nhằm đạt đến một đích nhất định (gọi là mục tiêu) căn cứ vào
đặc điểm kinh tế, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ nhất định (cách đi, bước
đi cụ thể, trình tự thời gian cho từng bước đi để đạt được mục tiêu)
Nội dung định hướng phát triển nền kinh tế
Chức năng định hướng có thể khái quát thành những nội dung chủ yếu sau đây:
- Xác định mục tiêu chung dài hạn. Mục tiêu này là cái đích trong một tương
lai xa, có thể vài chục năm hoặc xa hơn.
- Xác định mục tiêu trong từng thời kỳ (có thể là 10, 15, 20 năm) được xác
định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và được thể hiện trong kế hoạch 5
năm, kế hoạch 3 năm, kế hoạch hàng năm.
- Xác định thứ tự ưu tiên các mục tiêu
- Xác định các giải pháp để đạt được mục tiêu
b. Tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế
Môi trường cho sự phát triển kinh tế là tập hợp các yếu tố, các điều kiện tạo
nên khung cảnh tồn tại và phát triển của nền kinh tế. nói cách khác, là tổng thể các
yếu tố và điều kiện khách quan, chủ quan; bên ngoài, bên trong; có mối liên hệ mật
thiết với nhau, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến việc phát triển kinh tế và
quyết định đến hiệu quả kinh tế.
Một môi trường thuận lợi được coi là bệ phóng, là điểm tựa vững chắc cho
sự phát triển của nền kinh tế nói chung và cho hoạt động sản xuất-kinh doanh của
các doanh nghiệp nói riêng; ngược lại, môi trường kinh doanh không thuận lợi
không những sẽ kìm hãm, cản trở mà còn làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng
khủng hoảng, trì trệ và các doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản hàng loạt.

Vì vậy, việc tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước và cho
sự phát triển sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là một chức năng quản lý
kinh tế của Nhà nước.
Để tạo lập các môi trường, Nhà nước cần tập trung tốt các vấn đề sau:
- Đảm bảo sự ổn định về chính trị và an ninh quốc phòng, mở rộng quan hệ
đối ngoại, trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Xây dựng và thực thi một cách nhất quán các chính sách kinh tế-xã hội
theo hướng đổi mới và chính sách dân số hợp lý.
- Xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật
- Xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng, bảo đảm điều kiện cơ bản cho
hoạt động kinh tế có hiệu quả: giao thông, điện nước, thông tin, dự trữ quốc gia
- Xây dựng cho được một nền văn hoá trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc và thừa kế tinh hoa văn
hoá của nhân loại.
- Xây dựng một nền khoa học-kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cần thiết và
phù hợp, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế và sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, cải cách nền giáo dục để đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật
và trí tuệ phục vụ cho sự phát triển kinh tế.
- Xây dựng và thực thi chính sách và pháp luật về bảo vệ và sử dụngcó hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên của đất nước, bảo vệ và hoàn thiện môi trường tự nhiên,
sinh thái.
c. Điều tiết sự hoạt động của nền kinh tế.
Nhà nước điều tiết sự hoạt động của nền kinh tế là nhà nước sử dụng quyền
năng chi phối của mình lên các hành vi kinh tế của các chủ thể trong nền kinh tế thị
trường, ngăn chặn các tác động tiêu cực đến quá trình hoạt động kinh tế, ràng buộc
chúng phải tuân thủ các quy tắc hoạt động kinh tế đã định sẵn nhằm bảo đảm sự
phát triển bình thường của nền kinh tế.
Điều tiết sự hoạt động của nền kinh tế và điều chỉnh sự hoạt động kinh tế là
hai mặt của một quá trình phát triển kinh tế. Nhưng điều chỉnh không giống với
điều tiết, điều chỉnh là sửa đổi lại, sắp xếp lại cho đúng, như điều chỉnh tốc độ phát

triển quá nóng của nền kinh tế; điều chỉnh lại sự bố trí không hợp lý của các nhà
máy đường, điều chỉnh thể lệ đấu thầu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, điều chỉnh thang
bậc lương v.v…
d. Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế
Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là Nhà nước xem xét, đánh giá tình
trạng tốt xấu của các hoạt động kinh tế, và theo dõi, xét xem sự hoạt động kinh tế
đươc thực thi đúng hoặc sai đối với các quy định của pháp luật.
Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là một chức năng quản lý của Nhà nước.
Công tác này phải được thực thi thừơng xuyên và nghiêm túc.
Nội dung kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế
Kiểm tra giám sát hoạt động kinh tế càn thiết được tiến hành trên các mặt sau đây :
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, kế
hoạch và pháp luật của Nhà nước về kinh tế.
- Kiểm tra, giám sát việc sử dụng các nguồn lực của đất nước.
- Kiểm tra,giám sát việc xử lý chất thải và bảo vệ môi trường tự nhiên, môi
trường sinh thái.
- Kiểm tra, giám sát sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra.
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chức năng và việc tuân thủ pháp luật
của các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế.
Chương 2.
Nội dung chức năng tạo lập môi trường cho các hoạt động
kinh tế của Nhà nước.
Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố tác động trực tiếp hay gián tiếp
đến các quyết định hoặc hoạt động của các chủ thể kinh tế trên thị trường.
Nhóm các yếu tố bên ngoài có tác động gián tiếp đến các đơn vị kinh doanh
được gọi là nhóm các yếu tố môi trường vĩ mô bao gồm: môi trường văn hoá - xã
hội, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường vật chất và môi trường
công nghệ.
Nhóm các yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp đến các đơn vị kinh tế là các
yếu tố môi trường vi mô. Các yếu tố này gồm: khách hàng, nhà cung cấp, các đối

thủ cạnh tranh, các nhóm quyền lợi trong các cơ sở kinh tế.
Trong số các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, nhà nước có vai trò đặc biết
với các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô: duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững ổn
định chính trị, đảm bảo ổn định xã hội
2.1. Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô
Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô là làm giảm những biến động ngắn hạn trong
nền kinh tế khuyến khích tăng trưởng bền vững lâu dài.
Trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô yếu tố hàng đầu là ổn định tiền tệ
và biểu hiện là ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định giá cả và lãi suất. Thông qua đó tác
động tích cực đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ổn định kinh tế vĩ mô có ý nghĩ rất lớn với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó
củng cố long tin của các chủ thể kinh tế vào tương lai của nền kinh tế, nó tránh cho
nền kinh tế khỏi những cuộc khủng hoảng kinh tế dẫn đến sự tàn phá nền kinh tế.
Nó là điều kiện tiên quyết cho việc tính toán kinh doanh của các chủ thể kinh tế.
Để ổn định kinh tế vĩ mô, nhà nước cần thực hiện hàng loạt các biện pháp:
- Gia tăng tiết kiệm dùng để đầu tư cho phát triển.
- Duy trì sự cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm giữ lạm phát ở
mức có thể kiểm soát được bằng cách duy trì tỷ giá hối đoái hợp lý.
- Duy trì sự cân đối giữa tích luỹ và đầu tư nhằm tránh sự lệ thuộc vào nước
ngoài.
- Đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực như nạn quan lieu, tham nhũng, buôn lậu và
gian lận thương mại.
2.2. Giữ vững ổn định chính trị.
Chức năng ổn định chính trị của Nhà nước xuất phát từ sự tác động của
chính trị với kinh doanh. Ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận lợi đối với hoạt
động kinh doanh. Một nhà nước mạnh, thực thi hữu hiệu các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội đáp ứng được các yêu cầu chính đáng của nhân dân sẽ đem lại lòng
tin và hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong một xã hội ổn định chính
trị, các nhà kinh doanh được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu và các loại
tài sản khác. Do đó, các nhà kinh doanh sẵn sang đầu tư những khoản tiền lớn vào

các dự án dài hạn.
Xu hướng chính trị là định hướng chính trị của chính phủ sẽ áp dụng trong
chính sách điều hành đất nước. Một chính phủ có thể áp dụng một chính sách quá
tải, quá hữu hoặc ôn hoà. Những chính sách này sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều khía
cạnh trong nền kinh tế và các doanh nghiệp. Chẳng hạn, khi một chính phủ áp
dụng chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế và chú trọng đến các chính sách xã
hội sẽ rất thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các cơ hội kinh
doanh.
Định hướng của nền kinh tế phản ánh những chính sách kiểm soát về tài
chính và thị trường đối với các hoạt động kinh tế, đầu tư và các dịch vụ hỗ trợ,
cũng như chính sách kiểm soát môi trường, tài nguyên.
Các chính sách điều hành và kiểm tra nền kinh tế của chính phủ bao gồm
chính sách xuất nhập khẩu, chính sách giá cả, chính sách tiền lương. Các chính
sách quản lý nền kinh tế gồm chính sách kiểm soát lạm phát, mức nợ nước ngoài,
tỷ lệ thâm hụt ngân sách và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như phát triển giao
thông vận tải, thông tin, y tế, dịch vụ ngân hàng, điện nước… Những chính sách
này làm cho mức độ rủi ro tăng hoặc giảm tuỳ theo mức độ nhất quá và cởi mở của
chúng. Những chính sách này được thể chế hoaas thành các đạo luật và chúng có
hiệu lực pháp lý đối với các hoạt động kinh doanh.
2.3. Bảo đảm ổn định xã hội.
Thực chất của việc tạo ra môi trường văn hoá - xã hội thuận lợi cho hoạt
động của chủ thể kinh tế là Nhà nước giải quyết những vấn đề xã hội theo hướng
tích cực cho phép các tổ chức kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn. Thuộc nhóm
những vấn đề xã hội mà nhà nước phải quan tâm để tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển bao gồm: vấn đề dân số, vấn đề việc làm và xoá đói giảm nghèo, vấn đề
công bằng xã hội, vấn đề xoá bỏ những tệ nạn xã hội, vấn đề thái độ lao động, vấn
đề đạo đức kinh doanh, vấn đề y tế, giáo dục và bảo vệ mội trường sinh thái.
Vấn đề dân số.
Tăng trưởng dân số sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế. Bởi vậy, để
đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải hạn chế tốc độ tăng dân

số ở mức hợp lý. Hạ thấp tỷ lệ sinh đẻ và giảm tốc độ tăng dân số là nhiệm vụ của
tất cả các nước đang phát triển. Để thực hiện nhiệm vụ này, nhà nước cần quan tâm
đến cả giải pháp về kế hoạch hoá gia đình và những chương trình phát triển kinh tế
xã hội. Ngoài ra cần cải thiện phân phối thu nhập, bao gồm nhiều cơ hội để có việc
làm và giáo dục cho phụ nữ, tầng lớp ít được hưởng các đặc quyền đặc lợi và các
nhóm có thu nhập thấp hơn cũng góp phần giảm tỷ lệ sinh.
Vấn đề việc làm.
Thất nghiệp, thiếu việc làm không chỉ ảnh hưởng đến môi trường xã hội mà
còn ảnh hưởng trực tiếp đến sử dụng nguồn nhân lực của đất nước, hơn nữa việc
thu nhập và đời sống là mục tiêu phát triển kinh tế đất nước. Để giải quyết vấn đề
này, “bàn tay” của Nhà nước có sức mạnh hơn thị trường. Các định hướng trong
việc giải quyết vấn đề này bao gồm:
+ Chương trình giảm tỷ lệ sinh đẻ
+ Khuyến khích phát triển nông nghiệp và nông thôn
+ Thay thế kỹ thuật sản xuất sử dụng nhiều lao động thay vì áp dụng những
kỹ thuật sử dụng nhiều vốn.
+ Thay thế những sản phẩm sử dụng nhiều lao động hơn.
+ Phân phối lại thu nhập cho người nghèo.
+ Tăng sức mua của chính phủ với hàng hoá của các doanh nghiệp quy mô
nhỏ, sử dụng nhiều lao động.
+ Tạo ra công nghệ mới ở địa phương.
+ Quy định tỷ giá hối đoái cân bằng.
+ Chống lại sức ép với mở rộng quá nhanh giáo dục ở cấp cao và từ chối bao
cấp cho giáo dục này, tăng chi tiêu cho giáo dục tiểu học, nhấn mạnh giáo dục
khoa học kỹ thuật và kỹ thuật.
+ Cải thiện sự linh hoạt về lương ở mức cao.
Vấn đề công bằng xã hội:
Công bằng vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Đảm bảo công
bằng xã hội là việc Nhà nước can thiệp vào thị trường nhằm một mặt tăng thu nhập
của những người nghèo làm cho khoảng cách giàu nghèo không tăng hơn mà giảm

đi, mặt khác nhằm làm cho giá cả phản ánh đúng chi phí mà xã hội bỏ ra.
Một số định hướng trong việc giải quyết vấn đề công bằng theo hướng thứ
nhất gồm:
+ Phân phối lại thu nhập thông qua thuế.
+ Phân phối lại thu nhập thông qua chuyển giao thu nhập bằng việc tăng
công ăn việc làm trong khu vực nhà nước, bằng các chương trình chi tiêu cho
người nghèo.
+ Trợ giá một số hàng hoá và dịch vụ nhất định (hàng thiết yếu).
+ Điều tiết giá cả (lượng tối thiểu, lãi suất…)
+ Khuyến khích đầu tư vào vốn nhân lực.
Theo hướng thứ hai của giải quyết vấn đề công bằng tức là làm cho giá cả
phản ánh đúng chi phí xã hội. Do ảnh hưởng của ngoại ứng, một chủ thể kinh tế có
thể gây ra những tác động tích cực và ngược lại gây ra những tác động tiêu cực đối
với các chủ thể kinh tế khác và xã hội. Về nguyên tắc, ai làm hại xã hội người đó
phải có trách nhiệm, ai làm lợi cho xã hội người đó phải được bù đắp có ba hướng
chính để giải quyết vấn đề này:
+ Xử lý ngoại ứng thông qua thương lượng giữa các chủ thể kinh tế.
+ Xử lý ngoại ứng thông qua thuế và trợ cấp chính phủ.
+ Xử lý ngoại ứng thông qua việc đưa ra các quy định như cấm ngặt một số
hoạt động, định tiêu chuẩn cho việc sử dụng đầu vào và mức độ của đầu ra như
mức độ xả khỏi, mức độ ô nhiễm không khí được phép.
Ngoài việc xử lý ngoại ứng, Nhà nước thực hiện các biện pháp chống độc
quyền cũng là góp phần giải quyết vấn đề công bằng kinh tế bằng các giải pháp:
+ Dùng thuế thu nhập.
+ Kiểm soát giá cả.
+ Điều tiết thị trường.
+ Luật chống độc quyền.
+ Dùng doanh nghiệp nhà nước.
Vấn đề xoá đói giảm nghèo.
Nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo là tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế.

Song, thị trường không thể giải quyết được tận gốc vấn đề này mà còn làm cho nó
trở nên trầm trọng hơn do vậy nhà nước cần đứng ra để đảm bảo thực hiện được
nhiệm vụ này theo các biện pháp:
+ Xã hội hoá các phương tiện sản xuất,
+ Tín dụng cho người nghèo.
+ Giáo dục tiểu học phổ cập.
+ Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn.
+ Thực hiện các loại thuế thu nhập luỹ tiến, các trợ cấp lương thực.
+ Các chương trình sức khoẻ, kế hoạc hoá gia đình.
+ Các khoản chuyển nhượng thu nhập
+ Các chương trình xoá đói giảm nghèo.
+ Nghiên cứu về lương thực, thực phẩm.
Vấn đề củng cố và phát triển văn hoá.
Văn hoá trong nền kinh tế thị trường có nhiều điều kiện để phát triển, song
cũng gặp không ít trở ngại trên con đường phát triển của nó. Củng cố và phát triển
văn hoá không chỉ là nhiệm vụ mà còn là mục tiêu của quản lý nhà nước về kinh
tế. Thông qua củng cố và phát triển văn hoá mà đảm bảo điều kiện cho kinh tế phát
triển.
Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Những hiệ tượng tiêu cực làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh
doanh gồm: sản xuất hàng hoá, buôn lậu, trốn thuế và gian lận thương mại, vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ, tham nhũng. Những tiêu cực này ở Việt Nam còn tương
đối phổ biến do đó nhiệm vụ của Nhà nước ta trong lĩnh vực này còn rất nặng nề.
Vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái:
Phát triên phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái ,vì mục tiêu lợi nhuận,
các chủ thể kinh tế có thể làm ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Nhà nước cần
can thiệp để hạn chế mức độ ảnh hưởng xấu tời môi trường sinh thái như kiểm soát
mức độ ô nhiễm, đánh thuế và đưa ra những quy định về cấm hoặc cho phép ở mức
độ nào đó.
Chương 3.

Chức năng tạo lập môi trường cho các các hoat động kinh tế
của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư.
3.1.Thực trạng các hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Trong bối cảnh phải đối mặt với những khó khăn của nền kinh tế thế
giới, cũng như những khó khăn nội tại ở trong nước, nhưng với sự nỗ lực của cả hệ
thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt được
kết quả đáng khích lệ. Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành những biện pháp
mạnh mẽ, kịp thời nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, nhờ đó, GDP
năm 2011 ước tăng trưởng 5,89%. Công tác quản lý ĐT được tăng cường và chấn
chỉnh, đã có những chuyển biến và đóng góp tích cực cho nền kinh tế Việt Nam.
a.Tình hình đầu tư công.
Đầu tư công ở Việt Nam hiện được hiểu là đầu tư từ các nguồn vốn của Nhà
nước, bao gồm đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, tín
dụng nhà nước (thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam), vốn viện trợ phát triển
chính thức, đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước và các nguồn vốn
khác của Nhà nước.
Đầu tư công có vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật, kinh tế và xã hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước. Phần
vốn này được Nhà nước giao cho các bộ, ngành và các địa phương, các đơn vị
thuộc lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị và chính trị - xã hội quản lý, sử dụng
theo quy định của pháp luật.
Tính chung trong giai đoạn 2001 - 2005, tổng vốn đầu tư công đạt khoảng
286 nghìn tỉ đồng, chiếm trên 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; trong giai đoạn
2006 - 2010 ước đạt trên 739 nghìn tỉ đồng, khoảng trên 24% tổng vốn đầu tư toàn
xã hội. Như vậy, tỷ trọng vốn nhà nước đầu tư cho các dự án công, các chương
trình mục tiêu là rất lớn. Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả phần
vốn đầu tư này là rất quan trọng và cần thiết.
Đầu tư công so với GDP (%)
Năm
2000

Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
20,2 21,2 21,4 20,6 19,5 19,3 19,0 17,3 14,1 17,3
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2009
Trong thời gian qua, bên cạnh những thành công và đóng góp tích cực vào
quá trình phát triển đất nước không thể phủ nhận, đầu tư công của Việt Nam còn
nhiều hạn chế, nhất là về hiệu quả đầu tư. Đầu tư công luôn đi cùng với lãng phí
và tốn kém, thậm chí với mức độ ngày càng nặng nề Việc Tập đoàn Kinh tế nhà
nước Vinashin bỏ 1.000 tỉ đồng để mua tàu vận tải biển tuyến Bắc - Nam, nhưng
chỉ chạy mấy chuyến rồi dừng, đang được nhắc đến như một điển hình cho sự lãng
phí của đầu tư công. Hay, đầu tư cảng biển dọc 600km ở bờ biển miền Trung quá
dày đặc (cứ khoảng 30 - 40km lại có 1 cảng), song, các cảng biển này lại không
hoạt động hết công suất. Thực tế đó cho thấy, mức độ thiếu hiệu quả của các dự án
đầu tư công của Việt Nam rất đáng báo động. Với kiểu xin cấp phép xây dựng tràn

lan như hiện nay, thì tỉnh nào cũng đều sẽ có sân bay, cảng biển, khu công nghiệp,
khu du lịch sinh thái, sân gôn, khu đô thị cao cấp, mà hiệu quả thì chưa biết
được, mới chỉ thể hiện trên báo cáo nghiên cứu khả thi.
Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, như: quản lý kém, đầu tư không
hợp lý, đầu tư nhiều vào các ngành tư nhân sẵn sàng đầu tư; thiếu đầu tư tương
xứng cho những ngành có khả năng lan tỏa, dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
đầu tư thiếu tập trung, không dứt điểm cho các công trình trọng điểm Ngoài ra,
hiệu quả đầu tư công thấp còn chịu ảnh hưởng của cơ chế khép kín, lợi ích cục bộ,
phe nhóm, địa phương, sự nể nang cảm tính và tư duy nhiệm kỳ. Thủ tục hành
chính phức tạp nhưng lại lỏng lẻo, thiếu minh bạch; chất lượng quy hoạch và lập
dự án thấp; tình trạng không hoặc chỉ đấu thầu hình thức, năng lực và trách nhiệm
nhà thầu kém; nạn tham nhũng, thiếu kiểm soát và có chế tài kịp thời, nghiêm
khắc, trách nhiệm; sự chưa rõ ràng và nhất là thiếu phối hợp đồng bộ các chính
sách, giữa các cấp, ngành và các bên hữu quan trong bối cảnh còn thiếu vắng một
Luật Đầu tư công ở nước ta đều là những nguyên nhân khiến đầu tư công thiếu
hiệu quả. Nhìn chung, chất lượng thấp và thất thoát vốn trong đầu tư công do sự
chậm trễ và thường đi kèm với việc xin được điều chỉnh tăng vốn của các dự án
đầu tư công trong triển khai dường như cặp bài trùng đã quá quen mặt.
Đầu tư công và quản lý đầu tư công kém hiệu quả không chỉ khiến hiệu quả đầu tư
xã hội bị hạn chế, mà còn làm gia tăng nhiều hệ quả tiêu cực và kéo dài khác, như:
tăng sức ép lạm phát trong nước; mất cân đối vĩ mô trong đó có cân đối ngành, sản
phẩm, cán cân xuất - nhập khẩu, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối và tích lũy -
tiêu dùng, cũng như làm hạn chế sức cạnh tranh và chất lượng phát triển của nền
kinh tế trong hội nhập.
Đặc biệt, đầu tư công kém hiệu quả làm tăng gánh nặng và tác động tiêu cực
của chiếc bẫy nợ nần lên đất nước, do làm tăng nợ chính phủ, nhất là nợ nước
ngoài. Về tổng thể, mô hình tăng trưởng theo chiều rộng của Việt Nam nhờ gia
tăng đầu tư công đã lên tới đỉnh. Nếu không điều chỉnh mà càng thúc đẩy tăng
trưởng dựa vào động lực mở rộng quy mô vốn, giá trị gia tăng thấp và sự khai thác
thái quá tài nguyên, lao động rẻ thì nền kinh tế càng mất khả năng cạnh tranh,

thậm chí, càng tăng trưởng, đất nước và người dân càng bị nghèo đi và thiếu bền
vững.
b.Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ( Vốn FDI)
Vốn đầu tư nước ngoài lũy kế:
Tính đến ngày 15/12/2011, Việt Nam có 13.667 dự án còn hiệu lực với tổng
vốn đăng ký 198 tỷ USD, trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 54%.
Singapore là nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký 24 tỷ USD,
tiếp theo lần lượt là Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Thành phố Hồ Chí Minh
vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với 32,67 tỷ USD còn hiệu lực, tiếp
theo là Bà Rịa-Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương.
Về vốn đăng ký năm 2011:
Tính đến 15/12/2011, vốn đăng ký mới và tăng thêm tại Việt Nam đạt 14,7
tỷ USD, bằng 74% so với năm 2010. Riêng vốn đăng ký mới đạt 11,6 tỷ USD,
bằng 65% năm 2010 nhưng đã có những chuyển biến theo hướng tích cực. Vốn
đăng ký năm 2011 tập trung 76,4% vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, cao hơn
hẳn tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực này năm 2010 (54,1%). Đầu tư vào lĩnh vực kinh
doanh bất động sản năm 2011 chỉ chiếm 5,8% tổng vốn đăng ký (trong khi năm
2010 lĩnh vực này chiếm 34,3% tổng vốn đăng ký). Vốn đăng ký tăng thêm đạt 3,1
tỷ USD, tăng 1,65 lần mức vốn đăng ký tăng thêm của năm 2010 (1,89 tỷ USD).
Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có sự đánh giá tích cực về môi
trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Về vốn thực hiện và kết quả hoạt động của doanh nghiệp FDI năm 2011:
Vốn thực hiện của khu vực FDI tại Việt Nam năm 2011 ước đạt 11 tỷ USD,
bằng với mức thực hiện của năm 2010 và đóng góp 25,9% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội.
Xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) ước đạt 54,5 tỷ USD, chiếm
59% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 39,3% so với năm 2010, cao hơn
mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước. Giá trị kim ngạch xuất
khẩu khu vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt 47,2 tỷ USD. Góp phần làm giảm
gánh nặng cho cán cân thương mại. Nhập khẩu của khu vực FDI là 47,8 tỷ USD,

tăng 29,3% so với năm 2010.
Thu nội địa từ khu vực FDI năm 2011 khoảng 3,5 tỷ USD, tăng 15% so với
năm 2010 (3,04 tỷ USD). Thu từ dầu thô vượt dự toán năm gần 44% và ước đạt 4,8
tỷ USD. Khu vực FDI góp phần đáng kể tăng thu ngân sách và do đó, làm giảm bội
chi ngân sách nhà nước.
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, Việt Nam vẫn là địa chỉ hấp dẫn đầu
tư đối với các nhà đầu tư thế giới. Điều tra triển vọng đầu tư thế giới (WIPS) 2010-
2012 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) cho thấy
Việt Nam đã thăng hạng 3 bậc, đứng thứ nhất trong ASEAN về mức độ hấp dẫn
FDI và là một trong 10 nền kinh tế hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài,
đặc biệt là đối với các nhà đầu tư Nhật Bản và các nền kinh tế đang phát triển ở
Châu Á. Việt Nam vẫn tiếp tục là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Nhật
Bản như kết quả điều tra đầu tư hải ngoại của JETRO đối với các doanh nghiệp
công nghiệp chế biến. Kết quả điều tra trực tuyến của Thời báo Kinh doanh Nikkei,
Việt Nam được lựa chọn là địa điểm đầu tư hấp dẫn nhất để mở cơ sở sản xuất,
trên cả Ấn Độ và Thái Lan. Với tư cách là thị trường tiêu thụ, Việt Nam là điểm
đầu tư hấp dẫn thứ ba sau Ấn Độ và Indonesia.
Năm 2011, giải ngân dự án FDI đạt được những kết quả trên là do chúng ta
đã chú trọng việc thúc đẩy tiến độ giải ngân dự án, phối hợp với các Bô%3ḅ ngành,
địa phương tiến hành rà soát, phân loại dự án và tập trung hỗ trợ tháo gỡ vướng
mắc khó khăn cho nhà đầu tư. Đồng thời kiên quyết xử lý các dự án chiếm dụng
đất lớn, nhà đầu tư chậm triển khai, tiến hành thu hồi đất và thu hồi giấy CNĐT.
Một trong những điểm nổi bật của năm 2011 là xu hướng cấp GCNĐT cho
những dự án quy mô lớn và rất lớn với quy mô vốn đăng ký hàng tỷ USD, nhất là
các dự án bất động sản, đã giảm hẳn. Nếu như năm 2008, năm thu hút FDI đạt mức
71,7 tỷ USD, cao nhất trong 25 năm thực hiện thu hút FDI có đến 11 dự án có quy
mô vốn đăng ký từ 1 tỷ USD trở lên với tổng vốn đăng ký của các dự án này là
45,7 tỷ USD (chiếm tới 64% tổng vốn đăng ký năm 2008) thì năm 2011, chỉ có 2
dự án có mức vốn đăng ký trên 1 tỷ USD. Hơn nữa, các dự án quy mô lớn của năm
2011 đều là các dự án trong lĩnh vực công nghiệp, dự án BOT điện lực Jak Hải

Dương với quy mô vốn đăng ký 2,26 tỷ USD, dự án sản xuất pin mặt trời First
Solar tại thành phố Hồ Chí Minh với quy mô vốn đăng ký trên 1 tỷ USD.
c.Tình hình đầu tư ra nước ngoài tại Việt Nam.
Lũy kế đến thời điểm 30/12/2011:
Có 627 dự án đầu tư ra nước ngoài, với tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của
nhà đầu tư Việt Nam đăng ký đạt 10,8 tỷ USD tại 55 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập
trung chủ yếu tại Lào (3,4 tỷ USD), Campuchia (2,1, tỷ USD), Venuezela (1,8 tỷ
USD), Nga (776 triệu USD), Peru (508 triệu USD), Malaysia (412 triệu USD),
Modambic (345 triệu USD)
Vốn thực hiện lũy kế đến nay ước đạt khoảng 2,7 tỷ USD; trong đó khoảng 1,4 tỷ
USD trong lĩnh vực dầu khí; Lào đạt khoảng 480 triệu USD; Campuchia đạt
khoảng trên 200 triệu USD
Về cấp dự án đầu tư ra nước ngoài năm 2011:
Vốn đăng ký:
Trong năm 2011, đã cấp mới cho 75 dự án đầu tư ra nước ngoài tại 26 quốc
gia, vùng lãnh thổ và điều chỉnh điều chỉnh 33 dự án đầu tư. Tổng vốn đầu tư đăng
ký (bao gồm cả cấp mới và tăng vốn) đạt 2,12 tỷ USD, bằng dự kiến của năm
2011.
Các dự án quy mô lớn tập trung trong các lĩnh vực công nghiệp năng lượng,
truyền thông, tập trung tại các địa bàn quen thuộc, phù hợp với các lĩnh vực và địa
bàn ưu tiên đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.
Về vốn thực hiện các dự án đầu tư
Thống kê từ báo cáo của các Tập đoàn, doanh nghiệp có nhiều dự án đầu t ra
nước ngoài cho thấy trong năm 2011, vốn thực hiện ước đạt khoảng 950 triệu
USD. Trong đó, đứng đầu là Tập đoàn dầu khí Việt Nam, với tổng vốn chuyển ra
nước ngoài khoảng 347 triệu USD; thứ hai là Tập đoàn Viettel với tổng vốn đầu t
chuyển ra nớc ngoài khoảng 185 triệu USD; thứ ba là Tập đoàn cao su Việt Nam
với tổng vốn đầu t chuyển ra nớc ngoài khoảng 134,6 triệu USD; thứ t Tập đoàn
Sông Đà, với tổng vốn đầu tư chuyển ra nước ngoài khoảng 161 triệu USD
Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai là 39 triệu USD, Công ty CP Đông Dương

xanh là 23,7 triệu USD
Tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án đầu tư ra nước ngoài, có một phần
đáng kể vốn được thực hiện trong nước (không chuyển ra nước ngoài). Theo báo
cáo của Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn cao su Việt
Nam, Tập đoàn Than khoáng sản, Viettel, Hoàng Anh - Gia Lai… một phần vốn
đầu tư ra nước ngoài được thực hiện để trả cho các nhà thầu của Việt Nam hoặc
mua háng hóa, dịch vụ của Việt Nam để chuyển ra nước ngoài thực hiện dự án.
Phần lớn các dự án đầu tư quy mô lớn mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư
ra nước ngoài nên hiện đang trong giai đoạn triển khai thực hiện. Một số dự án đầu
tư khác đã đi vào hoạt động, đạt hiệu quả tốt như dự án của Viettel tại Campuchia
và Lào (Viettel là một trong những nhà cung cấp dịch vụ lớn và hiệu quả nhất tại
Campuchia và Lào); dự án 10.000 ha cao su của Công ty cao su Đăk Lăk đã đi vào
khai tác được trên 1.000 ha; dự án 5.000ha cao su của Hoàng Anh Gia Lai sẽ bắt
đầu khai thác vào năm 2012; dự án Thủy điện Sekaman 3, với công suất 250 MW,
dự kiến sẽ phát hành tổ máy đầu tiên trong Quý I/2012
3.2. Vai trò của Nhà nước trong tạo lập môi trường cho hoạt động đầu
tư tại Việt Nam trong thời gian qua.
3.2.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với các hoạt động đầu tư.
a. Sự cần thiết của QLNN đối với các hoạt động đầu tư tư nhân
Nhà nước phải quản lý các hoạt động đầu tư tư nhân, vì các hoạt động đó
nếu được thực hiện sẽ có ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng, lợi ích nhà nước.
- Đầu ra của dự án. Đầu ra của ác dự án đầu tư là sản phẩm, dịch vụ và chất
thải các loại. Với đầu ra là chất thải như rác thải, nước thải, tiếng ồn…nếu không
có biện pháp xử lý sẽ có hại cho cộng đồng, tác động xấu đến môi trường. Ngay cả
những sản phẩm, hoặc dịch vụ được tạo ra từ dự án, không phải đều có lợi cho
cộng đồng, mà có thể có những sản phẩm hoặc dịch vụ gây ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ con người, vi phạm đạo đức… Do đó, ở cả mặt nàu của đầu ra, Nhà nước
cũng phải quản lý.
- Đầu vào của dự án. Đó là các yếu tố được sử dụng trong quá trình xây
dựng và vận hành dự án, như tài nguyên, lao động, máy móc, thiết bị và công

nghệ… Việc sử dụng các đầu vào đó của chủ dự án đôi khi gây ảnh hưởng đến
cộng đồng về nhiều mặt như lãn phí tài nguyên, bóc lột người lao động, sử dụng
công nghệ đã hết khấu hao… nên Nhà nước phải quản lý để định hướng cho các
chủ đầu tư, khi sử dụng các yếu tố đầu vào phải tuân theo các tiêu chuẩn, quy định
của nhà nước.
- Các nội dung khác của dự án đầu tư như: Quy mô đầu tư, địa điểm phân bố
công trình, kết cấu kiến trúc công trình (độ cao, hình khối, mầu sắc, phản quang,
…), do đều có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh… rất sâu sắc, nên nhà nước cần phải quản lý xem xét kỹ trước khi cho phép
đầu tư.
b.Sự cần thiết khách quan của QLNN đối với các hoạt động đầu tư quốc
gia
Sở dĩ nhà nước phải quản lý các dự án nhà nước là vì đó là vốn của nhà
nước bỏ ra hoặc vốn tín dụng của nhà nước, hoặc vống viện trợ do nhà nước đứng
ra tiếp nhận và sử dụng. Đối với mọi dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước đều thành
lập Ban quản lý dự án (BQLDA) thay mặt chủ đầu tư trực tiếp quản lý sử dụng vốn
của nhà nước.
Tuy vậy, hoạt động quản lý của các Ban QLDA chỉ giới hạn trọng phạm vi
quản trị dự án, chứ không phải là hoạt động QLNN đối với các dự án nhà nước.
Các Ban QLDA vẫn phải chịu sự QLNN của tất cả các cơ quan quản lý khác vì hai
lý do:
- Ban QLDA thực hiện trách nhiệm với tư cách chủ đầu tư. Họ là người đại
diện cho nhà nước về mặt vốn đầu tư, có nhiệm vụ làm cho vốn đó sớm biến thành
mục tiêu đầu tư. Như vậy, các ảnh hưởng khác của dự án như tác động của môi
trường, an ninh quốc phòng, trình độ công ghệ… họ không có trách nhiệm và
không đủ khả năng để quan tâm đến. Nếu không có sự QLNN đối với các Ban
QLDA này, các DA nhà nước trong khi theo đuổi các mục đích chuyên ngành có
thể làm tổn hại quốc gia ở các mặt mà họ không lường hết hoặc không quan tâm.
- Mặt khác, bản thân các Ban QLDA cũng có thể không thực hiện trọn vẹn
trách nhiệm đại diện sở hữu vốn, từ đó sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả,

thậm chí tham ô, chiếm đoạt vốn của nhà nước
3.2.2. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các hoạt động đầu
tư.
a.Hoàn thiện khung pháp lý và các chính sách đầu tư tạo một môi trường
đầu tư lành mạnh.
Cùng với sự hội nhập ngày càng sâu rộng về mọi mặt trong nền kinh tế thì
hoạt động đầu tư tại Việt Nam cũng có nhu cầu bức thiết để hội nhập.Để làm được
điều đó thì khung khổ pháp lý về các hoạt động đầu tư cũng như các chính sách
đầu tư tư nhân hay đầu tư nhà nước cần phải hoàn thiện và linh hoạt hơn với luật
pháp quốc tế. Đặc biệt là luật Doanh nghiệp, luật Thương mại, Luật Đầu tư.Diều
này càng cần thiết hơn khi chúng ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới.
b.Xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng nhằm tạo lợi thế thu hút đầu tư.
Hiện nay cơ sở hạ tầng tại Việt Nam đã được hoàn thiện đáng kể nhưng nhìn
chung chúng ta vẫn phát triển chậm so với các nước trong khu vực và thế
giới.Chúng ta phải hoàn thiện hệ thống đường xá, điện nước, ngân hàng viễn
thông…Để làm được điều đó Nhà nước cần có những chính sách và chương trình
dài hạn,nhưng cần phải triển khai ngay.
c.Đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư .
Hoạt động đầu tư đổi mới và triển khai theo hướng có trọng tâm, trọng điểm
vào các đối tác tiềm năng, thể hiện tính khu vực, liên vùng, liên ngành cao và mang
tính chuyên đề; Bộ KHĐT đang cùng các Bộ, ngành soạn thảo đề án đối tác chiến
lược, Danh mục quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2011-2015 và Nghị
quyết của Chính phủ về ban hành Quy về quản lý nhà nước về xúc tiến đầu tư trình
Thủ tướng Chính phủ trong thời gian tới.
d. Công tác quản lý nhà nước được tăng cường:
- Công tác cấp phép đầu tư: Các cơ quan cấp phép trong năm qua nhìn chung
đã xem xét kỹ hơn, chuyên sâu để hạn chế các dự án kém hiệu quả và các nhà đầu
tư thiếu năng lực. Thời gian cấp phép và cơ chế phối hợp trong quá trình xem xét,
cấp GCNĐT đã có những chuyển biến tích cực theo hướng đơn giản và nhanh
chóng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số những bất cập do luật pháp

còn chưa đồng bộ, quy hoạch chưa rõ ràng.
- Về quản lý sau cấp phép: Trong năm qua, các cơ quan quản lý nhà nước về
đầu tư ở địa phương tuy đã có cố gắng nhưng đôi khi còn quá tải, chưa chủ động
nên chưa sâu sát tình hình triển khai thực hiện dự án. Năm qua, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã cùng với các Bộ, ngành tiến hành một số cuộc kiểm tra trong lĩnh vực xi
măng, bất động sản, chuyển giá; rà soát việc vay vốn trong nước để nắm bắt tình
hình thức tế, khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp từ đó đề xuất các biện pháp
xử lý phù hợp.
- Về công tác phối hợp giữa các cơ quan: Trong năm 2011, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư cũng đã triển khai công tác phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương
thông qua các cuộc giao ban định kỳ về ĐTNN; tiếp tục duy trì các cuộc đối thoại
chính sách với cộng đồng doanh nghiệp thông qua kênh diễn đàn doanh nghiệp,
Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản, gặp mặt với một số Hiệp hội doanh
nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
- Về công tác thông tin: Để tăng cường công tác quản lý, hệ thống thông tin
quốc gia về ĐTNN đang được xây dựng. Các thông tư quy định về báo cáo thống
kê; kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư đã được dự thảo, chuẩn bị ban hành. Làm
tốt công tác này cũng sẽ phục vụ tốt cho việc phân tích xây dựng chính sách. Năm
2012 Bộ KHĐT sẽ triển khai hệ thống thông tin nối mạng với các địa phương để
thực hiện tốt công tác báo cáo thông kê, từ đó có thông tin kịp thời phục vụ cho
công tác chỉ đạo điều hành và hoạch định chính sách
e.Nhà nước cần có những biện pháp tích cực hơn nữa trong việc quản lý
các hoạt động đầu tư và dự án đầu tư.
- Ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực gây ra bởi đầu ra của các hoạt động đầu
tư.
- Ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực do việc sử dụng đầu vào của các chủ dự
án dầu tư không đứng trên lợi ích toàn diện, lâu dài của đất nước.
- Ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực khác mà có thể gây ra như các công
trình xây dựng được tạo ra bởi dự án cảnh quan, thuần phong, mỹ tục, an ninh quốc
gia.

- Hỗ trợ các ban ngành, các chủ dự án thực hiện đúng vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của người đại diện sở hữu nhà nước trong các hoạt động đầu tư.
- Kiểm tra, kiểm soát ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trong việc sử dụng
vốn nhà nước nhằm tránh thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước.
- Thực hiện chế độ cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án .
Không cần đăng ký đầu tư: áp dụng đối với những dự án đầu tư trong nước
có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng. Những dự án này chủ đầu tư không cần
phải xin Giấy chứng nhận đầu tư.
Đăng ký đầu tư: áp dụng đối với những dự án đầu tư trong nước có quy mô
vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng đến dưới 300 tỷ đồng; những dự án đầu tư FDI có vốn
đầu tư dưới 300 tỷ đồng. Theo quy trình này, chủ đầu tư không cần trình bản dự án
đầu tư (giải trình kinh tế - kỹ thuật) cho cơ quan quản lý đầu tư của nhà nước mà
chỉ cần lập hồ sơ hợp lệ, theo mẫu và sẽ được cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
- Thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư: Áp dụng đói với nhứng dự án ( cả
trong nước và nước ngoài) có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng trở lên hoặc
những dự án đầu tư vào các lĩnh vực có điều kiện như an ninh quốc phòng, văn hoá
thông tin, giải trí, bất động sản, khai thác tài nguyên, tài chính ngân hàng… Đối
với những dự án này, chủ đầu tư phải trình bản Dự án đầu tư lên cơ quan quản lý
nhà nước về đầu tư để thẩm tra, xem xét, sau một thời gian quy định, nếu các cơ
quan này đồng ý sẽ cấp giấy chứng nhận đầu tư.
-Thực hiện chế độ phê duyệt nhiều bước
Biện pháp này áp dụng đối với dự án sử dụng vốn nhà nước, các cơ quan
đầu tư phê duyệt dự án theo nhiều bước để ra quyết định đầu tư (không phải cấp
GCNĐT).Phê duyệt theo nhiều bước là phê duyệt nhiều lần cho một dự án, trong
đó ở mỗi lần phê duyệt, DA phải được chuẩn bị ở mức cao hơn, cụ thể, chính xác
hơn lần trước.
-Thực hiện chế độ phân loại dự án để ấn định chế độ phê duyệt.Phân loại dự
án để thẩm định chế độ phê duyệt là việc phân chia dự án thành các loại, tuỳ theo
quy mô của vốn đầu tư, tầm quan trọng của từng dự án, theo đó mỗi loại dự án
được phê duyệt theo một số lần nhất định. Dự án quốc gia áp dụng chế độ phê

duyệt 3 lần; dự án nhóm A áp dụng chế độ phê duyệt 2 lần; dự án nhóm B, C áp
dụng chế độ phê duyệt 1 lần.
-Thực hiện chế độ phân loại dự án để phân cấp quyết định đầu tư.Phân loại
dự án để phân cấp phê duyệt là phân chia dự án thành các loại, theo đó mỗi loại
được phê duyệt tại một cấp trong hệ thống tổ chức quản lý nhà nước. Cũng tương
tự như biện pháp trên, tiêu chí để phân loại dụ án trong biện pháp này cũng căn cứ
vào quy mô tính chất của dự án. Theo đó dự án sử dụng vốn nhà nước cũng được
phân chia thành 4 nhóm tương tự:
Dự án quan trọng quốc gia: Thủ tướng chính phủ ra quyết định đầu tư
Dự án A, B, C: Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND
cấp tỉnh (NĐ 16CP/2005).
Dự án B, C có thể phân cấp QĐ ĐT cho cơ quan cấp dưới trực tiếp, chẳng
hạn hội đồng quản trị Tổng công ty, Tổng cục trưởng, Chủ tịch UBND cấp huyện,
xã.
-Thực hiện chế độ đầu thầu bắt buộc .Biện pháp này được thực hiện đối với
các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước, DAĐT sử dụng vốn hỗn hợp trong đó vốn
nhà nước chiếm từ 30% trở lên.
Kết luận
Qua nghiên cứu về lí luận và thực tiễn ở trên chúng ta một lần nữa có thể
khẳng định được vai trò quan trọng của quản lí nhà nước đối với nền kinh tế nói
chung đối với hoạt động đầu tư nói riêng. Đặc biệt trong chức năng tạo lập môi
trường kinh doanh cho các hoạt động kinh tế thì vai trò của nhà nước càng được
thể hiện rõ ràng. Hơn nữa các cơ quan quản lí nhà nước đã nhận thức rõ tầm quan
trọng cuả mình. Vì thế họ đã cố gắng phát huy và nâng cao hơn nữa vai trò quản
lí, đưa hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng đạt được những
thành công đáng kể. Tuy nhiên , do những nguyên nhân chủ quan cũng như khách
quan , hoạt động quản lí nhà nước vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục .
Trong thời gian gần đây , khi quan hệ mở cửa kinh tế quốc tế của Việt Nam
ngày càng mở rộng , đặc biệt sau hội nghị thượng đỉnh Á- Âu (ASEM 50 , khi Việt
Nam gia nhập các tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, hội nhập AFTA và sắp tới

là WTO , chúng ta hi vọng các hoạt động kinh tế sẽ phát triển tốt hơn, ổn định hơn,
lành mạnh hơn đặc biệt trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngày càng tăng lên . Để phát huy hiệu quả nguồn vốn đó , việc nâng cao hơn nữa
vai trò quản lí nhà nước là rất quan trọng .
Tài liệu tham khảo
1.Bài giảng Quản lý nhà nước về kinh tế, Đại học Thương mại
2.Trường Đại học Kinh tế quốc dân, GS.TS Nguyễn Hoàng Toàn-PGS.TS Mai
Văn Bưu, Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế.
3.Lê Thanh Bình,Kinh tế đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa,NXB Chính trị
quốc gia.
4.Niên giám thống kê, Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư năm 2011
5.Lập và quản lý dưj án đầu tư,NXB Thống kê 2000
6.Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 24, năm 2011
7.Thời báo kinh tế số 70

×