Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

đánh giá thực trạng phát triển các khu công nghiệp ở việt nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.29 KB, 41 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP
I. Khái quát chung
1. Khái niệm
2.Phân loại
3.Tính tất yếu khách quan về thành lập KCN tại Việt Nam
II.Đánh giá tác động đến nền kinh tế nói chung
1. Những tác động tích cực
2. Một số tác động tiêu cực trong phát triển KCN
PHẦN II. THỰC TRẠNG phát triển KHU CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
I. Sự hình thành và phát triển các KCN ở nước ta
1. Các KCN hình thành từ những năm 1960 và 1970 theo mô hình công nghiệp của Liên
Xô cũ
2. Các KCN theo mô hình mới
II.Thực trạng hoạt động các KCN nước ta hiện nay
1. Về giá thuê đất
2. Về tình hình thu hút đầu tư
3. Về tình hình sản xuất kinh doanh
III.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI
1.Kết quả đạt được
2.Những tồn tại yếu kém
PHẦN III. NHỮNG ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
I. Giải pháp
1. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với phát triển KCN
1.1.Nâng cao chất lượng quy hoạch KCN
1
1.2. Đa dạng hoá mô hình các khu công nghiệp
1.3.Giải pháp về tăng cường hiệu quả công tác quản lý môi trường


1.4.Giải pháp nâng cao tính hấp dẫn của KCN trong thu hút đầu tư
1.5. Hoàn thiện một số chính sách phát triển bền vững KCN
1.5.1.Các yêu cầu trong xây dựng chính sách
1.5.2.Hoàn thiện chính sách thu hồi đất
1.5.3.Chính sách đảm bảo nguồn lao động cho KCN
2. Các giải pháp đối với địa phương
2.1.Đẩy nhanh việc triển khai đền bù, thu hồi đất cho xây dựng KCN
2.2.Tăng cường cung cấp hàng hoá, dịch vụ phục vụ khu công nghiệp
2.3.Tạo nguồn lao động nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động
2.4.Phát triển khu dân cư ở khu vực có khu công nghiệp
II . MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị về tổ chức quản lý KCN
1.1. Kiến nghị mô hình quản lý KCN và KCX ở cấp trung ương
1.2.Kiến nghị phân cấp quản lý KCN và KCX
2.Kiến nghị về tổ chức thực hiện qui hoạch, chính sách và cơ chế đã ban hành
3. Kiến nghị về điều chỉnh các cơ chế, chính sách theo chu kỳ sống của KCN
MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta có sự ra đời của mô hình khu công
nghiệp( KCN ). Mô hình này đã không ngừng phát triển về số lượng và chất lượng .Nếu
như vào thời điểm năm 1991 bắt đầu xuất hiện quy chế về KCN và chỉ chứng kiến sự ra
đời của hai khu chế xuất, Tân Thuận và Linh Trung thì cho đến nay số lượng các khu
công nghiệp ở nước ta đã lên tới con số 68và được phân bố rộng khắp từ Bắc –Trung.
Chính sự phát triển mạnh này đã khẳng định hiệu quả kinh tế của một mô hình.Qua hơn
10 năm phát triển vai trò của KCN trong sự phát triển kinh tế đất nước là rất lớn. Nó đã
góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của đất nước, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, tạo điều kiện tăng trưởng GDP nhanh chóng và
2
vững chắc, tạo việc làm, phát triển KCN theo quy hoạch, bảo vệ môi trường, tiết kiệm và
phát huy hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác, hình thành các khu đô thị mới và giảm bớt
khoảng cách giữa các vùng nông thôn và thành thị. KCN là mô hình phù hợp để thực hiện

cơ chế quản lý ” một cửa tại chỗ” và hội nhập quốc tế không chỉ nhằm thu hút đầu tư
nước ngoài , mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước hoạt động .
Bên cạnh những thành tịu đáng trân trọng ấy các KCN tại Việt Nam vẫn tồn đọng những
khó khăn, thách thức mà vấn đề nổi cộm hiện nay chính là việc vóng bóng của các nhà
đấu tư trong các KCN, hầu hết các khu công nghiệp vẫn chưa được lấp đầy. Theo bộ kế
hoạch và đầu tư tính đến đầu năm 2002 trên tổng số 68 KCN chỉ có 25% KCN được lấp
đầy. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên có nhiều , nhưng tập trung chủ yếu vào một số
nguyên nhân như: Giá thuê đất còn đắt, cơ sở hạ tầng còn kém, cơ chế chính sách còn
chưa thông thoáng, và một trong những lực cản lớn nhất hiện nay chính là vẫn chưa có
cách nhìn nhận tổng quát và đầy đủ về các KCN như là một bộ phận không thể tách rời
trong nền kinh tế đất nước .
Như vậy việc tìm hiểu một cách toàn diện về KCN, đồng thời đưa ra những giải pháp
để nâng cao việc phát triển KCN là những mục tiêu chính mà đề tài chúng tôi hướng tới .
3
PHẦN NỘI DUNG

PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP
I. Khái quát chung
1. Khái niệm
Theo nghị định 36/ CP của chính phủ thì KCN được hiểu như sau : “ KCN là khu tập
trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất hàng công nghiệp có ranh giới địa lý xác định , không có dân cư sinh sống do
chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ thành lập trong KCN có thể có các doanh nghiệp chế
xuất “ .
2. Phân loại KCN
Theo Viện Kiến trúc Quy hoạch (Bộ Xây dựng), tính đến thời điểm tháng 2/2011, Việt
Nam hiện có 256 khu công nghiệp và 20 khu kinh tế đã được thành lập
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay cả nước có 253 khu công nghiệp được thành lập
với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 70.000 ha. Các khu công nghiệp cả nước đã thu hút
gần 4.000 dự án đầu tư nước ngoài và 4.700 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư

đăng ký 52 tỷ USD và 300 nghìn tỷ đồng.
Các khu công nghiệp đóng góp từ 20-35% kim ngạch xuất khẩu và từ 30-32% giá trị sản
xuất công nghiệp hàng năm của Việt Nam, giải quyết việc làm cho trên 1,5 triệu lao động.
Nhóm 1: Các khu công nghiệp mang tính truyền thống, được thành lập một cách phổ
biến ở Việt Nam. Các khu công nghiệp này có nhưng đặc điểm chung như sau:
+Là khu vực được quy hoạch mang tính liên vùng, liên lãnh thổ và có phạm vi ảnh
hưởng không chỉ ở một khu vực địa phương.
+Là khu vực được kinh doanh bởi công ty cơ sở hạ tầng (công ty phát triển KCN, công
ty dịch vụ KCN ), công ty này có trách nhiệm bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và xã hội của cả
khu trong suốt thời gian tồn tại.
Trong khu công nghiệp không có dân cư sinh sống, nhưng ngoài khu công nghiệp phải
có hệ thống dịch vụ phục vụ nguồn nhân lực làm việc ở khu công nghiệp.
4
+Là khu vực được quy họach riêng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để
thực hiện sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp cũng như hoạt động hỗ trợ cũng như
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Sản phẩm của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp có thể tiêu thụ trong nước hoặc
bán ra nước ngoài.
Nhóm 2: Khu chế xuất (KCX) (ở Việt Nam hiện có 3 khu chế xuất ).
Theo Nghị định 36-CP khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và
hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý được xác định, không có dân cư sinh sống.
Như vậy ngoài những đặc điểm chung giống như các khu công nghiệp truyền thống,
các KCX còn có một số đặc điểm riêng, đó là: Được quy hoạch phân tách khỏi phần nội
địa bằng tường rào kiên cố, việc ra vào khu phải thông qua sự kiểm soát của hải quan và
các cơ quan chức năng; Quan hệ thương mại giữa các doanh nghiệp trong KCX và nội
địa được điều chỉnh bằng hợp đồng ngoại thương, theo các thủ tục xuất, nhập khẩu, các
doanh nghiệp trong khu chế xuất chỉ được bán tối đa 20% giá trị sản phẩm của mình vào
thị trường nội địa; các doanh nghiệp trong khu chế xuất được hưởng những ưu đãi đặc
biệt về các loại thuế như: miễn thuế xuất, nhập khẩu, miễn thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu

thụ đặc biệt, được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức ưu đãi 10% và không phải
chịu thuế chuyển lợi nhuận về nước.
5
Nhóm 3: Các khu công nghệ cao (KCNC) (Việt Nam hiện có 2 khu công nghệ cao)
Đây là khu công nghiệp trong đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao
và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, có ranh giới xác định và
do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao
có thể có doanh nghiệp chế xuất. Ngoài những đặc điểm chung của khu công nghiệp, khu
công nghệ cao có những nét riêng biệt:
Có hoạt động chính của các doanh nghiệp là sản xuất và dịch vụ có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao như:nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và thực
hiện các dịch vụ có liên quan. Bản thân các doanh nghiệp thường có quá trình đổi mới
liên tục về công nghệ và sản phẩm.
Các doanh nghiệp trong khu đều có đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát riển, có năng
suất cao và được điều hành bởi các nhà khoa học và công nhân có trình độ và kinh
nghiệm cao.
Công nghệ sử dụng trong khu công nghệ cao mang tính tiên phong đi trước thời đại,
phát triển kinh doanh của doanh nghiệp trong nhiều trường hợp được coi là mạo hiểm và
có khả năng được bù đắp cao.
Trong khu công nghệ cao, còn tiến hành các dịch vụ nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ, thực hiện cchức năng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao.
3. Tính tất yếu khách quan về thành lập KCN tại Việt Nam
Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước việc hình thành và phát
triển KCN là đòi hỏi tất yếu khách quan , bởi vì đem lại vai trò vô cùng to lớn , điều này
nó được thể hiện :
-Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài.Vai trò này xuất
phát từ các ưư đãi và thuận lợi của các nhà đầu tư khi vào sản xuất tại KCN .
+Ưu đãi về tài chính : Thông thường nó bao gồm các ưu đãi về thuế nhập khẩu vật tư ,
thiết bị , nguyên liệu , thuế thu nhập công ty , thuế sở hữu tài sản , thuế thương mại ,
được vay vốn với mức lãi suất ưu đãi , một số KCN còn được ưu đãi về điện và nước .

+Thuận lợi về lao động
6
Chính quyền sở tại tạo mọi điều kiện để tuyển dụng lao động tại chỗ , đôi khi còn đưa
một số điều khoản hạn chế quyền của công nhân làm việc tại các KCN theo hướng có lợi
cho các công ty của KCN .
+KCN tạo khả năng áp dụng một hệ thống luật pháp nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu
của các nhà đầu tư nước ngoài , nhưng chỉ trên một địa bàn giới hạn . Thông thường các
quy định pháp ký của các KCN tương đối đơn giản , thông thoáng , dễ thực hiện nên hấp
dẫn các nhà đầu tư . Có thể xây dựng các quy chế này tương đối nhanh chóng , không
gây mâu thuẫn với hệ thống pháp luật hiện có , và giới hạn địa bàn áp dụng là khu vưc
nhỏ với khả năng kiểm soát dễ dàng .

Với đặc tính trên KCN tạo khả năng thuận lợi để đạt được yêu cầu đề ra khi thu hút
vốn đầu tư . Do môi trường đầu tư thuận lợi nên doanh nghiệp nước ngài có thể đưa vốn
đầu tư lớn vào KCN để hoạt động . Họ có thể yên tâm với môi trường đầu tư hội đủ các
điều kiện cần thiết cho việc kinh doanh đạt hiệu quả cao , một địa bàn bảo đảm an ninh ,
an toàn xã hội .
-Chuyển giao công nghệ : Mặc dù tại KCN người ta chủ yếu thực hiện các thao tác lắp
ráp cấu kiện là chính và rất ít hoặc không có hoạt động nghiên cứu song chuyển giao
công nghệ ở đây vẫn diển ra thông qua một số hình thức sau :
+Đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc và công nghệ sản xuất .
+Công nhân được đào tạo về kỷ luật lao động ý thức đúng giờ , và thói quen lao động
công nghiệp .
+Các giám đốc , kỹ sư , kỹ thuật viên có được kỹ năng cần thiết của tác phong làm việc
công nghiệp trong quản lý và kiểm tra chất lượng .
Đồng thời những máy móc thiết bị hiện đại , công nghệ sản xuất hiện đại sẽ được áp
dụng sản xuất tại KCN , như thế sẽ nâng cao được mức độ trang bị và trình độ sử dụng
máy móc thiết bị tại nước sở tại .
-Tạo việc làm , giải quyết thất nghiệp
Việc thành lập KCN sẽ góp phần tích cực trong vấn đề giải quyết việc làm tại địa

phương . Ngoài một lực lượng lớn sẽ vào KCN để sản xuất trực tiếp thì nó còn tạo ra việc
làm cho hàng vạn lao động gián tiếp trong các ngành dịch vụ , xây dựng cơ bản phục vụ
cho quá trình phát triển KCN.
7
Đối tượng được thu hút chính vào làm việc tại các KCN thường là lao động phụ nữ
trẻ không có tay nghề từ các nông thôn ra . Sở dĩ các công ty này sử dụng các loại lao
động này vì :
+Phụ nữ phù hợp với các thao tác cần sự khéo léo .
+Phụ nữ có khả năng thích ứng với các hoạt động lắp ráp đơn điệu.
Thông thường tỷ lệ thất nghiệp tại các quốc gia đang phát triển thì tỷ lệ lao động nữ
chiếm rất cao . Nhưng với ưu tiên về lao động nữ tại các KCN thì nó đã phần nào giải
quyết được những vấn đề thất nghiệp tại các quốc gia này .
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu
Cùng với việc hình thành và phát triển KCN thì việc hình thành vùng nguyên liệu cho
KCN là cấp bách và cần thiết . Thay cho việc sản xuất lương thực nhân dân xung quanh
KCN sẽ được định hướng thay thế trong các loại nguyên liệu phục vụ cho nhà máy trong
KCN . Từ đó giúp nâng cao giá trị nông sản , mở rộng thị trường , thu hẹp khoảng cách
giữa các vùng , góp phần xoá đói giảm nghèo , và phát triển kinh tế .
-Cho phép khắc phục yếu kém về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là vấn đề quan trọng trong quá trình xây dựng KCN. Để có thể thu hút
được nhà đầu tư vào KCN không những cần phải có chính sách ưu đãi tốt , mà cần có cơ
sở hạ tầng tốt để đáp ứng nhu cầu sản xuất .
Cần có việc phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng tại KCN , bên cạnh đó việc đảm bảo hệ
thống nhà máy , các phòng ban , hệ thống dịch vụ trong các KCN cũng phải hoàn thiện
việc phát triển hệ thống các cơ sở hạ tầng ngoài KCN như : Làm đường giao thông , các
công trình nhà ở cho công nhân , các công trình phục vụ cho vui chơi ,giải trí …
Kết quả quá trình xây dựng đó đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của vùng , không ít
vùng nông thôn đất đai sinh lầy , hoang hoá , ít có khả năng sinh lợi sau khi xây dựng
KCN đã trở nên sầm uất , đời sống king tế xã hội được lột xác .
- Tạo ra mô hình kinh tế năng động đóng góp lớn vaòi tăng trưởng kinh tế

+KCN sẽ là nơi đào tạo cán bộ kỹ thuật năng động , công nhân lành nghề và cán bộ
quản lý có trình độ cao , đủ sức vươn ra thị trường thế giới .
+KCN sẽ là sợi dây nối liền giữa nền kinh tế thế giới và Việt Nam
8
+Hình thánh một số ngành công nghiệp mũi nhọn có khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới ( dệt may , đồ gia dụng , giày dép … )
+Nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng xuất khẩu của nền kinh tế .
+Phát triển các ngành công nghiệp theo đúng hướng , và quy hoạch chung .
+Các KCNgóp phần hình thành các khu kinh tế trọng điểm cho cả nước , đảm bảo
được yêu cầu về quy hoach vùng lãnh thổ .
II. Đánh giá tác động đến nền kinh tế nói chung
1. Những tác động tích cực
1.1. Thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước
Sự ra đời của các KCN là những mảnh đất màu mỡ cho ra đời trên 4400 doanh
nghiệp trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp,
với giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 31,9% (cao gấp đôi so với mức tăng giá
trị công nghiệp cả nước). Các khu công nghiệp Việt Nam đã thúc đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá Việt Nam.
Theo tính toán, gần 30.000 ha đất nông nghiệp hoặc vùng thị tứ kém phát triển trở
thành các KCN có cơ sở hạ tầng hiện đại và các vùng đô thị khang trang (xung quanh
KCN), thu hút hàng vạn doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đây là những hạt nhân quan
trọng thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Đến hết năm 2005, các KCN là nơi đào tạo thực tế 750.000 người nông dân, người
lao động phổ thông ở những nơi thị tứ trở thành người công nhân, và với tốc độ tăng
trưởng này, đến 2010 các KCN Việt Nam sẽ thu hút 2,5 triệu người. Đây là nguồn tài lực
để đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp phát triển ở trình độ thấp trở thành một nước
công nghiệp mới ở thập niên thứ 2 của thế kỷ 21.
Nhiều ngành công nghiệp: sản xuất xe hơi, sản xuất máy móc trang thiết bị, nguyên
vật liệu cao cấp… tại các KCN, đặc biệt công nghiệp hoá dầu tại khu Dung Quất đi vào
hoạt động, sẽ góp phần nâng cao chất lượng phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam.

Việc xây dựng các KCN không những tạo ra động lực thúc đẩy phát triển sản xuất
công nghiệp mà còn kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ phục vụ trực tiếp cho
hoạt động sản xuất công nghiệp trong KCN và hình thành mạng lưới dịch vụ phục vụ cho
nhu cầu của người lao động. Qua đó có thể thấy việc phát triển các KCN sẽ thúc đẩy quá
9
trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ và
giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế.
1.2. Tác động đến quá trình đô thị hoá
Sự phát triển các khu công nghiệp đã làm cho tiến trình đô thị hoá được diễn ra một
cách nhanh chóng hơn. Cụ thể là:
-Cơ sở hạ tầng của các vùng đất khu công nghiệp và xung quanh khu công nghiệp
được nâng cấp, và từ đó mọc lên những đô thị, nhiều nơi trở thành những thành phố sầm
uất, có đầy đủ điện, nước, đường xá, hệ thống thông tin liên lạc, các đường xá, công trình
phúc lợi hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
-Tạo ra sự thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu dân cư theo hướng: nâng cao tỷ lệ công
nhân, và tỷ lệ dân cư thành thị.
1.3. Tác động đến quá trình hoàn thiện cơ chế, chính sách làm cho môi trường đầu tư tại
các KCN nói riêng và cả nước nói chung tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các
doanh nghiệp hoạt động.
Các khu công nghiệp, thực tế đã trở thành “vườn ươm “ hay là nơi thử nghiệm các cơ
chế, chính sách mới, tiên tiến như: cơ chế “một cửa tại chỗ”, hay cơ chế “tự bảo đảm tài
chính” cũng như nhiều chính sách khác về hoàn thiện thủ tục kiểm hoá hải quan, phát
triển hoạt động tài chính – ngân hàng trong các khu công nghiệp có sự phối hợp của ban
quản lý khu công nghiệp. Tất cả đều tạo môi trường đầu tư tại các khu công nghiệp hấp
dẫn hơn.
1.4. Tác động thúc đẩy sự phát triển các loại hình dịch vụ
Sự phát triển các khu công nghiệp đã tạo cơ hội cho sự xuất hiện các hoạt động dịch
vụ chủ yếu sau: Dịch vụ cung cấp cơ sở hạ tầng: điện, nước, xử lý chất thải vv; dịch vụ
tài chính – ngân hàng; dịch vụ giao thông vận tải; dịch vụ kho, dịch vụ cun ứng; dịch vụ
xây dựng và cho thuê bất động sản; dịch vụ huấn luyện, đào tạo và cung cấp lao động;

dịch vụ lao động và chuyên gia như dịch vụ chợ, dịch vụ cho thuê nhà, dịch vụ văn hoá xã
hội. Các dịch vụ trên ra đời cùng với sự ra đời và phát triển của các khu công nghiệp,
đồng thời nó góp phần tạo nên sự tiẹn ích của các khu công nghiệp, làm cho môi trường
10
kinh doanh và môi trường sống tại các khu này được cải thiện theo hướng hiện đại hoá
và văn minh.
1.5 Tác động thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Các khía cạnh về hội nhập quốc tế được thúc đẩy nhờ sự phát triển các khu công
nghiệp, đó là: chính khu công nghiệp là nơi thử nghiệm đầu tiên chính sách thông thoáng
với các nhà đầu tư nước ngoài; tạo mũi nhọn cho việc thực hiện mở rộng quan hệ thương
mại quốc tế, kim ngạch xuất nhập đạt được tại các khu công nghiệp Việt Nam đã chiếm
khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tạo uy tín thương mại của
Việt Nam trên thị trường thế giới; tại các khu chế xuất, các doanh nghiệp chế xuất được
hưởng cơ chế hải quan thông thoáng hơn, giúp kích thích khả năng cạnh tranh, đáp ứng
được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Một số tác động tiêu cực trong phát triển KCN
2.1. Hiện tượng xé rào luật trong khuyến khích đầu tư vào KCN ở các địa phương
Hiện tượng 33 tỉnh, thành phố tự ý ban hành những ưu đãi riêng về thuế đất; giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp; tăng thêm thời gian ưu đãi cho các nhà đầu tư vào địa phương
mình mà chủ yếu vào các KCN gây ảnh hưởng đến kỷ cương và tính bền vững của môi
trường kinh doanh ở Việt Nam nói chung; tạo ra môi trường pháp lý “gồ ghề”, không nhất
quán, ganh đua không lành mạnh giữa các tỉnh trong việc đưa ra các ưu đãi trong đầu tư,
mà không đưa ra được chứng cứ cụ thể về hiệu quả của việc “xé rào” riêng trong việc xây
dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư. Trong khi đó, nhiều nhà đầu tư khi được tiếp thị
nhiều chính sách ưu đãi khác nhau của địa phương thì lại hồ nghi tính kỷ cương pháp luật
của môi trường đầu tư.
Trong một đánh giá mới đây của Chương trình phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) và
bộ phận tư vấn dịch vụ đầu tư nước ngoài (FIAS) của Ngân hàng Thế giới, hệ thống chính
sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam vốn thuộc hành rối rắm, phức tạp và khó hiểu nhất khu
vực . Sự phức tạp đó được nhân lên khi các địa phương ồ ạt xé rào. Họ đua nhau cạnh

tranh thu hút đầu tư bằng các chính sách ưu đãi mà không có những bằng chứng cụ thể về
11
hiệu quả của các chính sách đó. Nhưng mặt tiêu cực là khiến các nhà đầu tư giảm sự tin
cậy đã thể hiện rõ.
2.2. Phát triển KCN dẫn đến hiện tượng di dân tự do, ảnh hưởng tới an ninh, trật tự xã hội
ở nhiều vùng kinh tế
Trong số 750.000 lao động trong các KCN hiện nay, có đến 80% tập trung vào các
tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và trên 70% số lao động vùng này từ miền Trung
và miền Bắc tới. Cá biệt như Bình Dương, số lao động địa phương trong các KCN trong
tỉnh chỉ chiếm chưa đến 10% tổng số lao động. Họ tới vùng kinh tế phía Nam tự do hoặc
theo một số công ty lao động tư nhân thành lập mang tính tự phát. Đa số người lao động
có trình độ thấp, một số tội phạm núp bóng lý lịch người khác đến vùng này lao động, làm
cho tình hình an ninh, trật tự xã hội thêm phức tạp, khó quản lý.
iệc người lao động di cư một cách ồ ạt cũng dẫn đến các nhiều tác động không mong
muốn như sự quá tải về hạ tầng xã hội: Trường học, bệnh viện, đường xá… cũng như các
dịch vụ cho người lao động và gia đình họ tại địa phương nơi có KCN.
2.3. Sự phát triển KCN dẫn tới ô nhiễm môi trường
Như phần trên đã phân tích, việc thiếu vốn cộng với việc tiết kiệm chi phí đầu tư,
thêm vào đó là sự quản lý thiếu chặt chẽ, nên ở nhiều nơi, sự phát triển KCN đã ảnh
hưởng đến môi trường sống trên diện rộng ở mức đáng báo động. Nhiều KCN ở miền
Đông Nam bộ xả nước thải trực tiếp vào hệ thống sông Đồng Nai, làm ô nhiễm nặng, ảnh
hưởng đến nguồn nước sinh hoạt của hàng triệu người. Hay các KCN ở huyện Thuận An
đã xả chất thải làm ô nhiễm nguồn nước ngầm và đất, hậu quả là hàng trăm ha cây ăn
trái ở vùng Lái Thiêu (Bình Dương) có tuổi hàng chục năm bị thối gốc và chết hàng loạt,
nước sông Bình Dương bị ô nhiễm nặng. Nhiều nơi, dân phản đối, khiếu kiện vì môi
trường sống của họ gần KCN bị xuống cấp nặng nề.
2.4 Ảnh hưởng đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế
Chất lượng tăng trưởng kinh tế thể hiện ở tính bền vững và tính hiệu quả của quá
trình này. Trong nhiều trường hợp, do sự xuất hiện quá ồ ạt các khu công nghiệp hoặc
quy hoạch phát triển khu công nghiệp thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn chiến lược đã gây

ảnh hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là: tạo ra sự phát triển không
đồng bộ giữa trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp, tạo ra sự phân hoá rất rõ về mọi
12
mặt giữa trong và ngoài khu công nghiệp; gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa
các khu công nghiệp; thiếu sự liên kết giữa các khu ccông nghiệp trong cùng một vùng,
một địa phương, giữa các doanh nghiệpn trong cùng một khu công nghiệp và kết quả là
ảnh
PHẦN II. Thực trạng phát triển khu công nghiệp tai Việt Nam
I. Sự hình thành và phát triển các KCN ở nước ta
1. Các KCN hình thành từ những năm 1960 và 1970 theo mô hình công nghiệp của Liên
Xô cũ
Các KCN theo mô hình này tập trung ở một số thành phố khu vực phía Bắc: Hà Nội,
Hải Phòng, Thái Nguyên, Phú Thọ, vv. nhưng nhiều nhất là ở Hà Nội. Việc hình thành và
phát triển các KCN cũ ở nước ta trong những năm 60 và 70 của thế kỷ trước chưa có sự
định hình, qui hoạch như hiện nay. Có thể nói sự ra đời tự nhiên của một số nhà máy, xí
nghiệp là do sự đòi hỏi cần thiết trong phát triển kinh của đất nước, chưa tính đến các
yếu tố: sự phát triển, đô thị hoá của các thành phố, đặc biệt là vấn đề môi sinh. Do vậy,
những KCN này bộc lộ nhiều thiếu sót mà cho đến nay vẫn chưa hoàn toàn giải quyết
được. Riêng ở khu vực Hà Nội, thực trạng của các KCN này như sau:
Bảng 2: Các KCN theo mô hình cũ trên địa bàn Hà Nội
TT Khu công nghiệp Số doanh
nghiệp
Diện tích đất
(ha)
Nhân công
1 Minh Khai – Vĩnh Tuy – Mai Động 38 81 15.910
2 Giáp Bát – Trương Định 13 32 3.760
3 Văn Điển – Pháp Vân 14 39 59.000
4 Thượng Đình 29 76 17.270
5 Cầu Diễn – Mai Dịch 8 27 1.950

6 Gia Lâm – Yên Viên - Đức Giang 21 38 10.230
7 Đông Anh 22 68 8.280
8 Chèm 5 14 2.310
9 Cầu Bươu 5 4 1.390
Tổng cộng 155 379 120.100
Nguồn: Ban Quản lý các KCN và Chế xuất Hà Nội (2001): Đề xuất một số giải pháp về
quản lý Nhà nước để xây dựng và phát triển các KCN, KCX Hà Nội năm 2000 – 2010.
Với 9 KCN và tổng diện tích lên đến 379 ha, điểm yếu cơ bản của các KCN này là
thiếu quy hoạch, xây dựng thiếu đồng bộ, nhất là các cơ sở hạ tầng. Theo kết quả kiểm tra
13
gần đây của Thành phố Hà Nội, không một nhà máy, xí nghiệp nào trong các KCN này có
phương án xử lý bảo vệ môi trường. Trong khi đó, do hiện tượng quy hoạch lộn xộn,
trong khu vực nhà máy, xí nghiệp có đủ cả các công trình phục vụ sinh hoạt như: Nhà ở,
nhà trẻ, bệnh xá, cơ sở dịch vụ… gây ảnh hưởng rất lớn đến vệ sinh môi trường và sức
khoẻ của người dân bên trong và xung quan các KCN.
Bên cạnh đó, về tổ chức quản lý, không hề có cơ chế quản lý hành chính nhà nước của
chính quyền trên địa bàn có KCN. Điều này đương nhiên sẽ dẫn đến công tác quản lý lộn
xộn, thiếu trật tự, qui hoạch, gây ảnh hưởng đến tính bền vững KCN. Mặt khác, hầu hết
các KCN cũ được hình thành từ những năm trước do được xây dựng liền kề với các đô thị
cũ nên hiện tại đã, đang và sẽ nằm trong qui hoạch phát triển khu dân sinh của các thành
phố nên chúng gây ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề giải phóng mặt bằng, các vấn đề dân
sinh và giao thông đô thị.
2. Các KCN theo mô hình mới
Ngày 25/1/1991, Thủ tướng Chính phủ cấp giấy phép thành lập KCX Tân Thuận, được
xem là KCN tập trung đầu tiên ở Việt Nam. Từ đó, số lượng các KCN được thành lập
tăng qua các năm thể hiện sự quan tâm của các nhà đầu tư về một lĩnh vực đầu tư hiệu
quả. Trong 3 năm đầu, từ 1991-1993, cả nước chỉ có 2 KCN được thành lập là KCX Tân
Thuận và KCX Linh Trung 1 (thành phố Hồ Chí Minh), 2 năm 1994-1995 có thêm 5
KCN được thành lập. Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 có quy định về
việc khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX, việc “thí điểm” thành

lập các KCN từ 1992-1995 có thể nói là đã kết thúc, từ năm 1996 số lượng các KCN được
tăng lên đáng kể, riêng năm 1996 đã có 13 KCN được thành lập, cao gấp đôi so với giai
đoạn trước. Đặc biệt là năm 1997, Quy chế quản lý KCN, KCX và KCNC ban hành kèm
theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ ra đời và hướng dẫn hoạt động
của các KCN, KCX, tạo khung pháp lý thống nhất cho việc thành lập và hoạt động của
các KCN, vì thế các KCN đến năm 1997 đã là: 45 KCN, gấp 3,5 lần so với năm 1996.
Những năm sau đó, quy mô các KCN tăng tương đối đều đặn hàng năm với tốc độ
khoảng 20%/năm. Các KCN được thành lập tăng dần cùng với sự gia tăng vốn đầu tư xây
dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN. Đến thngs 4 năm 2005, đã có 133 KCN đã ra
đời, phân bố rộng khắp trên 45 tỉnh, thành phố. Trong đó, Đồng Nai là địa phương có
14
nhiều KCN nhất với 17 KCN, tổng diện tích đất là 4.264 ha (chiếm 16,1% tổng diện tích
đất KCN cả nước).
Bên cạnh đó còn có gần 500 khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ do địa phương tự thành
lập ở các tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tâp trung phân
tích các KCN do Chính phủ cấp phép thành lập. Sự phát triển các KCN được thể hiện qua
bảng sau:
Bảng 3: Tình hình phát triển các KCN ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2005
Năm Số KCN được cấp
giấy phép
Tổng số KCN (luỹ
kế)
Diện tích KCN được thành
lập mới và mở rộng
1991 1 1 300
1992 2 3 360
1993 1 4 24
1994 4 8 678
1995 5 13 1201
1996 15 28 340

1997 20 48 3355
1998 13 61 2625
1999 3 64 226
2000 1 65 335
2001 3 68 390
2002 10 78 2836
2003 21 99 3622
2004 15 114 4020
2005 16 130 3.387
Nguồn: Vụ Quản lý KCN và Chế xuất, Bộ KH và ĐT
Qua bảng trên ta thấy 2 giai đoạn 1996 – 1998 và 2000 – 2005 có sự “bùng nổ” về
phát triển KCN trong cả nước cả về số lượng và diện tích:
-Giai đoạn 1996 – 1998: Đây là giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á, có tác động
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế Việt Nam: xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, Tuy nhiên,
cũng trong giai đoạn này nhiều địa phương năng động đã đưa ra các biện pháp nhằm phục
hồi và phát triển kinh tế, trong đó được chú trọng là hình thành các KCN có cơ sở hạ tầng
tốt để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
15
Giai đoạn 2000 – 2005: Đây là giai đoạn Nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi, cải
thiện môi trường đầu tư, kinh doanh: Thực hiện Luật Doanh nghiệp; Luật ĐTNN sửa đổi;
ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ; cải tổ nền hành chính… Đây cũng là giai đoạn
đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Với các yếu tố này giúp cho số doanh
nghiệp trong nước tăng nhanh cùng với sự phục hồi của thu hút ĐTNN sau khủng hoảng
làm cho nhu cầu mặt bằng kinh doanh tăng cao. Do vậy, việc phát triển các KCN trong
giai đoạn này là yêu cầu mang tính tất yếu.
II. Thực trạng hoạt động các KCN nước ta hiện nay
1. Về giá thuê đất
Mức giá thuê đất thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: vị trí KCN, chất lượng hạ
tầng KCN, điều kiện thanh toán, các yếu tố môi trường bên ngoài KCN… Hiện nay giá
thuê đất cho sản xuất kinh doanh trong các KCN cả nước là rất khác nhau; giá cao nhất

lên đến 140 USD/ m2 cho 50 năm (hay 2,8 USD/m2/năm); trung bình cả nước là 54
USD/m2 cho 50 năm; giá thuê đất thấp nhất là tại các KCN Bình Định, Điện Ngọc –
Quảng Nam khoảng 15 USD/m2 cho 50 năm, thậm chí để thu hút đầu tư một số KCN ở
Quảng Nam (doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng là doanh nghiệp nhà nước địa phương)
còn không thu tiền thuê đất với nhiều dự án. Kết quả điều tra của Diễn đàn Phát triển
Việt Nam về tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư đối với 10 tỉnh, thành phố cho thấy vấn đề
này:
Hình 1: Giá thuê đất bình quân của một số tỉnh, thành phố trong cả nước
Đơn vị: USD/m2/năm
1.85
1.50
1.00
1.00
0.80
0.50
0.50
0.40
0.40
0.13
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
1.6
1.8
2.0

Thai
Binh
Hai
Duong
Da NangBac
Ninh
Hung
Yen
Hai
Phong
BR-VTBinh
Duong
HanoiHCMC
16
Nguồn: Kết quả điều tra của Diễn đàn phát triển Việt Nam, tháng 12 /2005
Theo hình trên chúng ta có thể thấy giá thuê đất bình quân ở TP. Hồ Chí Minh hiện
cao nhất cả nước, với mức giá cho thuê là 1,85 USD/m2/năm; tiếp theo đó là Hà Nội 1,5
USD/m2/năm; Bình Dương 1,0 và thấp nhất hiện là Thái Bình với mức giá cho thuê là
0,13 USD/m2/năm. Tuy nhiên, giá thuê đất rẻ chưa phải là yếu tố quan trọng quyết định
sự lựa chọn KCN của các nhà đầu tư vì nếu cơ sở hạ tầng không hoàn chỉnh, thủ tục
hành chính rườm rà, và đặc biệt là môi trường kinh doanh không hấp dẫn thì các KCN
cũng khó có thể thu hút các nhà đầu tư. Bằng chứng cho thấy các KCN khu vực miền
Trung dù có giá thuê đất rẻ nhưng tỷ lệ lấp đầy các KCN vẫn rất thấp.
Ở những nơi, KCN được xây dựng có vốn ngân sách hỗ trợ, các công ty cơ sở hạ tầng
hoạt động như một đơn vị hành chính có thu, thì tiền thuê đất rẻ, nó như là một nhân tố
xúc tiến đầu tư. Ngoài ra, khi vốn đầu tư được bỏ ra từ ngân sách địa phương để đầu tư
vào hạ tầng, nó tạo điều kiện cho ban quản lý KCN và chế xuất của tỉnh có thể lựa chọn
cấy giấy phép cho những dự án có lợi nhất cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
(dự án có hàm lượng công nghệ cao, ít ô nhiễm môi trường…) và có điều kiện để phát
triển các đô thị xung quanh KCN.

2. Về tình hình thu hút đầu tư
Các KCN ở Việt Nam đang là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài
nước, đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư, tạo nguồn vốn quan trọng cho
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng. Số lượng các dự án đầu tư và vốn đầu tư trong và ngoài nước vào KCN
tăng qua các năm thể hiện sự quan tâm của các nhà đầu tư về một địa bàn đầu tư có
nhiều ưu đãi và thuận lợi.
Nếu như đến 1995, chỉ có chưa đến 200 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động sản
xuất kinh doanh trong KCN với số vốn đầu tư đăng ký chưa đến 1.500 triệu đô và 190 tỷ
đồng thì đến cuối năm 2005 các KCN đã thu hút được 4.516 dự án với tổng vốn đầu tư
đăng ký 17,5 tỷ USD và trên 100.000 tỷ đồng (chưa kể 1.059 triệu USD và 31,3 nghìn tỷ
đồng đầu tư phát triển hạ tầng các KCN), gấp hơn 22 lần về số dự án và 16 lần về số vốn
đầu tư so với năm 1995. Trong số các dự án này, có 2.400 dự án đã đi vào hoạt động và
900 dự án khác đang triển khai xây dựng nhà xưởng.
17
Trong những năm đầu mới thành lập KCN (1992-1998), các nhà đầu tư nước ngoài
được khuyến khích đầu tư vào các KCN, KCX theo Luật Đầu tư nước ngoài, vì vậy, số dự
án đầu tư nước ngoài cùng với số vốn đầu tư ở giai đoạn này tăng với tốc độ cao và số
dự án có vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn nhiều so với số dự án đầu tư trong nước, trong
giai đoạn từ 1995-1998, số dự án đầu tư nước ngoài tăng bình quân hơn 40%/năm, số
vốn đầu tư đăng ký (lũy kế) tăng bình quân 60%/năm, số lượng các dự án có vốn đầu tư
nước ngoài lớn hơn từ 3-4 lần so với số dự án trong nước. Đồng thời, do tác động của
khủng hoảng kinh tế - tài chính tại Châu Á, số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài trong
những năm sau tăng với tốc độ chậm hơn, năm 1998-1999 số dự án tăng 20%, số vốn chỉ
tăng 8% và năm 1999-2000 số dự án tăng hơn 30% và số vốn tăng 40%.
Từ năm 1998 đến nay, số dự án đầu tư nước ngoài tăng bình quân 25% năm. Đến hết
năm 2005, cả nước có trên 2.202 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, cao hơn 17,8% so với
năm 2004.
Năm 1998, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành cùng với các Nghị
định quy định chi tiết thi hành có những ưu đãi và khuyến khích đối với các dự án trong

nước đầu tư vào KCN. Do vậy, số dự án trong nước vào KCN từ năm 1998 tăng đáng kể
(tính luỹ kế), năm 1998-1999 tăng 84% từ 132 dự án lên 244 dự án, giai đoạn 1999-2000
tăng 93% từ 244 dự án lên 472 dự án. Các năm sau tăng đều đặn bình quân khoảng 35%.
Cuối năm 2005, số dự án trong nước đạt 2.314 dự án tăng 46% so với năm 2004. Về số
vốn đầu tư, giai đoạn 1995-1998, vốn đầu tư của khu vực trong nước vào KCN tăng bình
quân mỗi năm khoảng 15% (tính luỹ kế), sau năm 1998, vốn đầu tư tăng với tốc độ cao
hơn, đặc biệt các năm 1999 và 2000 vốn đầu tư tăng đột biến, hơn 20 lần so với năm
trước do dự án Nhà máy điện Phú Mỹ I được triển khai tại KCN Phú Mỹ I (Bà Rịa - Vũng
Tàu). Hai năm gần đây, số dự án trong nước có tốc độ tăng khá nhưng vốn đầu tư mỗi dự
án tương đối thấp dẫn đến tốc độ tăng vốn đầu tư khá thấp, chỉ đạt khoảng 2%.
Những năm gần đây, số lượng các dự án trong nước tăng với tốc độ cao hơn so với
các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời
cùng với các Nghị định hướng dẫn đã dần đưa các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
của khu vực trong nước và ngoài nước về cùng một mặt bằng, vì vậy những năm tới dự
18
đoán số dự án trong nước vào KCN sẽ vượt số dự án có vốn đầu tư nước ngoài, những
năm tới số dự án trong nước dự đoán cao hơn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
3. Về tình hình sản xuất kinh doanh
KCN đã và đang góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Giai đoạn 1995-1998, các khu công nghiệp sau khi hoàn tất việc xây dựng cơ bản đã
đi vào hoạt động và thu hút đầu tư, các chỉ tiêu về giá trị sản xuất công nghiệp, xuất khẩu
và nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong KCN đều tăng năm sau cao hơn năm
trước. Giai đoạn 1998-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - tài chính, tình hình
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có giảm sút, do đó
ảnh hưởng tới tình hình hoạt động chung của các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là tình
hình xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp 1998-1999 chỉ tăng 6,9%, xuất khẩu 11,5%
và nộp ngân sách 23%.
Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và khu vực, tình hình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp KCN trở lại với tốc độ tăng trưởng cao, trong thời kỳ 2001 -

2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX (kể cả trong
nước và nước ngoài) ước đạt khoảng 44 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm, giá trị
xuất khẩu đạt trên 21 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm - cao hơn tốc độ tăng
trưởng bình quân giá trị xuất khẩu của cả nước (đạt bình quân khoảng 17%/năm), giá trị
nhập khẩu đạt khoảng 27 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm. Riêng năm 2005,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của các KCN đã đạt 14,4 tỷ USD, bằng 21,5% tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
KCN góp phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động và thúc đẩy
chuyển đổi cơ cấu lao động. Các KCN đã tạo ra một số lượng lớn việc làm, nâng cao
trình độ tay nghề và tương ứng với nó là thu nhập của người lao động, góp phần tạo ra
sự ổn định kinh tế và xã hội. Đến nay, các KCN đã tạo việc làm cho trên 0,74 triệu lao
động trực tiếp tăng gấp 3 lần so với năm 2001, 14 lần so với năm 1995 và gần 2 triệu lao
động gián tiếp.
Các doanh nghiệp KCN đã góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới trong nhiều
ngành kinh tế then chốt đối với sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, như ngành công
19
nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, dệt may, công nghiệp thực phẩm (đây là các dự án
thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao); các dự án công nghiệp nặng chủ yếu
tập trung trong lĩnh vực lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử; sắt thép, cơ khí; các ngành
công nghiệp kỹ thuật cao…
III.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI
1.Kết quả đạt được
Sự phát triến rầm rộ các KCN
Tính đến cuối năm 1997 cả nước có 48 KCN, trong đó Miền Bắc 10 KCN, Miền
Trung 6 KCN , Miền Nam là 32 KCN.
Sau ba năm tới tháng 3/2000 số lượng KCN trên toàn quốc là 65 KCN, được thủ
tướng chính phủ thành lập và cho thuê đất . Các KCN tập trung ở 27 tỉnh thành phố trực
thuộc trung ương , còn 34 tỉnh chưa có KCN. Diện tích đất đã cho công ty xây dựng cơ sở
ghạ tầng là 24.395 ha , diện tích đất KCN theo chi tiết là 5.350 ha . Diện tích đất của các
KCN đã lấp đầy 1.680 bằng 32% diện tích đất công nghiệp theo quy hoạch chi tiết . Và

48% diện tích đất đã tạo mặt bằng công nghiệp có các công trình hạ tầng có thể thu hút
đầu tư 1.680/3.550 và mặt bằng 24%tổng diện tích công nghiệp theo quy hoạch .
Các KCN đã đầu tư theo ba loại hình là KCN do các doanh nghiệp trong nước đầu tư
51 KCN . KCN liên doanh với nước ngoài là 13 KCN. KCN đầu tư 100% vốn nước ngoài
1 KCN .
Các KCN đã đầu tư xong cơ sở hạ tầng là 16 KCN , các KCN đang đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng là 34 KCN , và KCN chưa đầu tư xây dựng là 15 KCN . Các KCN đã thực
hiện song đền bù giải phóng mặt bằng là 22 KCN , đang thực hiện đền bù là 13 KCN . .
*Thu hút được lượng vốn đầu tư lớn đồng thời tạo việc làm cho hàng vạn lao động .
Việc thu hút vốn đầu tư vào KCN đạt kết quả nhất định , số lượng các dự án được cấp
phép và đi vào sử dụng tăng liên tục qua các năm . Cùng với nó là việc thu hút lao động
rất lớn vào làm việc trong KCN , đó là dấu hiệu đang mừng . Theo số liệu thống kê , đến
cuối năm 1997 các KCN đã thu hút được 543 doanh nghiệp với tổng số vốn thu hút hiện
trên 2 tỷ USD , đã thu hút được 8.8 vạn lao động , không kể số lượng lao động xây dựng
cơ bản và làm việc trong lĩnh vực phục vụ cho KCN .
20
Cho đến cuối năm 1999 đã có 914 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động tổng số
vốn đăng ký là 7.8 tỷ USD , trong đó 569 doanh nghiệp nước ngoài vốn đănh ký 1800tỷ
tương đương 1.4 tỷ USD chiếm 36% số dự án và 17% tổng số vốn đầu tư . Trong tổng số
các doanh nghiệp được cấp phép hoạt động , đã thu hút được 14000 người lao động , tạo
sức mua cho thị trường trong nước 1000 tỷ đồng . Chỉ trong sáu tháng đầu năm 2000 đã
có thêm 68 giấy phép đầu tư nước ngoài đăng ký vào KCN với tổng số vốn đăng ký 186,3
triệu USD tăng 97 % về tổng dự án so với cùng kỳ năm trước. Do kinh doanh có hiệu quả
đã có 18 dự án mở rộng quy mô sản xuất với tổng số vốn đầu tư gần 80 triệu USD , đã thu
hút tới 180.000 lao động trực tiếp , đồng thời tạo việc làm cho hàng vạn lao động gián
tiếp .
Cho đến nay , đầu năm 2002 theo bộ kế hoạch và đầu tư thu hút 795 dự án của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , tổng số vốn đầu tư là 7.555 triệu USD , 674 dự án
trong nước tổng số vốn 30.090 tỷ đồng , tạo việc làm cho 233.000 lao động .
*Các KCN đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế . Hoạt động của các KCN đạt

được kết quả nhanh hơn so với nền kinh tế nói chung , ngành công nghiệp và các khu đầu
tư nước ngoài nói riêng và giữ được mức tăng trưởng cao qua mấy năm gần đây .
Năm 1997 : KCN đạt tổng giá trị sản lượng 1.155 triệu USD chiếm 15% giá trị sản xuất
công nghiệp . Đóng góp vào xuất khẩu 848 triệu USD gần bằng 10% giá trị xuất khẩu cả
nước , 47 % giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tăng
gần hai lần so với năm 1996
Năm 1998 : KCN đạt giá trị sản lượng 1.871 triệu USD, chiếm 20% sản xuất nông
nghiệp , đóng góp xuất khẩu 1300 triệu USD bằng 14% giá trị xuất khẩu của cả nước ,
65%giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 50% so với
năm 1997 .
Trong gần 10 tháng đầu năm 1999 tạo ra giá trị sản lượng 1,7 tỷ USD chiếm 20% giá trị
sản xuất công nghiệp cả nước , trong đó xuất khẩu đạt 1,1 tỷ USD chiếm 15% giá trị xuất
khẩu , tăng 20% so với năm 1998 .
Trong 6 tháng đầu năm 2000 tạo giá trị tổng sản lượng chiếm 25% giá trị tổng sản
lượng công nghiệp và chiếm 16 % giá trị xuất khẩu của cả nước , với doanh số đạt 1,5 tỷ
21
USD trong đó xuất khẩu đạt 1 tỷ . tăng 25 % so với năm 1999 về cả doanh số lẫn giá trị
xuất khẩu
2. Những tồn tại yếu kém
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của các KCN nói chung vẫn còn gặp
phải không ít những hạn chế, bao gồm:
- Xuất phát từ quan niệm trước đây về khu công nghiệp tập trung (như quy định trong
Nghị định 36/NĐ-CP/1997) là “khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập” cho nên các khu công nghiệp thường được lựa chọn bố trí tại những
địa điểm có những thuận lợi chủ yếu về hạ tầng kỹ thuật, xa khu vực dân cư và ít quan
tâm đến việc cung cấp các hạ tầng xã hội. Việc tập trung lao động quá cao ở một số khu
vực trong khi các điều kiện hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chung của khu vực (đường
giao thông, nhà ở, bệnh viện, trường học, trung tâm thưng mại ) chưa phát triển đồng bộ

để đáp ứng các nhu cầu đó, nên tạo ra tình trạng quá tải cho khu vực, có thể nhận thấy ở
các dấu hiệu như ách tắc giao thông vào các giờ cao điểm, giá cả sinh hoạt tăng cao, điều
kiện ăn ở của người lao động thấp, nguy cơ nảy sinh các hiện tượng xã hội khác như mất
an ninh trật tự,
- Nhiều khu công nghiệp tập trung ở khu vực phía Nam như ở các tỉnh Bình Dương,
Thành phố Hồ Chí Minh đang gặp phi những vấn đề về cung cấp lao động và cung cấp
các dịch vụ hạ tầng xã hội như các dịch vụ phục vụ cho việc đi lại, ăn ở, y tế chăm sóc
sức khoẻ cho người lao động
- Cho đến thời điểm giữa năm 2005, tại nhiều địa phương, tỷ lệ cho thuê đất, hạ tầng
khu công nghiệp còn ở mức thấp ngay cả đối với những khu được thành lập trước năm
1995. Trong số 12 khu thành lập trước 1995, chỉ có 6 khu có tỷ lệ lấp đầy trên 50%
1
, bao
gồm hai khu đã lấp đầy 100%. Cá biệt có khu Đài Tư (Hà Nội) tỷ lệ cho thuê mới đạt
khoảng 1,7%.
- Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp trong giai đoạn vừa qua
đang đứng trước một xu hướng không tích cực. Đó là:
1
22
+ Các khu công nghiệp thành lập trong giai đoạn sau có tốc độ quá nhanh làm giảm tính
hấp dẫn trong thu hút đầu tư của các khu công nghiệp thành lập trước đó, làm cho các
khu công nghiệp thành lập trong giai đoạn trước có tỷ lệ lấp đầy thấp (bình quân chỉ
57%)
+Tính hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài giảm sút: số khu, diện tích thành
lập tăng gấp 4-5 lần trong khi số dự án chỉ tăng gấp 1,7 lần và lượng vốn chỉ tăng 1,6
lần.
-Thực tế ở nhiều địa phương, một số khu công nghiệp (chưa được thành lập theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ) đã và đang bố trí tập trung các doanh nghiệp sn
xuất công nghiệp theo mô hình khu công nghiệp tập trung. Các địa điểm như vậy đang
gặp phải rất nhiều vấn đề liên quan đến việc đảm bảo hạ tầng khu công nghiệp và sự

phát triển bền vững của khu vực. Tại một số khu công nghiệp này, những hạng mục hạ
tầng cơ bản của khu công nghiệp chưa được xây dựng (hệ thống thoát nước và xử lý chất
thi, đường giao thông nội bộ ) đã làm nảy sinh nhiều vấn đề và hiện nay việc tổ chức xử
lý, đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp này gặp phải nhiều khó khăn
về vốn, về các giải pháp kỹ thuật và đặc biệt là phương thức kinh doanh hạ tầng
-Một số địa phương để chuẩn bị cho hình thành các khu công nghiệp đã cấp đất cho
các doanh nghiệp vào đầu tư mặc dù chưa có quy hoạch cụ thể (chi tiết) cho việc xây
dựng. Trong bố trí lựa chọn địa điểm, xuất phát từ tiêu chí thuận lợi về điều kiện hạ tầng
bên ngoài khu, nhiều khu công nghiệp được lựa chọn bố trí gần với các khu dân cư đô
thị, và đặc biệt là quá gần với các trục đường giao thông chính không đảm bảo khoảng
cách cần thiết và do vậy dẫn đến tình trạng bố trí dày đặc dọc hai bên các tuyến đường
quốc lộ chính (ví dụ đường 5), tạo ra sự tập trung quá mức, khó khăn về đảm bảo cung
cấp các điều kiện về hạ tầng.
-Cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực công nghiệp, các dự án FDI vào KCN hiện nay
chủ yếu là dự án công nghiệp nhẹ (dệt, sợi, may mặc, ) và công nghiệp thực phẩm là
các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao; các dự án công nghiệp nặng
chủ yếu tập trung trong lĩnh vực lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử; các ngành sản xuất
công nghiệp nặng khác như vật liệu xây dựng, hoá chất, điện, cơ khí còn khá khiêm tốn.
Hiện nay, chưa có được đánh giá đầy đủ về cơ cấu các ngành công nghiệp được đầu tư
23
trong các khu công nghiệp, nhưng có thể thấy rằng phần lớn các khu công nghiệp có cơ
cấu ngành nghề tương đối giống nhau. Đối với các khu công nghiệp ở các thành phố lớn,
nơi giới hạn về diện tích khu công nghiệp, các ngành có hàm lượng công nghệ cao chưa
được đầu tư phát triển, các dự án chủ yếu vẫn là các ngành sử dụng nhiều lao động.
-Bộ máy quản lý nhà nước về phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời
gian qua còn chậm được kiện toàn, chưa quy định rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý
nhà nước về phát triển các khu công nghiệp ở tầm vĩ mô. Ngày 15 tháng 8 năm 2000 Thủ
tướng Chính phủ đã có Quyết định số 100/2000/TTg về việc chuyển các Ban quản lý KCN
cấp tỉnh về trực thuộc Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh (trừ Ban quản lý KCN Dung Quất và
Ban quản lý KCN Việt Nam-Singapore). Tuy nhiên, mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm

vụ của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh cũng chậm được kiện toàn cần tiếp tục nghiên cứu
để hoàn thiện, phù hợp với tình hình mới.
-Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất chậm được sửa đổi và ban hành. Thực tiễn
quản lý trong những năm vừa qua phát sinh nhiều vấn đề bất cập liên quan đến Nghị
định 36/CP (hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các cơ quan liên quan sửa
đổi Quy chế và trình Thủ tướng Chính phủ - Các quy định trong Nghị định, Quy chế sửa
đổi nhìn chung đáp ứng được tình hình thực tiễn quản lý hiện nay).
PHẦN III. NHỮNG ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Trên cơ sở những nhận định về triển vọng phát triển công nghiệp Việt nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với những phân tích về thực trạng tình hình phát
triển của các khu công nghiệp chúng em đưa ra một số nhóm giải pháp và kiến nghị sau.
I.Giải pháp
1. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với phát triển KCN
1.1.Nâng cao chất lượng quy hoạch KCN
Qui hoạch được coi là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng phát triển bền vững
các khu công nghiệp, nó xác định khuôn khổ và phương hướng cho sự phát triển của các
24
khu này. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, thực tế công tác qui hoạch các khu công
nghiệp Việt Nam hiện còn rất nhiều bất cập và yếu kém.
Thứ nhất là qui hoạch các khu công nghiệp mới chỉ mang tính chất hình thức, vì thực
chất có nhiều khu công nghiệp đã được cấp phép mà không dựa vào qui hoạch (trong đó
nhiều khu công nghiệp được cấp phép hoạt động trong giai đoạn chưa có qui hoạch khu
công nghiệp, và những khu công nghiệp này hiện vẫn hoạt động có hiệu quả), nói một
cách khác, công tác qui hoạch còn đi sau so với sự tiến triển của tình hình và so với yêu
cầu thực tiễn phát triển các khu công nghiệp. Tình trạng này còn phổ biến hơn nếu xem
xét đến thực tế phát triển của các cụm công nghiệp địa phương không do Thủ tướng chính
phủ ra quyết định.
Thứ hai, việc xây dựng qui hoạch còn chưa tính toán đầy đủ các yếu tố phát triển,
chẳng hạn như chưa gắn kết qui hoạch khu công nghiệp với qui hoạch tổng thể phát triển

kinh tế xã hội của địa phương, chưa chú trọng đến yêu cầu phát triển bên ngoài hàng rào
khu công nghiệp, đặc biệt chưa chú trọng đến các yêu cầu về bảo vệ môi trường, giải
quyết các vấn đề xã hội do tác động trực tiếp của việc xây dựng các khu công nghiệp, vv.
Thứ ba, qui hoạch khu công nghiệp chưa thực sự tính đến lợi ích tổng thể mà chủ yếu
dựa vào yêu cầu của vùng, địa phương dẫn đến những quyết định duy ý chí (vì lợi ích cục
bộ), gây thiệt hại nhiều về kinh tế.
Thứ tư, tầm nhìn của qui hoạch khu công nghiệp còn hạn chế, thiếu tính phối hợp
đồng bộ giữa các ngành, các địa phương, dẫn đến tính chất manh mún, mất cân đối trong
việc bố trí xây dựng các khu công nghiệp.
Mặc dù hiện nay chúng ta đã có qui hoạch phát triển khu công nghiệp đến năm 2010
và đang trình phê duyệt qui hoạch đến năm 2020, nhưng trên cơ sở nghiên cứu tình hình
thực tế và phân tích kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải nâng cao
hơn nữa chất lượng công tác qui hoạch để tăng cường tính chất bền vững trong phát triển
các khu công nghiệp
1.2. Đa dạng hoá mô hình các khu công nghiệp.
Mô hình tổ chức các KCN cần phải đi sát với thực tế xu hướng phát triển KCN hiện
đại. Mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp ở nước ta (cũng như ở nhiều quốc gia khác)
trong những thập kỷ 1960, 1970 thiên về việc hình thành những tổ hợp công nghiệp có
25

×